(Chùa Diệu Tú, Hà Nội, ngày 30-6-2008) Ghi chép: Huỳnh Thị Nhã Phương
QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÔN GIÁO VÀ TRIẾT GIA
Nơi sẽ sinh về là mối quan tâm của nhiều người đang sống ở cõi sống
và cõi chết. Thỉnh thoảng, mỗi người trong chúng ta tự đặt câu hỏi: Ta
từ đâu đến? Chết đi về đâu?
Các tôn giáo và triết học đã nỗ lực tìm giải pháp cho hai câu hỏi
trên mà thực tế chẳng đơn giản tí nào. Các tôn giáo như Do Thái, Thiên
Chúa, Tin Lành, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo v.v… quan niệm rằng con
người đến là do Thượng đế ban tặng sự sống, và mượn bào thai của người
mẹ để hình thành. Các triết gia Hi Lạp cổ đại quan niệm rằng con người
đến từ Đất, Nước, Gió, Lửa. Triết gia chủ nghĩa duy vật hiện đại quan
niệm con người đến từ vật chất. Mỗi quan niệm về nguồn gốc có mặt của
con người đưa đến những học thuyết lý giải về sự ra đi và nơi chốn sinh
về khác nhau.
Các nhà duy vật cho rằng sau khi chết con người sẽ trở về với nguyên
lý vật chất. Đời sống con người chỉ có một kiếp sống duy nhất ở hiện
tại. Sinh ra từ vật chất, phát triển ý thức, sống và làm việc trong cuộc
đời; đến lúc già, bệnh và chết diễn ra là dấu chấm cuối cùng, và sau
cái chết sẽ không còn gì nữa. Quan điểm đó được đạo Phật cho là đoạn
kiến, nghĩa là cái nhìn bị giới hạn. Trong khi bản chất của thế giới
sinh học gồm con người và các loài động vật thì cái chết không phải là
dấu chấm cuối cùng. Cái chết giống như một con đường thẳng được nối kết
bằng nhiều dấu chấm và nhiều điểm khác nhau. Chết ở nơi này để tiếp nối
sự sống ở nơi khác. Các nhà tôn giáo học hữu thần cho rằng con người
được tạo ra bởi Thượng Đế và khi chết chỉ có hai cảnh giới tái sinh,
hoặc lên Thiên đường để hưởng nhân đức chúa đời đời kiếp kiếp nếu ai tin
Chúa. Trái lại, kẻ nào dám đặt vấn đề, thắc mắc về nội dung của kinh
Thánh, không tin theo thì được xem là con chiên ngoài đàng, sau khi chết
bị đày xuống hoả ngục và thiêu rụi đời đời kiếp kiếp. Quan niệm này
Phật giáo gọi là đoạn
kiến, bởi vì cấu trúc nhân quả trong đời sống về niềm tin tái sanh
đoản hậu như thế không phản ánh được bản chất vận hành trong từng hành
động, lời nói, việc làm và tư duy của con người.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh, đức Phật đề cập: chư pháp“bất sinh bất diệt”.
Bốn chữ này có ý nghĩa rất sâu sắc, có nghĩa là tất cả mọi sự vật, hiện
tượng không tự sinh ra và không tự mất đi vĩnh viễn. Định lý này được
khoa học ngày nay xác định như một nguyên lý, hay định luật bảo toàn
năng lượng của vật chất. Một cơn mưa nặng hạt từ trên vầng mây lửng
trong không gian, sau đó rơi xuống mặt đất. Nếu không có hệ thống thoát
nước thì chắc chắn thủ đô Hà Nội sẽ chìm trong biển nước. Nước thấm
xuống lòng đất sẽ bị mất đi, nhưng do tác động của khí hậu, nước lại bốc
hơi và trở thành mây, và cứ thế nó vận hành khi thì là mây, khi là hơi
nước, khi là mưa…Nguồn năng lượng được thay hình đổi dạng, không bị mất
đi một cách vĩnh viễn, đó là quy luật bảo toàn năng lượng.
Sự sống con người không phải do Thượng đế sinh ra. Vì theo đạo Phật,
Thượng đế không có thật, chỉ do niềm tin mê tín của con người nắn tạo ra
mà thôi. Một triết gia Đức từng phát biểu:“Thượng đế đã chết”, nghĩa là khi khoa học, kiến thức, trình độ, đạo đức của con người phát triển thì lúc đó niềm tin vào Thượng đế sẽ không còn.
Hậu quả của cái nhìn đoạn kiến sau khi con người chết là hết dẫn đến
một đời sống dễ dàng, buông lung. Bởi sự so sánh giữa người thiện và kẻ
ác đều có kết cục giống nhau thì cần chi phải làm lành lánh dữ. Có nhiều
người, dù không tin có đời sau nhưng do sự giáo dục, giao lưu, tiếp xúc
với người hiền lương, nên họ vẫn là con người tốt suốt quãng thời gian
có mặt trên đời. Người rơi vào hoàn cảnh nghèo, bị thúc ép bởi sức hút,
cám dỗ của xã hội… có thể trở thành kẻ buông lung, ăn chơi sa đoạ, đánh
mất trách nhiệm đạo đức về đời sống bản thân. Hậu quả
lối sống buông thả đó càng làm cho họ lún lút sâu trong vũng
lầy nghiệp xấu và tội ác.
CON THUYỀN VÀ LỤC BÌNH TRÔI SÔNG
Ngày 28- 06- 2008, sau khi thuyết giảng tại một số ngôi chùa ở Hà
Nội, tôi đến viếng thăm chùa Bồ Đề. Hôm ấy, tôi đi bộ dọc bờ sông Hồng.
Sông Hồng rất đẹp, trên mặt nước có vài chiếc lục bình đang trôi, xa xa
có vài chiếc thuyền. Nếu để ý quan sát cảnh lục bình trôi bồng bềnh trên
sông nước, có thể thấy đây là sự trôi vô định, không có mục đích. Bởi
bản chất của lục bình không có ý thức, trôi tùy theo thủy triều lên hoặc
xuống, tùy sức gió vận hành trên mặt nước, và có thể tấp dạt vào bờ.
Nhất là ở những đoạn khúc khuỷu, đôi lúc nó trôi ra giữa sông, hoặc đứng
yên tại chỗ. Việc trôi của lục bình hoàn toàn dựa vào duyên, mất sự chủ
định. Ngược lại, con thuyền trên sông nước lại có định hướng rõ ràng.
Chủ nhân con thuyền biết rõ mình xuất phát từ đâu, và chở hàng hoá cập
bến nào. Do có chủ định rõ nên thuyền sẽ không đậu vĩnh viễn trên sông,
mà nay chỗ này, mai chỗ khác. Chỉ cần so sánh hai hình ảnh giữa con
thuyền và lục bình trên sông Hồng cho thấy rõ có hai hình thái của sự đi
về.
Câu hỏi “chết đi về đâu” với sự so sánh giữa hai hình ảnh trên cho
thấy hai khuynh hướng. Thứ nhất, trong tình huống của chiếc thuyền có
người lái thì con người hay các loài động vật khi qua đời sẽ đi theo
nghiệp. Các năng lượng nghiệp sẽ chủ động dẫn dắt, đưa đường dẫn lối về
cảnh giới với nghiệp tương ứng, để tái sinh làm người với nhân quả tương
thích, hoặc ở cảnh giới thấp kém, hoặc ở cảnh giới cao thượng. Tình
huống lục bình trôi vô phương hướng tượng trưng cho người chết chưa có
sự chuẩn bị, thái độ không chấp nhận cái chết như một sự thật, cứ muốn
níu kéo, bám víu mãi. Vì vậy thần hồn vẩn vơ, lang thang vô định và
thiếu mục đích, nên phải chấp nhận tồn tại trong cảnh giới mà dân gian
thường gọi đó là cõi âm. Hương linh tồn tại trong thế giới
cõi âm với tính thời gian dài ngắn cũng tương tự như lục bình trôi
không có hướng đi về. Cách thức sống lảng vảng như vậy được gọi là ngạ
quỷ, tức là ma quỷ đói khát về cảm xúc, nhận thức, tiêu thụ và nhiều
phương diện hưởng thụ khác.
Tình trạng vô phương hướng trong tái sinh khiến hương linh tốn nhiều
năng lượng. Thay vì để các hạt giống mà họ từng gieo trồng trong suốt
quá trình sống có cơ hội trổ quả thì người không có phương hướng do vì
chấp trước, tiếc nuối, hận thù, oan ức nên phải bị kẹt lại, mất đi
khoảng thời gian trung chuyển quá dài. Điều này giống như sự hành hạ,
đày đoạ cảm xúc và tâm thức.
Hành giả là Phật tử có sự tu tập, được huấn luyên tâm thức, chấp nhận
vô thường và vô ngã thì khi cái chết diễn ra, xem đó là qui luật bình
thường. Ai có sự sống và được sinh ra từ cha mẹ thì chắc chắn phải trải
qua cái chết. Vấn đề còn lại là tính thời gian dẫn đến sự tương thích về
tuổi thọ hay yểu thọ mà thôi. Phủ định cái chết như một sự thật khiến
con người có mặt trong thế giới sự sống như chiếc lục bình trôi vô nghĩa
và khổ đau. Chính vì vậy, phải tập huấn luyện tâm thức theo cách làm
chủ hành động, nói theo ngôn ngữ Tịnh độ tông gọi đó là “Dự tri thời chí”, tức là nắm bắt và biết rõ giờ khắc mình sẽ ra đi và đi về đâu.
CẬN TỬ NGHIỆP CÓ ĐỊNH HƯỚNG
Phật giáo Tây Tạng huấn luyện các nhà sư về nghệ thuật sắp xếp cõi đi
về sau khi qua đời bằng sự phát nguyện, nghĩa là thoát khỏi vòng dẫn
dắt của nghiệp vốn giam hãm và trói buộc con người trong tiến trình tái
sinh. Vì có phát nguyện nên năng lực
đẩy con người đi vào cuộc đời, về ngay nơi mà họ muốn đến. Tuỳ theo
ước nguyện, mà sự đi về của mỗi con người đi theo một điểm đến nào đó,
theo sự sắp xếp (theo nghiệp), hoặc theo nguyện ước (theo phát tâm Bồ
đề). Các vị cao tăng, hành giả chứng đắc và người có sự huấn luyện, làm
chủ vận mệnh trong tái sinh đều có thể phát nguyện để đi vào cảnh giới
nhất định.
Hòa thượng Thích Trí Thủ, chủ tịch Giáo hội Phật giáo Việt Nam đầu
tiên phát nguyện đời đời kiếp kiếp tái sinh làm lại con người trong cõi
Ta bà này chỉ để làm một trong hai việc. Thứ nhất, nếu tái sinh dưới
hình thức là người cư sĩ, ngài phát nguyện sẽ là vị minh quân hay nguyên
thủ quốc gia để hướng dẫn mọi người trở về con đường chánh pháp, mang
đạo lý Phật truyền bá cho muôn dân; giúp dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, cơm no, áo ấm, lúa thóc được mùa, mưa
thuận gió hòa; chiến tranh, khủng bố, đói nghèo không còn nữa. Thứ hai,
nếu tái sinh là người tu sĩ, ngài phát nguyện luôn là người lãnh đạo
Giáo hội, để hướng dẫn cho các thế hệ sau đi đúng quỹ đạo của chánh
pháp, giúp ích cho người hữu duyên với Phật pháp.
Sự phát nguyện lúc lâm chung sẽ định thành cận tử nghiệp có định
hướng, giúp cho sự ra đi sẽ ở một trong hai nơi này. Ngài đã qua đời vào
năm 1984. Nếu áp dụng nguyên tắc tái sinh trung bình là 9 tháng 10 ngày
trong thai mẹ, cậu bé nào ra đời khoảng một năm sau trong khoảng thời
gian Hòa thượng viên tịch, chỉ cần quan sát tâm tính, hành động, lời
nói, việc làm có những dấu hiệu gần giống Hòa thượng lúc sanh tiền thì
đoán biết đó là hậu thân của Hòa thượng
Nghiệp do con người tạo ra trở thành chất keo gắn bó, nhất là những
gì gắn bó trong mấy mươi năm cuộc đời tạo cảm giác gần gũi, thân mật hơn
cái vừa mới quen. Ví dụ ở đạo tràng Pháp Hoa - chùa Diệu Tú này, phần
lớn quý Phật Tử mặc áo tràng lam theo văn hóa pháp phục của Phật giáo
miền Nam. Nếu đạo tràng này được thiết lập ở miền Bắc trong trong những
năm trước thì quý vị sẽ mặc áo tràng nâu của miền Bắc tượng trưng cho sự
thanh bần. Ai đã quen với áo tràng lam, đến cuối đời chắc chắn vẫn sẽ
tiếp tục mặc màu áo này. Áo tràng lam vẫn gắn bó hơn so với áo tràng
nâu. Hoặc quý vị nào có thói quen dùng xâu chuỗi để lần và niệm Phật,
giá trị xâu chuỗi có thể chẳng đáng là bao. Rồi quý vị được một nhà sư
tặng một xâu chuỗi khác bằng đá
quý, mà giá trị cao gấp nhiều lần so với xâu chuỗi mà mình đang lần
niệm, nhưng quý vị vẫn cảm thấy nó không quý bằng. Nếu được lựa chọn,
chắc chắn quý vị sẽ chọn xâu chuỗi gắn với sự hành trì của mình trong
nhiều năm qua.
Khi còn sống, bất cứ kỉ niệm vật nào đều tạo nên sự gắn bó. Đến lúc
qua đời, tất cả năng lượng, hành động, chức nghiệp, và sự hành thiện của
con người không bị mất đi. Theo nguyên lý bảo toàn năng lượng, nó tồn
tại cùng một lúc tại thời điểm mà ta đầu thai, tâm thức ta trở thành
phôi trong bào thai người mẹ. Vì vậy, nhiều cậu bé hay cô bé vừa mới
chào đời đã có những thiên hướng bẩm sinh, mà tâm lý học Phật giáo gọi
đó là:“câu sanh chủng tử”, tức là những hạt giống năng khiếu
xuất hiện ngay cùng thời điểm đứa bé ấy chào đời, khiến chúng có thói
quen chọn những vật liệu từng quen thuộc, gắn bó.
Hành giả nào ở đời trước từng có thói quen lần chuỗi, niệm Phật, khi
tái sinh ở đời sau nếu quan sát sẽ thấy rõ trong buổi lễ thôi nôi; đứa
bé ấy có khuynh hướng chọn xâu chuỗi - một vật liệu từng gắn bó với nó
từ đời trước. Nếu là một nhà sư tu hành chân chính, phát nguyện trở lại
cuộc đời để độ sinh, khi nhìn thấy xâu chuỗi, cái mỏ, cái chuông chắc
chắn đứa bé sẽ chọn những vật dụng biểu tượng của người tu. Bởi vì với
quá khứ từng là một nhà sư trong niềm an vui, hạnh phúc phục vụ nhân
sinh, khiến người đó có khuynh hướng gợi nhớ lại những hạt giống ấy.
Người tu có phương pháp có thể làm chủ được vận mệnh lúc lâm chung,
để tái sinh ở những gia đình thích hợp với nguyện ước của mình, tiếp tục
thực hiện công việc còn dở dang.
LÃO PHÚ HỘ VÀ THÂN PHẬN CON CHÓ
Chuyện kể có ông phú hộ giàu sang, phú quý nhưng lại keo kiệt. Ngoài
gia tài đồ sộ, ông còn có cả một lọ vàng và kim cương mà ngay cả vợ con
ông cũng giấu giếm không cho biết.
Một hôm, ông cho phép vợ con mình đi chơi xa, ở nhà ông đào một cái
hố nhỏ dưới gầm giường với độ sâu vừa đủ chôn hũ vàng và kim cương lấp
lại. Rồi đến một ngày, trong lúc đi đường thì tai nạn giao thông ập đến.
Ông đã chết bất đắc kỳ tử trong lúc vàng bạc, kim cương chưa kịp sử
dụng, vợ con cũng không hề hay biết. Ông tiếc nuối vô cùng, chính cái
tâm luyến tiếc ấy đã khiến ông tái sinh làm con chó được sinh ra trong
nhà của ông. Thời gian về sau, người con trai trong gia đình có cảm giác
thương con chó nhiều lắm, luôn gần gũi và ngủ chung với nó.
Mỗi ngày, nó được tắm gội, cho ăn uống thịnh soạn và được chủ dắt đi
dạo phố. Thậm chí ngay lúc còn sống, ông phú hộ chưa chắc nhận được sự
chăm sóc, hiếu thảo của người con chu đáo đến thế. Một hôm, đức Phật
cùng tăng đoàn đi khất thực ngang qua nhà ông phú hộ này, bỗng con chó
từ trong nhà nhảy ra sủa ầm ĩ. Khi ấy, đức Phật dừng lại, những người đệ
tử lo ngại con chó này sẽ cắn Ngài, nhưng đức Phật bảo:
- Không sao đâu, con chó này có duyên với ta đấy!
Con chó lại tiếp tục sủa ầm ĩ. Đức Phật quán tưởng và thấy rõ con chó
này tiền thân là lão phú hộ, do vì chấp trước vào vàng bạc, châu báu
nên phải tái sinh mang thân phận con chó để tiếp tục canh giữ của cải
ấy. Vì con chó không có ngôn ngữ truyền thông như con người, nên nó
không thể báo lại cho gia đình này biết. Mặc dù ngày nào nó cũng nằm
ngay vị trí gầm giường, nơi chôn giấu của cải. Đức Phật sờ vào đầu nó,
dùng năng lực từ bi truyền tần số tâm thức giúp nó nhớ được tiền kiếp
mình là phú hộ. Đột nhiên, nó ngưng bặt không sủa nữa. Ngài nói với con
chó:
- Mong mãn báo thân này, ông nhớ lại tiền thân của mình và hãy từ bỏ
sự luyến tiếc về gia tài. Lúc đó, ông mới có thể tái sinh làm con người,
được tiếp tục hưởng phước báu mà ông đã tạo.
Nhìn thấy con chó đang sủa mà bỗng dưng tắt lịm, người con
trai vừa ngạc nhiên vừa tức giận mắng chửi đức Phật:
- Ông đã làm gì con chó tôi mà đột nhiên nó im bặt vậy? Đức Phật nói:
- Này người trai trẻ, đừng vội nóng giận. Con chó này thực ra là cha
ruột của anh, do vì bị tiếc nuối nhiều quá nên ông ấy phải mang thân
phận là con chó nhà này.
Chàng thanh niên tức giận nói:
- Tại sao ông lại dám chửi bới tổ tiên tôi, bàn hương án của cha
tôi vẫn còn nghi ngút khói, sao ông dám bảo con chó là cha tôi?
Đức Phật nói:
- Nếu anh không tin, hãy vào ngay chiếc giường nơi cha anh
thường ngủ, phía dưới gầm giường đào xuống độ sâu khoảng
1,5m, sẽ thấy một lọ vàng và kim cương được chôn giấu bên dưới. Cha
anh vì tiếc nuối số của cải này mà đầu thai làm thân phận con chó, mỗi
ngày được ngủ dưới gầm giường để canh giữ.
Nghe đức Phật nói thế, người con trai ông phú hộ chợt nhớ lại suốt
thời gian qua, quả thật con chó này thường hay nằm dưới gầm giường. Thế
là anh cho người đào bới ngay vị trí đó, và quả thật tìm thấy hũ vàng.
Vì được sự hướng dẫn của đức Phật, nên chỉ một, hai ngày sau con chó đã
qua đời dù không bệnh tật gì. Bởi lẽ nó đã cảm nhận được, buông bỏ sự
tiếc nuối và chấp trước nên nhẹ nhàng ra đi. Đây là câu chuyện lịch sử
diễn ra trong thời của đức Phật.
Câu hỏi chết đi về đâu đã có lời giải đáp - chết đi theo nghiệp, đó
là công thức tổng quát. Nhiều người làm phước lành, gieo trồng công đức,
phước báu, mà lẽ ra nếu chịu buông xả, không còn tiếc nuối thì chắc
chắn họ sẽ tái sinh làm người để tiếp tục hưởng gia tài và các hạt giống
mà mình gieo trồng trong quá khứ. May mắn thay con chó này được gặp đức
Phật, nếu gặp những
người khác không có năng lực tha tâm thông, thiên nhãn thông thì
chẳng biết đến khi nào nó mới có thể đầu thai làm người.
BUÔNG XẢ ĐỂ NHẸ NHÀNG RA ĐI
Trạng thái tiếc nuối làm trì hoãn quá trình tái sinh làm con người ở
một hay nhiều kiếp. Cận tử nghiệp là nhận thức, thái độ, kéo theo hành
động trong những giờ phút cái chết sắp diễn ra. Trong tiến trình tái
sinh cũng vậy, có người mải mê nhìn ngắm hoa thơm cỏ lạ bên vệ đường mà
quên mất đường đi, mục đích và điểm đến của mình là đâu. Hành giả Tịnh
độ tông có điểm đến là Tây Phương Cực Lạc, nhưng khi qua đời không hướng
tâm về Tây Phương mà lại hướng tâm về ngôi nhà mình mới vừa xây xong
chưa kịp hưởng thụ, đành phải tái sinh trở lại ngôi nhà đó, làm người
con hay cháu ở nhà ấy. Những điều này đôi lúc chúng ta không tin nhưng
có thật. Các vị công thần với triều chính, suốt cuộc đời sống liêm minh,
đứng đắn, quên mình để phục vụ cho quê hương nhưng vì lời sàm tấu, bị
vua nghi oan nên phải tru di tam tộc. Chẳng hạn như cụ Nguyễn Trãi đến
mấy trăm năm sau mới được minh oan, hoặc ngài khai quốc công thần trạng
nguyên Lê Văn Thịnh và nhiều vị tướng tài ba lỗi lạc khác.
Những người chết trong nỗi hàm oan nếu không là Phật tử, được huấn
luyện kỹ về sự buông xả, lỡ mà chấp trước thì khó được siêu thoát. Họ bị
lẩn quẩn trong cái án mà danh thơm tiếng tốt của mình bị chôn vùi trong
tủi nhục, đau đớn, bị lịch sử khinh thường, phỉ nhổ, lúc đó tiến trình
ra đi sẽ bị trì hoãn lại. Trong những tình huống như thế, hương linh
thường về mách bảo, đưa đường chỉ lối cho con cháu biết để giúp họ tháo
mở nỗi hàm oan [...]
Câu chuyện thiền của Phật giáo Nhật Bản có dạy một câu rất sâu sắc chỉ với hai từ:“thế à”,
đó là cách thức đưa nỗi hàm oan ra bên ngoài, không than oán cuộc đời,
không qui trách nhiệm cho tha nhân, xem đó là chuyện không đáng để bận
lòng. “Thế
à” với nụ cười tươi, như một sự trả nghiệp, giải nghiệp oan
trái của mình với một người nào đó. Tuy nhiên, đạo Phật dạy muốn tháo gỡ
nỗi hàm oan thì cần phải lên tiếng, trình bày hoặc giải thích. Luận Bảo
Vương Tam Muội có dạy: “Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là hèn nhát.” Tôi khuyên quý vị không nên thực hành theo, bởi lời Phật dạy trong kinh xác thực hơn rất nhiều.
Đức Phật từng bị biết bao nỗi hàm oan trong cuộc đời với lời vu
khống, thị phi, nói xấu v.v… nhưng trước mỗi sự việc Ngài đều lên tiếng
như sau:“Điều này không có trong tôi, tôi không phải là tác giả của điều gán ghép này.”
Việc người ta có tin hay không thì tùy. Ít nhất về phương diện trách
nhiệm xã hội trong việc phơi bày chân lý, Ngài đã thực hiện trọn vẹn,
không rơi vào cái tôi bị tổn thương, cái tôi là nạn nhân, xem đây là cơ
hội để tuyên bố chân lý, vì vậy cái gút hàm oan được tháo gỡ phần nào.
Nếu bị oan mà không nói ra, người ta cứ ngỡ đó là sự thật, rồi những lời
vu khống, xấu xa được lan truyền khắp nơi, quần chúng mất hết niềm tin
về con đường đạo đức, gây nhiều trở ngại trong cuộc đời.
Dĩ nhiên, trong chế độ quân chủ, năng lực tự minh oan rất khó, bởi lẽ
ta nói chưa chắc vua đã nghe, và đôi lúc cũng không có cơ hội để phân
trần, nhưng khi tuyên ngôn rằng mình không phải là tác giả của việc ấy,
lập tức ta cũng học được bài học về sự buông xả, không giận hờn, hận thù
với người kết án sai hay cố tình hại ta. Thực tập được như thế, ta
không còn bị trở ngại trong tiến trình tái sinh, bằng không phải mất đến
vài mươi năm, vài trăm năm, hoặc kém may mắn hơn có thể là vài ngàn
năm. Như vậy trong tiến trình chết đi về đâu, người bị hàm oan nếu không
được tháo mở sẽ bám víu, tồn tại mãi với nỗi oan ấy, tiến trình tái
sinh cũng bị gián đoạn.
Một câu chuyện khác kể rằng, vị Hòa thương nọ đạo cao đức
trọng, những năm cuối đời có thú vui đam mê trồng hoa. Vườn hoa được
chính tay ông chăm sóc kỹ lưỡng, đến độ nó như một phần sự sống của ông.
Rồi đến một ngày, Hòa thượng viên tịch. Do bởi Hòa thượng ngày đêm nhớ
tưởng mãi về vườn hoa mà quên mất tâm Bồ đề, đành phải tái sinh làm con
sâu ngay vườn hoa ấy. May thay có một vị Hòa thượng khác biết việc này,
nên đứng bên con sâu bảo rằng:“Ngài là một vị Hòa thượng đức độ nhân từ, không nên luyến tiếc vào những bông hoa đẹp này.”
Nhờ sự hỗ trợ và nhắc nhở như thế khiến con sâu thức tỉnh, sớm từ bỏ
thân phận và tái sanh lại một tu sĩ, tiếp tục con đường Bồ-tát đạo. Đó
là những câu chuyện không nên xem thường và không tin. Những năm tháng
cuối đời, đừng để lòng tham, sân, si tác động, chi phối hoặc ảnh hưởng;
thái độ luyến tiếc, hận thù, hờn dỗi, oan ức bám vào mảnh đất tâm. Vì
như vậy, ta sẽ bị lẩn quẩn trong cảnh giới không tương ứng với nghiệp
phước mà mình đã gieo tạo. Dĩ nhiên, trong thời gian trung chuyển, nếu
ta bị vướng thì các phước báu từng gieo trồng bị mất đi, nó tồn tại dưới
dạng tích năng lượng, nhưng không đủ cơ hội phát triển. Trải qua nỗ lực
của tự thân hoặc thông qua khoá lễ cầu siêu, được hướng dẫn rủ bỏ sự
chấp trước, lúc đó nguồn năng lượng tái sinh mới tiếp tục ứng với nghiệp
cảm tương thích.
TÂM LÝ TRONG CẬN TỬ NGHIỆP
Tâm muốn về chỗ nào, nguồn năng lượng tái sinh đẩy ta về chỗ đó nhiều
hơn. Những đột biến thay đổi tâm lý vào giờ phút cuối cùng trước khi
chết có thể diễn ra theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Có người suốt cuộc
đời làm điều xấu, nhưng những năm tháng cuối đời được hướng dẫn điều
hiền lương, đạo đức, nên họ hồi đầu, ăn năn, sám hối, làm lành, ăn chay,
tu phước thì cận tử nghiệp này lại mở ra tiến trình tái sinh tốt đẹp.
Còn người tu hình thức, tức là chưa chuyển hoá được nội tâm, sự thanh
tịnh chưa trọn vẹn thì cận tử nghiệp ấy lại mở ra tiến trình tái sinh
xấu đi.
Tình huống của người bệnh xơ gan cổ trướng thường được hướng dẫn một
phương pháp cổ truyền rằng, nên ăn các loại ốc bươu bằm nhuyễn, nhất là
ăn sống sẽ tạo ra nguồn dưỡng chất giúp duy trì lá gan, trì hoãn tiến
trình xơ hoá dẫn đến cái chết. Nhiều Phật tử là con thảo cháu hiền phân
vân, chẳng biết có nên làm theo lời khuyên của y học cổ truyền hay
không. Họ đến chùa hỏi, và câu trả lời của tôi là đề nghị họ nên thương
thảo ý kiến người bệnh trước khi quyết định. Dù thương thảo hay quyết
định của tự thân, tôi luôn cân nhắc họ nên đặt lên bàn cân ba yếu tố
sau:
- Tính thời gian kéo dài sự sống cho bệnh nhân được bao lâu? Nếu theo
y học chỉ là một năm hoặc vài tháng tuỳ từng trường hợp phát hiện sớm
hay muộn thì đây không phải là giải pháp tối ưu. Bởi sớm muộn gì cái
chết cũng diễn ra, đôi lúc việc kéo dài thời gian chỉ làm tăng thêm tình
trạng khổ thọ, tức là duy trì dòng cảm xúc khổ đau, đau đớn trên cơ thể
bệnh nhân.
- Việc giết và làm thịt các loại ốc bươu mỗi ngày lên đến vài chục
con, và nếu trong vòng một năm như thế thì nghiệp sát sẽ tăng lên đến
hàng trăm lần. Phước tuổi thọ mà thân nhân giúp người bệnh chẳng đạt là
bao nhưng tác hại lại nhiều hơn, gây hậu quả yểu thọ và bệnh tật trong
tiến trình tái sinh ở đời sau thêm nặng nề.
- Trong thời gian được nuôi dưỡng bằng những thực phẩm tạo nghiệp sát
như thế, liệu người thân có hướng tâm về cảnh giới an lành hay không,
hoặc ngày đêm cứ nôm nốp lo sợ cái chết. Nếu cái chết diễn ra trong
trạng thái bị khủng hoảng tâm thức như thế là điều vô cùng nguy hại.
Chi bằng hướng dẫn tâm của người thân giúp họ bình thản đối với sự
sống và cái chết, không bận lòng bởi vì sớm hay muộn ai cũng phải một
lần trải qua. Vấn đề sống thọ hay chết
yểu không quan trọng. Điều quan trọng là sống như thế nào với chất
liệu và chất lượng ra sao. Nếu suốt quá trình sống ta làm lành lánh dữ,
an vui, hạnh phúc thì nghiệp này sẽ tạo ra tiến trình cận tử nghiệp có
cùng chiều hướng giống nhau, lúc đó tâm được an và ra đi nhẹ nhàng. Đó
là điều phúc cho người quá cố lẫn thân bằng quyến thuộc.
Người lớn tuổi khi được bác sĩ đề nghị muốn ăn gì thì cứ ăn, đừng nên
vì thế mà hưởng thụ quá nhiều. Bởi cái chết sẽ diễn ra sớm hơn và
nghiệp hưởng thụ này sẽ ám ảnh làm cho người đó khi tái sinh ở đời sau
lại tiếp tục làm người hưởng thụ. Trong khi suốt cuộc đời họ sống rất
hiền lương, nhưng lại bị thay đổi khuynh hướng nghiệp vào giờ phút cuối
đời từ tốt thành xấu là điều không nên. Nếu lỡ phát hiện ra mình mắc
phải những chứng bệnh nan y trong giai đoạn cuối, sự sống chỉ tồn tại
trong khoảng thời gian ngắn ngủi, người Phật tử hãy thản nhiên với điều
này và thốt lên một câu:“thế à”. Trạng thái không sợ hãi tạo
thành nguồn năng lượng kháng sinh giúp sống bình an và kéo dài cái chết.
Kháng thể đó lệ thuộc vào tâm lý tích cực hay tiêu cực.
Năm 2003, tôi được UNICEF tài trợ đến viếng thăm 10 trung tâm AIDS
của Phật giáo Thái Lan dọc theo biên giới Chiang-rai, Chiang-mai,
Chiang-nai giữa Thái Lan và Miến Điện. Các bệnh nhân nơi đây đều là
những người Thái ở vùng nông thôn nghèo khó. Do thiếu kiến thức về bảo
hộ sức khỏe, cái nghèo chi phối và do muốn có nhiều tiền nên nhiều chị
em đã trở thành nạn nhân của căn bệnh thế kỷ trên đất nước này.
Có dịp tiếp xúc với các bệnh nhân giai đoạn cuối, mỗi khi đến, tôi
đều tụng một bài kinh bằng tiếng Việt. Trong lúc thời kinh diễn ra, tôi
quan sát thấy một số bệnh nhân cố gượng ngồi dậy. Trong số đó có một phụ
nữ tuổi ngoài 30 với thân thể gầy còm cố gượng dậy mà không đủ sức. Tôi
ra dấu yêu cầu cô hãy nằm xuống. Cô cố gắng chắp tay để xá chào nhưng
với sức lực
yếu ớt khiến cô không thể nào đưa tay lên được. Trong lúc tôi tiếp
tục tập trung cao độ để tụng niệm, chưa hết bài thần Chú Đại Bi thì cô
đã qua đời. Trước khi qua đời, trên môi cô còn nở nụ cười mỉm khi sức
lực không còn và hơi đã tàn. Tình huống của người phụ nữ này sẽ là một
cảnh giới tái sinh rất tốt.
Tìm hiểu thông tin về người phụ nữ này, tôi được nhà sư trụ trì tại
ngôi chùa này cho biết, cô mắc phải căn bệnh này mới chỉ 3 năm. Thái độ
tâm lý tiêu cực sợ chết luôn là nỗi ám ảnh, hành hạ cô. Cô luôn nguyền
rủa người chồng ăn chơi trác táng đã truyền nhiễm bệnh cho cô và đứa
con. Vì mang tâm lý tiêu cực nên kháng thể trong cô tụt xuống nghiêm
trọng, khiến cô chết trước thời điểm.
Trong khi đó, đến viếng thăm một ngôi chùa khác cũng có một bệnh nhân
nữ mắc phải căn bệnh này hơn 10 năm rồi nhưng vẫn khỏe. Ngày nào cô
cũng tụng kinh niệm Phật, ngoài thời gian tu tập hành trì, cô còn nhận
đan mây tre lá thủ công tạo thêm nguồn thu nhập để điều trị bệnh. Khi
được phỏng vấn, cô cho biết không hề sợ hãi trước cái chết, vì đã có Tam
Bảo gia trì, đồng thời được quý thầy trong làng SIDA quanh khu vực
thiền viện quan tâm, nâng đỡ. Chính niềm hạnh phúc hân hoan đó tạo nguồn
kháng thể giúp cô kéo dài thêm sự sống. Tôi thiết nghĩ, nếu các trung
tâm từ thiện Phật giáo tạo được sự hỗ trợ cho người quá cố trong giai
đoạn cuối tương tự như Thái Lan là điều rất đáng tán thán.
THUẬT PHÓNG THÍCH TÂM LÝ TIÊU CỰC
Tôi có kinh nghiệm 5 năm đi thuyết giảng tại các trung tâm người già
tàn tật, trung tâm bảo trợ xã hội, trung tâm phục hồi nhân phẩm phụ nữ
v.v… Tại Trung tâm Bảo trợ Xã hội Tân Hiệp, tôi đã thành lập Ban hộ niệm
để hướng dẫn anh chị em nơi đây cách thức niệm Phật. Mỗi chuyến viếng
thăm, đoàn chúng tôi đều tặng xâu chuỗi và một vài quyển kinh. Tôi đề
nghị anh
chị em nơi đây khi thấy ai chuẩn bị lìa đời, hãy đến bên cạnh họ tụng
một bài kinh, giúp họ vơi bớt phần nào nỗi bất hạnh, mặc cảm, uất hận
vì không có người thân bên cạnh. Có như thế, tâm họ mới bình an, sự ra
đi trở nên nhẹ nhàng.
Trong chúng ta, ai cũng có nỗi bất hạnh không mặt này thì cũng mặt
khác. Vấn đề là ôm nỗi đau trong tâm sẽ biến ta trở thành nạn nhân, dù
đó là nỗi đau của 10 năm về trước hay mới là của ngày hôm qua. Người cố
chấp thường bám víu và giữ hoài nỗi đau suốt quãng đời tồn tại, khiến họ
không thể có an vui, hạnh phúc, bình an cho đến lúc trút hơi thở cuối
cùng. Đây là điều rất đáng tiếc.
Giám đốc Trung tâm Bảo trợ Người già Tàn tật Thạnh Lộc cho biết, kể
từ khi được nghe những bài thuyết giảng của tôi về các đề tài như: vượt
qua tuổi già, đối diện nỗi cô đơn tuổi già, sống hạnh phúc trong tuổi
già và chuyển hoá thói quen trong tuổi già thì các cụ từ 70 cho đến 95
tuổi sống hân hoan hơn. Tôi khuyên các cụ sau khi ăn cơm xong không nên
nằm hoặc ngồi, vì nó sinh ra các biến chứng bệnh tật, mà nên thực hành“Phạn thực kinh hành”,
nghĩa là ăn xong nên đi kinh hành. Nếu không tập luyện kinh hành được
cũng phải bách bộ khoảng nửa tiếng. Ban đầu có vẻ hơi khó vì các cụ phải
sử dụng gậy đỡ, nhưng nếu cố gắng một thời gian thì bệnh tật được đẩy
lùi. Những ai sợ đau nhức mà lười biếng tập luyện thì bệnh tật ngày một
gia tăng, tuổi thọ bị rút ngắn.
Thông thường, sau khi thuyết giảng, tôi đến từng trại tặng biếu quà
cho những người già vì sức khỏe yếu phải nằm một chỗ không đi lại được.
Ngang qua chiếc giường nọ có một bác trai khoảng hơn 75 tuổi, khi mở
chiếc mền ra, tôi nhìn thấy cơ chân ông bị teo nhỏ lại. Tìm hiểu nguyên
nhân, ông cho biết đó là do tai nạn giao thông. Ông mở chiếu và lấy ra
cho tôi xem hai tấm ảnh ép plastic chụp cơ thể ông khi còn là lực sĩ
cách đây mấy mươi năm.
Cơ thể to, đẹp với cơ bắp cuồn cuộn. Ông cho biết, mỗi ngày ông đều
tâm niệm mình từng là một lực sĩ, nên không có lý do gì phải sống vô
nghĩa. Dù hai chân không đi lại được nhưng còn hai tay vẫn có thể tập
luyện. Nói xong, ông mở nút áo cho tôi xem các cơ bắp trên thân thể ông
vẫn còn vạm vỡ, rắn chắc như thời còn trai trẻ. Lúc nào trên gương mặt
ông cũng nở nụ cười thật tươi mát. Đó là thái độ lạc quan giúp ta sống
có hạnh phúc, cho dù các giác quan không trọn vẹn và đầy đủ. Mỗi chúng
ta phải tập sống như thế trong mọi tình huống của cuộc đời.
Đứng trước nỗi khổ niềm đau, nếu biết tâm niệm:“thế à” thì khổ đau sẽ không có chỗ để bám víu. Là hành giả Tịnh độ tông, quý vị có thể sử dụng câu:“A-di-đà Phật” để thay thế rất hay. Ai nói oan ta, hãy nở nụ cười và nói:“A-di-đà Phật”, nỗi oan tức thì được tan biến. Ai phê bình, chỉ trích, dù ta đã giải thích nhưng họ vẫn không nghe, hãy nói“A-di-đà Phật”. Đây là cách giúp phóng thích ức chế tâm lý, giống như chữ:“thế à”, nhưng “thế à” nếu nói gằng giọng sẽ trở thành sự tức tối. Ngược lại, khi nói:“A-di-đà Phật” hoặc “Nam mô A-di-đà Phật” lại mang ý nghĩa “kính lạy đức Phật Vô Lượng Quang, kính lạy đức Phật Vô Lượng Thọ”.
Quang là trí tuệ, Thọ là sự bền bỉ, trí tuệ được khai thông, sự bền bỉ
được mở rộng thì không có lý do gì ta phải chán nản, thất vọng.
Người gặp nghịch cảnh, chướng duyên khi dấn thân làm công tác xã hội, Phật sự thường thề thốt: “tôi thề sẽ không làm nữa”, “tôi thề không bước chân đến ngôi chùa đó nữa”, “tôi thề sẽ không gặp người đó nữa” v.v… Đừng dại dột mà thề thốt như vậy, hãy nói “A-di-đà Phật”
rủ bỏ hết, chỉ còn lại tâm nhẹ nhàng, thư thái và bình an. Thực tập
niệm Phật buông bỏ những chấp trước trong cuộc đời, chẳng may vô thường
đến lúc nào, ta ra đi trong sự bình an lúc đó. Đó là chất lượng của đời
sống hạnh phúc.
Ngày 02- 05-2008, cơn bão Na-grít đi ngang qua Miến Điện
đã để lại cái chết cho hơn 140.000 người với nỗi đau mất mát người
thân, cùng nhiều công trình xây dựng bị đổ nát, gây thiệt hại về kinh
tế không nhỏ. Mười ngày sau, vào ngày 12- 05-
2008 (2 ngày trước khi đại lễ Phật Đản LHQ 2008 khai mạc) trận động
đất ở tỉnh Tứ Xuyên - Trung Quốc lại cướp đi mạng sống và mất tích của
trên 80.000 người. Đặt câu hỏi: những người chết trong thiên tai đó sẽ
đi về đâu? Câu trả lời là tùy. Bởi cái chết thường làm người ta sợ hãi
và kháng cự lại như một phản ứng tất yếu, điều đó dẫn đến sự tiếc nuối.
Vì vậy, thân bằng quyến thuộc của các nạn nhân cần tổ chức lễ cầu siêu
giúp họ được siêu thoát.
Phật giáo Tích Lan, Miến Điện, Trung Quốc, Việt Nam đã làm lễ cầu
siêu tập thể cho những người này. Với tư cách là Tổng thư ký Ủy ban tổ
chức quốc tế, tôi đã trình với ủy ban tổ chức và chính phủ Việt Nam cho
phép làm lễ cầu siêu tập thể đến ba lần. Lần thứ nhất vào ngày khai mạc
với một phút mặc niệm để chuyển năng lượng từ bi, giúp các nạn nhân
buông bỏ sự chấp trước, tiếc nuối. Lần thứ hai vào chiều ngày 14/05, do
Phật Giáo Miến Điện thực hiện ngay tại khán đài của Trung tâm Hội nghị
Quốc gia, và lần thứ ba vào đêm 16/05 (đêm bế mạc) tại Trung tâm Hội
nghị Quốc gia, 10.000 ngọn nến được thắp sáng và lễ cầu siêu được truyền
hình trực tiếp trên VTV1, sau
đó phát sóng trên VTV3 và VTV4. Các đại biểu đến từ 74 quốc gia và
trên 600 phái đoàn, cùng với chư tôn đức từ mọi miền đất nước đã hướng
tâm truyền năng lượng vô thường, vô ngã giúp hương linh rủ bỏ sự
chấp trước. Hy vọng rằng trong số đó sẽ
có những người hữu duyên nương theo nguồn tâm lượng sống
để siêu sinh thoát hóa. Ai cố chấp, bám víu, không nghe lời có thể bị
vướng lụy trong tiến trình tái sinh. Cần nhấn mạnh rằng không nhất
thiết ai chết một cách bất đắc kỳ tử, mà theo kinh Dược Sư gọi là hoạnh tử đều không siêu sinh được, nhất là cái chết chỉ diễn ra trong tích tắc. Nếu trong tiến trình chết mà nỗi
sợ hãi không có mặt thì sự ra đi tương đối nhẹ nhàng.
Ai đã từng xem qua bộ phim “Titanic” sẽ
thấy rõ. Khi chiếc thuyền sắp chìm xuống lòng biển, đạo diễn bộ phim đã
tinh ý tạo ra một tình tiết khá ấn tượng. Vị mục sư trên tay cầm xâu
chuỗi, khuyên các tín đồ trên tàu hãy tin vào Chúa, Chúa sẽ cứu họ bình
an và sự sống. Ồng yêu cầu mọi người hãy đọc kinh Thánh. Các tín đồ
trung thành người níu tay, kẻ nắm lấy vạt áo, người này níu lấy người
kia, nhắm mắt lại mà tập trung đọc tụng. Trong khi đó, góc cận cảnh quay
gương mặt của vị mục sư lại đang méo mó, trông thiểu não và sợ chết vô
cùng. Cuối cùng rồi cái chết cũng diễn ra. Nếu phân tích về cái chết thì
vị mục sư đó sẽ khó được siêu. Ngược lại, các tín đồ của ông lại dễ
siêu thoát hơn. Do bởi họ thành tâm hướng về Chúa nên trạng thái tâm lý
được thư thái, nhẹ nhàng. Người sợ chết và kháng cự cái chết sẽ ra đi
trong trạng thái bấn loạn tâm thức nên khó được siêu.
LỰA CHỌN CÕI ĐI VỀ
Mấu chốt quan trọng là cần huấn luyện, làm chủ tâm thức trong lúc
sống thì khi vô thường, tang tóc đến, ta giữ được trạng thái nhất tâm
bất loạn hướng về Tây phương Cực Lạc để ra đi. Hoặc nếu ai thích tiếp
tục làm con người ở hành tinh này, mong mỏi mình trở thành nhà khoa học,
nhà giáo dục, nhà nghệ thuật, nhà từ thiện v.v… thì hãy hướng tâm về
điều này. Khi ấy, người đó lại tiếp tục tái sinh ở những gia đình tương
thích về nghiệp cảm để thực hiện phận sự hay mong mỏi đó. Đi theo ước
nguyện thì sự ra đi có chỗ để đi về. Cõi đi về của con người là đi theo
nghiệp hoặc theo phát nguyện.
Trong bản đồ 10 pháp giới, có 6 pháp giới thuộc cõi phàm,
4 pháp giới thuộc cõi thánh. Trong 4 cõi Thánh có Phật, Bồ-tát,
A-la-hán, và Thanh văn (Thanh văn gồm hai loại Độc giác và Duyên giác).
Trong 6 cõi phàm gồm: thứ nhất là chư Thiên, nghĩa là con người ngoài
hành tinh có phước báu, tuổi thọ, hình
thù, sức khỏe, và sự bình an cao hơn con người ở cõi Ta bà này. Thứ
hai là nhân, nghĩa là con người chúng ta, sống trong kiếp người ở hành
tinh cõi Ta bà này được xem là trung bình về phước và nghiệp.
Thứ ba là A-tu-la, được gọi là các vị thần. Ở Việt Nam, A-tu-la được
tôn thờ ở Đình, Bà được tôn thờ ở Miếu. Văn hóa Đình ở miền Bắc gắn liền
với chùa, Đình thường được xây dựng cạnh chùa. Đình thờ những vị quan
tướng giỏi có công với quê hương xã tắc, còn được gọi là Thần Hoàng của
địa phương. Đây là một nghệ thuật nhớ ơn và ghi nhận công đức của những
người có công đóng góp cho quê hương xã tắc.
Bà gắn liền với sự hộ mệnh của một số khu vực. Khi vô tình ta nghe
nói Đình chỗ này hoặc Bà chỗ kia linh lắm, nếu đó là một sự thật thì
biết rằng Ông thần hay Bà thần đó chưa siêu. Sự tồn tại của họ là đày
đọa xác thân trong kiếp luân trần sinh giới. May mắn thay nền văn hoá
miền Bắc, Đền sát cạnh ngôi chùa nên những vị thần linh đó có điều kiện
nương vào cửa Phật, ngộ được lý vô thường, vô ngã mà siêu thoát. Đồng
thời, nó cũng là phương tiện giúp cho quý ông khi vào Đình bái viếng có
dịp ghé sang lễ bái Phật. Quan niệm sai lầm trong dân gian cho rằng Đình
dành cho quý ông, chùa dành cho quý bà. Đình gắn liền với một chính
thể, quý ông có cơ hội đến để bàn luận chính trị, và sau những cuộc bàn
luận là rượu chè, nhậu nhẹt bê bết.
Trái lại, vào chùa với khung cảnh trang nghiêm, thanh tịnh thì tư
cách con người phải nhân từ, đạo đức. Quý ông rất ngại đến chùa vì không
thể nhậu nhẹt hay bàn chuyện chính trị. Thực ra, chùa không chỉ dành
riêng cho quý bà mà dành cho tất cả mọi giới, mọi thành phần, và mọi lứa
tuổi. Văn hóa chùa có Bi, Trí và Dũng. Bi tạo nên tình thương lớn để
chia sẻ khổ đau, mang an vui, hạnh phúc cho cuộc đời. Trí tạo ra con
đường nhận thức quan, nhân sinh quan chuẩn xác, sống trên nhân quả và
đạo đức. Dũng tạo nên sự bất khuất, kiên cường. Do đó, văn
hóa Chùa hơn hẳn văn hóa Đình.
Thứ tư là súc sinh, những ai lúc còn sống đặt nặng sự hưởng thụ dục
lạc đến độ sa đọa, tâm độc ác, thú tính, hoặc tiếc nuối tài sản, sau khi
chết nếu hết phước phải sinh vào loài cầm thú, gia súc. Đó là bất hạnh
lớn vì loài thú không phát triển ý thức. Khi mang thân phận của loài cầm
thú, gia súc thì chẳng biết đến kiếp nào mới có thể đầu thai làm người.
Loài thú trong các rạp xiếc có năng lực ngoại cảm mạnh nên nghe, cảm
nhận được ngôn ngữ và thực hành theo sự huấn luyện của con người, nhất
là loài chó, cá heo, khỉ…Vì vậy, nghiệp phàm phu của chúng được chuyển
hóa, và sau khi chết có thể được giải nghiệp, tái sanh làm con người
nhanh hơn. Vấn đề quan trọng vẫn là rũ bỏ và không chấp trước thì mới có
thể siêu thoát.
Thứ năm là ngạ quỷ, cảnh giới ngạ quỷ không nằm ở dưới lòng đất mà
dân gian thường gọi đó là âm phủ. Trên thực tế không có âm phủ, chỉ có
cảnh giới trung chuyển sau cái chết do vì tiếc nuối, bám víu nên không
ra đi và tái sinh được mà thôi. Hương linh có thể tồn tại nơi mồ mả, bàn
hương án, ở bên cạnh hay trong ngôi nhà của ta, hoặc nơi mà cái chết đã
diễn ra, và họ có mặt giữa ban ngày chứ không chỉ vào ban đêm mà thôi.
Đa số hương linh đều rất cần sự giúp đỡ của những người còn sống. Do đó,
ta không nên sợ ma, vì ma không thể hại con người. Ma là đối tượng đáng
thương do vì oan ức, tiếc nuối, hận thù, không biết cách tháo gỡ nên họ
cứ lẩn quẩn trong cảnh giới sinh tử không siêu thoát được. Ta cần thực
tập lòng từ bi hỗ trợ cho hương linh rủ bỏ thân phận khổ đau thông qua
các khoá lễ cầu siêu.
Thứ sáu là địa ngục, địa ngục không có thật, chỉ là cách để răn dạy
con người về phương diện nhân quả. So sánh hình ảnh giữa hai cảnh giới
ngạ quỷ và địa ngục được mô tả trong Phật Giáo sẽ thấy hình thù, vóc
dáng của hai cảnh giới này tương đối giống nhau. Cảnh giới ngạ quỷ
với đống xương khô, còn
địa ngục với cảnh xử các tội nhân bằng nhiều cách thức chỉ là sự hình
dung, mô phỏng mà thôi. Thực tế, không có địa ngục thật mà chỉ có địa
ngục ở trần gian. Theo kinh Địa Tạng định nghĩa, địa ngục là
nỗi đau được tiếp nối không gián đoạn. Hai vợ chồng sống mà không tâm
đầu ý hợp, người này nói một câu thì người kia đáp trả lại, hơn thua
nhau từng li từng tí, hận thù chất chồng, khổ đau tiếp nối thì đó được
gọi là địa ngục ở trần gian. Hoặc kẻ làm ác liên tục tạo nỗi khổ niềm
đau thì xem như đang thiết lập địa ngục cho bản thân.
Trên thực tế chỉ có tám cảnh giới mà trong đó Thanh văn, Duyên giác
và A-la-hán là ba danh xưng khác nhau nhưng chỉ chung một trình độ tâm
linh, đó là giải thoát – tức là tứ quả. Bậc Thánh chỉ có ba gồm: Phật,
Bồ-tát và A-la-hán. A-la-hán được gọi là Thanh văn, Duyên giác, Độc
giác. Bậc phàm gồm năm cảnh giới: nhân, thiên, A-tu-la, ngạ quỷ và súc
sinh. Tám cảnh giới này là hệ vận chuyển trên tâm thức nghiệp hoặc phước
của con người. Vì vậy, khi chết con người đi theo nghiệp hoặc phước.
Trong nghi thức Kinh tụng hàng ngày (tổng hợp 49 bài kinh) do tôi biên
soạn từ năm 1994 và được ấn tống nhiều lần, ở phần sám có bài “Quán Tưởng” như sau:
Chúng sanh rồi phải bị già,
Không ai tránh khỏi lúc qua canh tàn.
Chúng sanh bệnh tật phải mang,
Không ai sống mãi bình an, mạnh lành.
Chúng sanh, sự chết sẵn dành,
Không ai tránh khỏi tử sanh đến kỳ.
Chúng sanh phải chịu chia ly,
Giã từ tất cả, ra đi một mình
Mang theo gánh nghiệp ba sinh,
Theo ta như bóng theo hình không buông.
Nay con nương đấng Pháp Vương
Niết-bàn chứng đắc, cát tường an vui.
Đây là một chân lý cần phải ghi nhận. Tiến trình tái sinh chết đi về
đâu lệ thuộc nhiều vào nghiệp. Nghiệp phước dẫn đến cảnh giới tái sinh
tốt, hoặc nghiệp tội dẫn đến cảnh giới tái sinh xấu. Tin tưởng vào nhân
quả sẽ có một cảnh giới tái sinh an lành. Điều quan trọng nhất phải rũ
bỏ sự chấp trước mới có thể ra đi nhẹ nhàng.