"Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày..."
- Thương con từ thủa mang thai
Chín tháng mười ngày mang nặng để đau,
Ra đời bú mớm nâng niu
Cho con tất cả máu hồng sữa tươi,
Con vui cha mẹ tươi cười
Con đau cha mẹ rã rời ruột gan,
Trải bao đau khổ gian nan
Khó nghèo chịu đựng chẳng phàn nàn chi,
Mẹ cha rất mực từ bi
Hy sinh tất cả chỉ vì đời con,
Mong cho con được lớn khôn,
Gia đình sự nghiệp thành hôn vẹn toàn,
Tuổi già sức yếu hơi tàn
Ốm đau bịnh tật mẹ càng cô đơn,
Âm thầm trong nursing home
Tháng ngày lặng lẽ tình thương hao mòn,
Cho dù gác tía lầu son
Bác sĩ, y tá, thuốc men đủ đầy...
Nhưng thân xác mẹ hao gầy
Nhưng tâm hồn mẹ đọa đày xót xa,
Nơi đây chẳng phải là nhà
Là nơi êm ấm vào ra thân tình,
Nơi đây thui thủi một mình
Tủi thân xót dạ một mình mình hay,
Văn minh hay xứ đọa đày !
Mẹ cha già yếu lạc loài vào đây,
Trông đêm rồi lại mong ngày
Sức tàn hơi mãn xuôi tay ngậm hờn,
Cảnh xưa nghèo khó còn hơn
Tuổi già còn có cháu con bên mình,
Ra đi an phận tử sinh
Thích Tâm Không
Một Ngày ở Nursing Home
Sau ba tháng du lịch ở Mỹ về, những người quen hỏi tôi điều gì làm tôi tâm đắc nhất. Không chút do dự hay suy nghỉ, tôi trả lời:
đó là cái Nursing Home.
Họ ngạc nhiên khi thấy tôi không đề cập đến những địa danh nổi tiếng: như Las vegas, Hollywood, Disney-land,
những tòa nhà chọc trời cao nhất thế giới hoặc những cái Mall rộng lớn
đi cả ngày chưa hết, những viện bảo tàng, những đại lộ thênh thang,
chồng chéo lên nhau như những sợi mì....
Tôi đã hưởng một chuỗi
ngày dài thật tuyệt vời,với biết bao điều mới lạ, hiện đại, tối tân mà
từ truớc đến giờ tôi chưa hình dung hay tưởng tuợng ra nỗi.
Thế mà khi trở về Việt Nam, tâm trí tôi chỉ còn lắng đọng một
điều làm tôi ưu tu, trăn trở, ray rức: cái Nursing Home mà mẹ chồng tôi
đang sống.
Chặng cuối cùng của chuyến du lịch, chúng tôi đã ở Los
Angeles mười lăm ngày để thăm viếng mẹ chồng. Hằng ngày, chúng tôi phải
chuyễn hai chuyến xe bus, GardenGrove,Westminster, Bolsa và bao nhiêu
đại lộ nữa mà tôi không nhớ hết tên, đưa chúng tôi gần trạm cuối cùng
của lộ trình.
Chúng tôi phải đi bộ khoãng năm trăm mét để đến
khu dưỡng lão của một tổ chức tư nhân. Đó là một khoảng đất rộng, nằm
khuất sau đại lộ Hungtington hai con đuờng, cách bờ biển Hungtington
chưa tới hai cây số. Một nơi yên tĩnh,vắng vẻ,với hai hàng cây sồi đưa
vào cái ngõ cụt.
Gồm ba dãy nhà trệt,
ghép thành hình chữ U, nó êm dịu với
những cánh cửa sơn màu xanh da
trời, nổi bật màu sơn trắng của những bức tường, với những khung kính to
trong suốt, lịch sự và trang nhã, bằng những tấm màn voan trắng che rủ.
Những khóm hoa hồng, cẩm tú cầu đuợc trồng một cách mỹ thuật trước hàng
hiên, dưới cửa sổ, tạo cảm giác vui tươi, hưng phấn khi ngồi trên bộ
bàn ghế để phơi nắng hoặc hóng mát duới tàng cây.
Khi vợ chồng
tôi đến nơi, kim đồng hồ của phòng trực chỉ 8 giờ 30 phút, bác sỉ và y
tá đang đi từng phòng kiểm tra sức khoẻ cho các cụ già. Mẹ chồng tôi
tươm tất, sạch sẽ trong bộ quần áo mới thay, nét mặt tươi tỉnh. Họ đã
làm vệ sinh cá nhân cho bà từ sáng sớm, truớc khi dùng điểm tâm. Mâm
thức ăn sáng chưa dọn, còn để
trên bàn. Cô y tá người Việt vào kiểm tra huyết áp, đo lượng đường
trong máu, rồi rót nuớc, bỏ thuốc vào miệng bà, ân cần thăm hỏi.
Mẹ
chồng tôi không còn nhiều trí nhớ để trò chuyện. Bà hờ hững trả lời
những câu hỏi không chính xác, mạch lạc. Những ngày đằng đẳng ở đây đã
làm bà trở nên câm lặng. Trái ngược với thuở sinh thời, bà nổi tiếng là
người nói nhiều. Ánh mắt vô hồn, lúc nào cũng nhìn lên trần nhà và tách
biệt với cảnh vật chung quanh.
Thời gian đầu cách đây mười bảy
năm, cô em chồng đã bảo lãnh bà sang Mỹ. Bà đã sống một mình trong một
căn phòng mà chính phủ ưu tiên cho nguời già thuê. Ban ngày bà ở đó,
chiều đến con cháu thay phiên đón về nhà ăn, ngủ, tắm rửa. Sáng hôm sau
lại tiếp tục, như một em
bé đi nhà trẻ, đều đặn từ tháng nọ sang năm kia.
Gần đây, do
tuổi tác quá cao (93 tuổi), bà bị té gãy xương đùi, không thể đi lại
đuợc,và không thể tự lo vệ sinh cá nhân, nên cô em chồng sau khi bàn
tính với các anh chị đã quyết định đưa bà vào đây. Anh em chúng tôi như
bị dồn vào ngõ cụt, tiến thoái đều lưỡng nan. Khó tìm một giải pháp vẹn
toàn, con đường nào cũng trắc trở, chông gai. Phải chăng là do số phận,
do định mệnh hay do nghiệp lực? Cuối cùng phải tự an ủi và chấp nhận, đó
là quy luật đời thuờng mà xã hội đặt ra để giải quyết.
Lúc chưa
sang Mỹ, tôi rất có thành kiến không mấy tốt đẹp và phản đối việc đem
gửi cha mẹ vào viện dưỡng lão. Giờ đây tôi mới biết rằng tôi hiểu chưa
thấu. Luật pháp ở đây
không cho nguời già yếu và trẻ con ở nhà một mình. Thuê nguời giúp việc
thì không có, hoặc rất là đắc đỏ. Con người ở đây chịu rất nhiều áp lực
về công việc làm ăn, tiền bạc.
Để đáp ứng nhu cầu vật chất gọi
là thiên đường của sự hưởng thụ, nguời ta phải đánh đổi bằng những món
nợ khổng lồ, mà người ta truyền miệng nhau: "không mắc nợ không phải là
người Mỹ", đánh đổi sự mất mát tình cảm, đổ vỡ hạnh phúc gia đinh, có
khi luôn cả sinh mạng.
Những tấm gương hiếu thảo của thầy Mẫn Tử
Khiên trong Nhị Thập Tứ Hiếu: "thờ cha sớm viếng khuya hầu" sẽ không có
chổ đứng trong thời khóa biểu của các người con ở thời hiện đại này.
Chỉ có những viện dưỡng lão mới đáp ứng những lổ hổng mà người con
không thể lấp đầy đuợc.
Ở đây, chỉ cần một cái nhấn chuông là
có bác sĩ, y tá, điều dưỡng, sẳn sàng đáp ứng, giải quyết điều mình yêu
cầu. Mẹ chồng tôi kêu đau bụng, là có ngay hai cô điều dưỡng nguời Mễ
cao to, khỏe mạnh bồng bà đặt lên cái ghế dành cho nguời khuyết tật, đẩy
vào nhà vệ sinh. Tiểu tiện thì tự do thãi vào tả lót, đến giờ họ đi
thay.
10 giờ sáng và 3giờ 30 phút chiều, các cụ đuợc tập trung ở
phòng giải trí. Những chiếc xe lăn được đẩy tới, xếp thứ tự quanh chiếc
bàn dài. Họ tham gia những trò chơi đố chữ, chuyền banh, những trò chơi
vận động tay chân, nghe nhạc, xem tivi, và kết thúc bằng bánh ngọt hay
trái cây với nước giải khát.
11 giờ 30 và 5 giờ chiều các cụ tập
trung ở phòng ăn.
Những mâm thức ăn dư thừa năng lượng. Ai không thích ngồi tại đây, thì
yêu cầu mang vào phòng. Những chiếc xe lăn được đẩy tới, xếp quanh cái
bàn tròn. Bàn này có tám nguời, ba người đàn ông và năm người đàn bà.
Chỉ
có mẹ chồng tôi là người Việt. Ông Mỹ đen trên bốn mươi tuổi, bị tai
biến mạch máu não, tay không cử động được, nên người điều dưỡng phải đút
cho ông và hai bà kế bên. Tôi đặc biệt chú ý đến một bà Mỹ trắng, tuổi
trên độ "thất thập cổ lai hi", nét mặt thanh tú, dáng người thon nhỏ,
mãnh mai. Thời con gái chắc bà được xếp vào hàng mỹ nhân. Đôi mắt to và
buồn. . . . đôi mắt như biết nói, khi đối diện với một người nào.
Ngày
đầu tiên, bà nhìn tôi cười và chỉ mẹ chồng tôi hỏi "tôi là gì". Tôi
trả lời là “con dâu”. Câu chuyện giữa tôi và bà chỉ dừng lại ở những
câu xã giao thông thường. Vốn liếng Anh ngữ nghèo nàn của tôi, không cho
phép tôi tìm hiểu sâu hơn nữa. Hoặc nếu bà có tâm sự, tôi cũng không
thể hiểu hết đuợc.
Một bữa, tôi thấy bà không chịu ăn, bà ngồi
trầm ngâm, rồi những giọt nước mắt liên tục tuôn trào trên gò má xanh
xao. . . Bà khóc nức nở. Những người bạn cùng bàn an ủi, làm bà càng
khóc to hơn. Tôi nắm tay bà, lau nước mắt và đút cho bà ăn. Bà vẫn khóc
như một đứa trẻ. Liên tiếp ba ngày như vậy.
Tôi
được biết qua cô y tá nguời Việt, là lâu rồi con bà không đến thăm.
Hình ảnh tôi đút cơm cho mẹ chồng, làm bà nhớ con và chạnh lòng buồn
tủi. Những ngày sau
cùng, tôi không dám đưa mẹ chồng ra phòng ăn. Tôi không dám nhìn bà
khóc thêm nữa. Lòng tôi cũng xao động, nước mắt tôi cũng chảy dài. Bởi
tôi là người rất nhạy cảm và dễ xúc động.
Tôi rón rén ra nhìn.
Bà ngồi đó, đôi mắt xa xăm, tư lự. Chắc chắn bà đang nghĩ về con bà.
Biết bao câu hỏi, đang quay cuồng trong tâm trí: sao lâu rồi con không
đến, bận rộn hay có sự bất trắc gì đã xảy ra? Bà vừa lo, vừa buồn, rồi
giận, rồi thương, nhớ, làm bà không tự chủ, đè nén những cảm xúc của
mình.
Chắc chắn, không biết bao nhiêu lần, cuốn phim dĩ vãng của
một thời vàng son đã lần lượt, thường xuyên quay lại trong ký ức của
bà. Bà nhớ đến người chồng quá cố, nhớ những đứa con bà hết lòng thương
yêu, nhớ những ngày đầm ấm hạnh
phúc, nhớ những lo toan, thăng trầm trong cuộc sống. Giờ này con bà có
biết bà đang mõi mòn trông đợi hay không?
Ở đây, cái viện dưỡng
lão này chỉ giúp người già cải thiện, bù đắp những thiếu sót về vật
chất, mà con cái không thể hoàn thiện đuợc. Bác sĩ, y tá, thức ăn, thuốc
men, máy móc, chỉ giúp họ hết đau đớn về thể xác. Cái tensionmètre chỉ
đo đuợc chỉ số huyết áp giao động trong ngày, các máy móc kỹ thuật cao
phát hiện những tổn thương sâu trong cơ thể.
Tất cả những thứ đó
không giải quyết, chữa trị đuợc những đau đớn tinh thần, những giao động
tâm lý, những khắc khoải triền miên của lòng khát khao yêu thương. Đó
là căn bệnh trầm kha mà không máy móc, bác sỉ, y tá nào chữa trị đuợc.
Đó là thứ thức ăn linh
nghiệm và hiệu quả mà con nguời đã mõi mòn tìm kiếm và chưa bao giờ
thấy no đủ.
Mẹ chồng tôi có sáu nguời con: bốn trai hai gái. Một
mình bà nuôi nấng sáu người con khôn lớn trưởng thành. Giờ đây khi tuổi
tác chồng chất, sáu người con không chăm sóc được một mẹ già. Dù rất
thương mẹ, dù biết công đức sinh thành dưỡng dục, sâu rộng như trời
biển; nhưng không thể nào làm tròn bổn phận, bởi những tất bật, căng
thẳng và đa đoan của cuộc sống.
Bên Mỹ có ngày Mother's day và
Father's day. Việt Nam có ngày Vu Lan -Bông hồng cài áo. Ai còn cha mẹ
thì cài một đoá hoa cẩm chướng đỏ hay hoa hồng đỏ. Ai mất mẹ thì cái một
bông cẩm chướng trắng hay hoa hồng trắng. Một hình ảnh biểu trưng, chọn
một ngày để nhắc nhở những ai diễm phúc
còn có mẹ, để mà yêu thương và trân quý. Với tôi một ngày trong một năm
như thế là quá ít ỏi. Chẳng khác nào hạt muối trong đại dương.
Mỗi
ngày, ít lắm mỗi tuần, tệ lắm mỗi tháng, ta phải tự cài lên áo một hoa
hồng đỏ, qua một món quà mà mẹ yêu thích: cái bánh, củ khoai, trái
chuối, ly sữa. . . . một lời thăm hỏi ân cần, một câu nói ngọt ngào, một
ánh mắt ấm áp chan chứa yêu thương, một cử chỉ âu yếm, quan tâm, lo
lắng. Đó là đóa hoa hồng đỏ, đã tự nở trên áo của ta, không đợi đến ngày
Vu Lan được mọi người nhắc nhở.
Em chồng tôi, đều đặn mỗi ngày
ghé thăm mẹ,với những món quà mà bà mẹ Việt Nam yêu thích. Mỗi tuần cô
cài đủ bảy hoa hồng đỏ thắm. Bảy ngày hạnh phúc và luôn thầm cảm ơn cái
đặc ân còn
có mẹ để mà tự nguyện và hiến dâng. Thế mà mẹ chồng tôi vẫn không chịu
đựng đuợc sự trống vắng, cô đơn khi không có sự đồng cảm giữa những
người xa lạ và ngôn ngữ bất đồng. Lúc nào bà cũng muốn về nhà, khẩn
khoản muốn về nhà.
Cùng phòng với mẹ chồng tôi là một bà cụ nguời
Bắc năm 54, mới đưa vào ba hôm. Nguời con gái lấy chồng lính Mỹ, đã bảo
lãnh bà sang đây mười mấy năm về truớc. Bà chỉ còn da bọc xương, lưng
còng gần 90 độ. Bà nằm co quắp như con tôm luộc chín . Bà không còn đủ
sức để ngồi lâu.
Bà chỉ ăn cháo và uống sữa. Buổi trưa, người
con gái đem cháo đến đút cho bà, phát hiện đầu bà không ngẩng lên đuợc.
Cô ta hốt hoảng la toáng lên: "tại sao bà không ngẩng đầu lên được, tụi
nó đã làm gì
bà?. Có phải tụi nó giật đầu, giật tóc bà không ? Để tôi đi hỏi cho ra
lẽ?".Bà không còn hơi sức mà trả lời.
Từ khi bà đến nằm trên cái
giường này, tôi chưa nghe bà nói gì ngoài tiếng thều thào yếu ớt:"cho
con về nhà, con muốn về nhà". Bà nhìn tôi cầu cứu, tôi nắm bàn tay khô
đét, lạnh ngắt và hỏi bà cần gì. Bà chỉ nói một câu đó, lập đi, lập lại
không biết bao nhiêu lần.
Bà tới đây từ một cái viện dưỡng lão
khác, mà cô con gái chê là tệ quá. Cô ta sốt ruột vì thấy mẹ mình suy
sụp nhanh chóng. Cô phản ứng lồng lộn. Lòng thương mẹ mù quáng làm cô
thốt ra những câu nói không tế nhị. Bác sĩ và xe cấp cứu đến, người ta
đưa bà vào bệnh viện lớn để rà soát lại cơ thể. Căn phòng chỉ còn lại
một mình mẹ chồng
tôi.
Sớm mai thức giấc, nhìn quanh một mình
Sáng khuya trưa tối, nhìn quanh một mình
Đời mong manh quá, kể chi chuyện mình
Đó
là những câu hát não nùng, thật chua chát và đắng cay mà nhạc sĩ Lam
Phương đã viết cho số phận của mình vào cuối đời, với những dư chứng của
bệnh tai biến mạch máu não.
Chúng tôi về lại Việt Nam, với linh
tính biết đây là lần cuối cùng chúng tôi còn thấy mẹ. Buổi chia tay đẫm
nước mắt và
đau buồn trỉu nặng tâm tư. Mười ngày sau, vào một đêm cuối mùa hạ 2006,
mẹ chồng tôi đã vĩnh viễn không mở mắt nhìn cái trần nhà, mà mấy tháng
ròng rã bà ít khi rời nó. Bà ra đi trong sự an giấc của mọi người, âm
thầm lặng lẽ không một ai hay biết. Còn biết bao bà mẹ khác cũng đã và
sẽ ra đi trong cô đơn tẻ lạnh như thế này.
Tất cả con cháu ở rải
rác ở nhiều tiểu bang đau đớn khi nhận đuợc tin khủng khiếp này. Cô em
chồng tức tưởi vì bà không đợi cô. Chỉ vài tháng nữa cô sẽ nghĩ hưu non,
sẽ đem mẹ về nhà phụng duỡng. Cô đã không điều đình được với Thần Chết.
Mọi nguời câm lặng chịu đựng.
Trong thâm tâm ai cũng trăn trở, ray rứt, xót xa vì biết bao điều chưa thực hiện: "địa ngục chứa đầy những dự định
tốt đẹp".
Làm sao cân bằng lại tâm lý, tìm lại an bình, một khi lòng cứ khắc khoải bỡi những dằn vặt, ăn năn.
Thời
gian trôi theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Người ta đã chế tạo ra
nhiều thứ. . . . kể cả nguời máy, nhưng có một thứ họ không chế tạo
được là trái tim người mẹ. Con người vẫn ăn ngủ, làm việc, theo cái đà
tiến hóa. Không biết đủ, không vừa lòng, họ có thể bị con lốc cuốn trôi
theo cái thảm họa đua đòi vật chất.
Nếu không cảnh giác không
dừng lại đúng lúc, họ sẽ là một thứ nô lệ mà suốt cuộc đời họ không hề
biết hạnh phúc đích thực là gi. Quên bản thân, quên quyến thuộc, quên luôn cả tử thần đang
rình rập, chờ đợi,
bất cứ lúc nào cũng có thể cướp đi sinh mạng vốn đã mong manh trong từng hơi thở.
Tại ai? Tại con người? Tại xã hội hay tại ta sinh lầm thế kỹ?
Nguyên Thúy