20/01/2011 21:07 (GMT+7)
Số lượt xem: 3163
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Kể từ đã mấy mươi năm xa quê, câu nói ấy hầu như hàng năm được tôi lặp lại, mỗi khi những ngày cuối của tháng 12 bên ni dương lịch lụn dần, theo với mùa tuyết đổ,

 rồi cũng theo với trận gió thổi tuyết tan bất ngờ, cảm giác mơ hồ như có ai đến sau lưng gõ nhẹ trên vai nhắc nhở rằng bên nớ năm tháng âm lịch cũng đang nghiêng mau, Tết nay mai sắp đến.

Có khi tôi nói câu ấy âm thầm, như căn dặn với mình hay như vỗ về một cái tôi tưởng đã mất hút trong vô thức hồi nào đang lửng thửng trở về  từ một nẻo rất xa, mà hình như nẻo xa ấy chính là con đường đã đi những ngày Tết của tuổi thơ.

Có khi tôi nói câu ấy như một lời bâng quơ, ai nghe được thì nghe, có khi câu ấy bỗng trở thành như một lời tuyên bố công khai quả quyết rằng, việc về nhà ăn Tết của tôi là nghiêm trang cần phải thực hiện cho bằng được.

Ấy vậy mà những mấy mươi năm đã trôi qua, nhiều lần trở về quê, trong năm có khi hai lần, tôi vẫn vụng về tính ngày tháng làm sao mà cứ hụt hoài cái Tết, đến nỗi chưa được ăn “nó” một lần ở nhà.

Nói ra thì mọi chuyện đều lơ mơ, chẳng có cái chi là xác quyết, đến nỗi đã nhiều chuyến định về ăn Tết hóa ra một nửa chừng xuân, trở thành chuyện nực cười cho thiên hạ và cả cho người thân. Mơ hồ lắm! mà quả thật là mơ hồ chỉ nội cái chữ “về nhà ăn tết” ấy.

Con tôi sẽ bảo “thì nhà mạ ở Muenchen đây nì”, ăn Tết ở đây cũng là ăn Tết ở nhà, chơ có đi mô xa, nhưng rồi chính con đọc thấy trong mắt mẹ một nỗi ngờ, e chữ “nhà” ấy tuồng như là một cưỡng bách, vì nó chỉ đúng với mẹ một phần, phần bên kia đại dương cũng là nhà mẹ, dù bao nhiêu người thân đã ra đi. Cứ thế “cái nhà” treo lơ lửng lưng chừng, đến nỗi lắm chuyến về ăn Tết thành ra dở dang…cũng vì cái nhà nọ níu kéo cái nhà kia…mà thành ra lỡ chuyện.

Cái nhà đã lơ lửng thinh không… thì “ăn Tết” ở đâu mới là nhà? Hay “ăn Tết” chỉ là một thứ mộng triệu, một ước mơ của những người xa quê?

Hoa cúc không thể thiếu mỗi khi tết đến xuân về.

Thật tình, hai chữ “ăn Tết” hình như đối với người xa quê có một điều chi lạ lùng, hai chữ ấy không phải đơn giản chỉ là “ăn” như ăn cơm, ăn kẹo, ăn bánh.., một khi ăn xong, thưởng thức xong, được no, được thỏa là có thể quên, bụng dạ và đầu óc thảnh thơi có thể nghĩ đến những bận bịu bổn phận này hay công danh khác. Chúng cũng không có nghĩa bóng của những thứ ăn tạp kiểu ăn gian, ăn tham như ăn hối lộ, ăn bớt, ăn xén, ăn vụng...ăn xong là phải dấu diếm hoặc phải xấu hổ, hay đi sám hối vì cảm thấy tội lỗi đã lỡ phạm vào những cuộc ăn như thế (có người sẽ mĩm cười nói thời kinh tế thị trường này ai có thì giờ đi sám hối,nhưng…đó cũng chỉ là chuyện kinh tế thị trường!).

Ở mỗi thứ ăn nói trên, đối tượng ăn cụ thể, được định hình bằng hiện vật rõ ràng, dù phẩm chất ăn khác xa nhau một trời một vực, trong lúc hai chữ ăn Tết đối với người xa quê thường có những âm vang bí nhiệm kêu gọi một sự quay về, một hồi hướng hầu như không thể gọi được gọn ghẽ một tên chính xác, bởi vì chúng nói lên nhiều thứ, nhiều điều, đến nỗi nếu ta thử nói lên một điều nào là lập tức đã thấy thiếu điều kia, vừa kể xong điều này là đã thấy ngay chưa vừa, chưa đủ điều nọ... cho nên...mới gọi là ăn...Tết: ăn cả một cái Tết lận. Nhưng ăn gì nơi cái Tết ấy?

Chữ Tết nghe như nhiều, nhiều lắm, nhiều đến “ăn” không hết mà lại “ăn” mấy cũng chưa vừa cho những kẻ xa quê, nó vượt lên trên mọi thứ “ăn” thường tục đến nỗi có thể trở thành thiêng liêng như một thứ đi mà chưa đến, một kiểu hành hương...

Dĩ nhiên mỗi khi xuân về Tết đến, người xa quê nào cũng ráng “ăn một cái tết” ra hồn ngay trên mảnh đất tha phương mà mình đang sống, dù ở nơi hẻo lánh hay nơi chốn phồn hoa tấp nập, dù trong trại tị nạn, ngay cả trong ngục tù, trong căn phòng chật chội hay trong căn nhà rộng lớn, một mình hay với bạn bè đồng hương. Lắm khi đầy đủ lễ nghi rình rang còn hơn ở quê nhà, cũng chợ hoa, cũng thiệp chúc Tết tưng bừng, cũng hội chợ ngày xuân, có khi cả bài chòi bài tới, bầu cua cá cọp…. Và họ có thể ăn lu bu, ăn kỹ lưỡng, ăn đến nơi, đến chốn, cái gọi là “cliché” ngày Tết, đại khái như “thịt mỡ, dưa hành,...bánh chưng xanh”, và lắm khi cũng “ăn” luôn những “câu đối đỏ” , “nêu cao” ngất nghểu, “pháo nổ” dòn dã nơi những góc trời xa ngái Mỹ Âu.  Chẳng thiếu một thứ nào trong những buổi chơi xuân, đón Tết ở quê người.

Ấy vậy mà sao nghe như có một điều chi chưa trọn, chưa tròn, chưa tự nhiên, chưa thật, đến nỗi mỗi khi tiệc tan, trên đường về…sau tiếng cười hầu như còn đọng lại một điều chi nghẹn ngào trong cổ, có lẽ một tiếng nấc chưa thành hay một thứ gai lạnh làm rùng mình, chợt tĩnh về nỗi cô đơn trong những ngày đầu xuân…  người xa quê bỗng càng nhớ Tết…

Mỗi cái Tết xa quê  trở nên một cái “bồng binh” dồn nỗi nhớ Tết quê hương…

Xin đừng hỏi nhớ điều chi nơi Tết quê hương ấy. Một nhánh mai? Vị mứt gừng cay lưỡi trong cơn lạnh mưa xuân, hoa hải đường trước sân hay  cành đào trước ngõ? Đòn bánh chưng bánh tét thơm mùi nếp mới? Hay nhớ tuổi thanh xuân? Hay tiếng chào năm mới?

 

“Tết” là một tiếng vọng  từ trong lòng đất sinh thành thoát ra, chập chờn như một nhắc nhở quay về của người xa quê. Có lẽ tính vô thường của thời gian, sự đổi thay cũ mới, sự hóa nhập từ đông sang xuân sẽ dễ dàng được chịu đựng, được cảm nhận vẹn toàn, được cảm khái hoan hỉ khi chúng xảy ra chính trong không gian sống của con người. Bứng ra nơi khác, vô thường hóa ra cô đơn, cũ mới trở nên khắc khoải, và mùa xuân hiển hiện lại làm cho kẻ tha hương càng thấy như mình đang ngồi bên vệ đường trông ngóng xuân sang mà chưa có lần nhập cuộc.  Đáng thương là sự ngóng xuân nơi đất khách ấy, nhất là những kẻ lẻ loi- mà ai không một lần lẻ loi trong khi lênh đênh trên đất khách?

Độc tại vị hương vi dị khách

Mỗi phùng giai tiết bội tư thân

Mỗi khi xuân về tết đến, làm người khách lạ nơi chốn lạ thật khó làm sao! Những lúc ấy thấy thương thân mình gấp bội và nỗi ao ước “năm sau về nhà ăn Tết”  trở thành một hối thúc tự nhiên, bỏ vào cái bồng binh năm tháng, nhốt nó lại nhiều năm cho đến khi thành hai câu đối dán lên trên cột ba ngày Tết, đóng đinh nỗi nhớ xuân quê, mà cụ nghè Chu Mạnh Trinh có lần đã viết cho một người khách lưu lạc:

Vọng xuân xuân khả liên, lĩnh thụ trùng dà thiên lý mục,

Dục qui qui vị đắc, cô chu nhất hệ cố viên tâm.

(Trông xuân xuân đáng thương, cây núi ngăn đôi nghìn dặm mắt,

Muốn về về chửa được, con thuyền buộc một mối tình nhà)

Bao nhiêu năm ấm ức nó có thể trở thành tâm bệnh. Cho nên phải đập vỡ bồng binh dồn và nhốt nhớ Tết quê hương, tôi khăn gói lên đường tìm về cái Tết nhớ mấy mươi năm. Cuộc đi còn chưa đến…Tết chưa về, bỗng nhiên ngập ngừng trong dòng người ào ạt như thác đổ nơi thành phố một thời là hòn ngọc viễn đông, tự hỏi mình đi VỀ đâu? Có phải Tết năm nay là cái Tết ở nhà?

Câu trả lời nghe xa, như tôi đang thấy mình còn lạ.

Chỉ biết một điều, tôi sẽ trở về dòng sông ấy, ngắm núi mùa xuân trong lòng sông, thả con thuyền buộc mối tình nhà về bến, để trả lời một câu thơ hầu như là định mệnh của kẻ tha hương: “Xuân lai giang thượng kỷ nhân hoàn” (Xuân tới trên sông đã mấy người trở về) rằng đã có người ĐANG về…ăn… Tết.

Huế 09. 01. 2006


Âm lịch

Ảnh đẹp