Thanh niên TPHCM đốt
nến trong đêm phát động Giờ Trái đất 2011
Nếu dùng chữ Bình minh tượng trưng cho sự bắt đầu của buổi sáng, thì ý nghĩa
chữ này, cùng một lúc mà mang hai hành động thấy cũng hay. Bởi vì nó là giao
điểm giữa sự kết thúc của màn đêm và sự khởi đầu của những tia nắng rạng đông.
Hoàng hôn là chữ phản nghĩa của Bình minh.
Trong ý nghĩa chung người ta thường gọi
những phần ánh sáng cuối cùng còn lại của Mặt Trời sau khi lặn đang chấm
dứt ở phía dưới đường chân trời, để nhường lại cho sự khởi đầu của
ngày trở thành đêm là Hoàng hôn.
Bình minh và Hoàng hôn là hai thế giới khác nhau trong
thiên nhiên nhưng chúng không bao giờ tách rời. Cả hai đều liên
kết chung trong một quá trình biến đổi nối tiếp để duy trì nhịp sống thăng bằng
về mặt tinh thần cũng như thể xác cho con người và vạn vật qua đặc tính chung
hay riêng của chúng.
Ánh sáng và Bóng tối là biểu tượng phổ quát cơ bản góp phần xây
dựng xã hội nhân loại. Thí dụ như : Nhờ vào ánh sáng rực rỡ của Bình minh mà con
người
gây thêm nguồn cảm hứng sinh động trước khi bước vào một ngày
làm việc để nuôi sống bản thân và gia đình theo nhu cầu thường nhật, hay nhờ vào
lúc Mặt trời gần chìm khuất hẳn ở phía dưới đường chân trời, làm điểm báo hiệu
cho con người trở về tổ ấm gia đình để tận hưởng những giờ phút nghỉ ngơi cho
thư giãn và quên đi những ưu tư phiền muộn, đầy mệt nhọc của một ngày làm việc
vất vả đã trôi qua.
Bình minh và Hoàng hôn, tuy là hai lãnh vực khác nhau, đôi khi
Hoàng hôn của người này nhưng lại là Bình minh của người khác, được thấy qua
hình ảnh của những người làm việc theo các giờ giấc khác nhau trong một ngày hay
ở những nơi khác biệt trên địa cầu… Tuy có sự khác nhau về bản chất nhưng Bình
minh và Hoàng hôn đều vẫn giống nhau ở hình của một trái banh tròn màu đỏ cam,
được nhìn thấy khi mặt trời mọc và lặn và thời điểm ánh sáng của chúng mang một
đặc tính chung là ít ánh sáng, nhưng rất đẹp kỳ diệu, bí ẩn, luôn thay đổi không
ngừng, không như các khoảng khắc
khác trong
ngày.
Không có Mặt trời, Mặt trăng,Trái đất và quá trình phát triển di
động riêng của chúng liên kết lại với nhau thì sẽ không có Bình minh và Hoàng
hôn. Mặc
dù Bình minh và Hoàng hôn không có bản tánh thực của chúng nhưng
khoảng khắc lớn nằm giữa Bình minh và Hoàng hôn là một chuỗi nối tiếp riêng biệt
của từng khoảnh khắc nhỏ
trôi qua và lập lại theo chu kỳ
thiên nhiên của chúng, đã tạo thành khái niệm cho việc
tìm tòi và phát triễn của những phương thức xác định đại lượng cho việc canh đo
thời gian.
Tư thời xưa người ta dùng mặt trời để ấn định thời gian, và sau
này trong hệ đo lường quốc tế (Système International d'unités, viết tắt: SI) các
nhà khoa học dùng đơn vị đo lường thời gian của hệ mét là giây. Ký hiệu viết tắc
của giây
là chữ
s.
Theo tài liệu
của mạng:
bipm.org/fr/si/. Phần
nói về ý nghĩa
và ứng dụng của Đơn vị đo độ dài (Unité
de longueur (mètre)).
Trang nói về
hệ đo lường
quốc tế SI, đoạn
2.1.1.1 (Brochure sur le SI, section 2.1.1.1)
có ghi :
Le mètre est la longueur du
trajet parcouru dans le vide par la lumière pendant une durée de 1/299 792 458
de seconde.
Mét được định nghĩa là một độ
dài bằng chiều dài quãng đường mà ánh sáng đi qua chân không trong 1/ 299792458
giây.
Il en resulte que
la vitesse de la lumière dans le vide est égale à 299 792 458 mètres par seconde
exactement, co
= 299 792 458 m/s.
Kết quả cho thấy
rằng tốc độ của
ánh sáng trong chân không là bằng 299.792.458 mét trong mỗi giây một
cách chính xác, co
= 299.792.458 m / s.
Le symbole co (ou
parfois simplement c) est le symbole conventionnel pour la vitesse de la lumière
dans le vide.
Ký hiệu co (hoặc
đôi khi chỉ thấy viết
đơn giản là chữ
c) là ký hiệu quy ước dùng cho tốc độ của ánh sáng trong chân không.
Le prototype international
du mètre originel, qui fut approuvé par la 1re CGPM en 1889, est toujours
conservé au BIPM dans les conditions fixées en 1889.
Nguyên
mẫu quốc tế về nguyên thủy của
mét, đã được phê duyệt bởi CGPM 1 trong năm
1889, vẫn còn giữ tại BIPM theo điều kiện quy định vào năm 1889.
Chữ
mét ký hiệu
của nó là chữ m được viết từ
chữ metron trong tiếng Hy Lạp
và có nghĩa là đo lường.
Cùng nguồn phần nói
về đơn vị của thời gian (giây)
(Unité de temps (seconde)),
Trang nói về
hệ đo
lường quốc tế SI, đoạn
2.1.1.3 (Brochure sur le SI, section 2.1.1.3)
có ghi:
La seconde est la durée de 9
192 631 770 périodes de la radiation correspondant à la transition entre les
deux niveaux hyperfins de l'état fondamental de l'atome de césium 133.
Giây được định nghĩa
là khoảng thời gian bằng tổng của 9192631770 chu kỳ bức xạ ứng với sự chuyển
giữa hai mức trạng thái cơ bản siêu tinh tế của nguyên tử Cesi-133.
Il en résulte que la
fréquence de la transition hyperfine de l'état fondamental de l'atome de césium
est égale à 9 192 631 770 hertz exactement, ν(hfs Cs) = 9 192 631 770 Hz.
Kết quả
cho thấy
rằng
tần số của quá
trình chuyển đổi siêu tinh tế của trạng thái cơ bản của nguyên tử cesium là bằng
9192631770 Hz một cách chính xác, ν(HFS Cs) = 9192631770 Hz.
Lors de sa session de 1997,
le Comité international a confirmé que :
Tại cuộc họp năm 1997, Hội
đồng quốc tế khẳng định rằng:
Cette définition se réfère à
un atome de césium au repos, à une température de 0 K.
Định nghĩa này đề cập đến một nguyên tử cesium trong
trạng nghỉ với
nhiệt độ là 0 K…
Nếu quý bạn nào
đang học vật lý hay thích nghiên cứu về vật lý thì vào mạng này có nhiều tài
liệu tham khảo rất hay, được viết bằng tiếng Anh và tiếng Pháp.
Những gì chúng ta gọi là " Ánh sáng tự nhiên" trong đời sống mỗi ngày là một
phần nhỏ của bức xạ điện từ
có bước sóng nằm trong vùng quang phổ nhìn
thấy được bằng mắt thường,
từ 380 nanomètre (màu tím) và 780 nanomètre (màu đỏ) phát
ra từ Mặt trời.
Hầu như ai cũng đều biết:"
Nếu không có ánh nắng mặt trời, thì trái
đất sẽ trở thành
một tảng đá đông lạnh trong không gian".
Mặt trời không chỉ phát ra ánh sáng trắng hay ánh sáng có thể
nhìn thấy được, mà nó còn phát ra những
bức xạ khác trong quang phổ điện từ, được biết
như các bức xạ hồng ngoại hay những
tia cực tím…
Mặt Trời được xem như một quả cầu lửa khổng lồ
không ngừng
chuyển đổi năng lượng hạt nhân của nó trở thành nguồn năng lượng ánh sáng.
Tất
cả
cuộc sống trên trái
đất này đều
tùy thuộc một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp vào Mặt trời.
Nơi nào có ánh nắng mặt trời
thì sự sống ở đó trở nên sinh động. Thực phẩm
của chúng ta dùng thường
ngày có được
cũng chỉ nhờ vào
ánh sáng mặt
trời làm cho cây cối xanh tốt.
Mỗi ngày mặt trời
đều mọc và lặn nhưng không chỉ dừng lại ở sự
phân biệt giữa
Ngày và Đêm hay ở phần năng lực tăng thêm sức
sống cho cây cỏ, động vật và con người, mà nó còn trở thành biểu
tượng được người ta tôn thờ qua nhiều hình thức khác nhau
trong mỗi nền văn hóa.
Sự tuần hoàn
của Ánh sáng và Bóng tối trong
chu thay đổi
giữa
Ngày và Đêm đã tạo ra những khái niệm giúp cho con người hiểu biết
về sự biến đổi thực tế giữa chủ thể và đối tượng, giữa bản gốc và đại diện
bằng sự
so sánh ý nghĩa trái ngược
nhau để làm định hướng thích nghi cho lối sống của mình.
Thí dụ : Chống lại sự mờ đục là sự kiện đương đầu với bóng tối, và hành động
thanh lọc trở thành biểu tượng cho sự làm trong sáng.
Nếu Ánh sáng được xem như là Trí tuệ và Bóng tối được dùng làm
nghĩa cho Vô minh trong tinh thần Phật học, thì hãy thử nghiệm xem những lời của
Đức Phật dạy trong Kinh Di Giáo như sau:
“Trí tuệ là chiếc thuyền kiên cố chở ta ra khỏi biển sanh lão
bịnh tử; cũng là ngọn đèn chói sáng xua tan vô minh hắc ám, là liều thuốc chữa
bịnh tham sân si, là chiếc búa chặt đứt phiền não. Vậy các ngươi phải văn huệ,
tư huệ, tu huệ và hành trì tinh tấn để tự tăng trưởng trí tuệ”.
Nếu Trí tuệ được xem như là Ánh sáng rọi cho mọi người thấy được
chân lý, nhận ra lẽ thật, thì Trí tuệ đó từ đâu mà có?
Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy rằng:
“Chỉ có ta làm điều
tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm.
Chỉ có ta làm ta
tránh được điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta.
Trong sạch hay ô nhiễm là tự
nơi ta.
Không ai có thể làm cho người
khác trở nên trong sạch”.
Như vậy Đức
Phật muốn nói :" Sự
hiểu biết sai lầm sẽ khiến cho
con người tự rơi
vào đau khổ của tội lỗi.
Một sự hiểu biết
có nhận thức rõ ràng giữa đúng và sai hay giữa
thiện và ác, sẽ giúp con người tự thoát ra khỏi vòng đau khổ, tội
lỗi của chính mình." Ngài cũng
muốn nhắc rằng,
con người phải làm chủ lấy vận mạng
của mình.
Vì mê lầm mà chính mình tự tạo ra một thần
linh với niềm hy vọng được sự cứu rồi hay phù
hộ.
Cuối cùng mình phải làm nô lệ cho thần vị thần linh ảo tưởng này mà vận mạng của
do chính mình tạo ra vẫn không bao giờ thay đổi.
Trong Phật học Trí
tuệ là một khái niệm rất quan trọng và có nhiều cách giải thích rất đa dạng tùy
theo các tông phái. Trí tuệ không phải là một sự vận hành bình thường của tri
thức mà là kết quả của một sự rèn luyện chuyên cần của tâm thức. Đặc tính của
Trí tuệ là trong sáng, rạng ngời. Vai trò của Trí tuệ là nó có khả năng giúp,
nhìn thấy hay quán nhận được bản thể đích thực và tối hậu của mọi hiện tượng và
thực hiện được tất cả những gì nên làm và cần phải làm. Ngoài ra Trí tuệ cũng là
một phương cách tu tập để giúp cho một vị Bồ tát trở thành một vị Phật.
Nguồn: Hoằng Pháp 33