Thời gian vật chất là thời gian chuyển biến theo tự
nhiên gọi là thời gian niên đại hay thời gian đồng hồ, đó là thời gian
tuần tự ngày rồi đêm tiếp đến hết đêm là ngày, hết xuân đến hạ rồi
thu rồi đông… do trái đất tự quay chung quanh nó và quay chung quanh mặt
trời. Còn thời gian tâm lý là thời gian do sự suy tưởng của con người
mà hình thành, kiểu như “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”. Tức là
chỉ một ngày đêm thôi nhưng đối với người bị giam cầm trong ngục tù thì
lâu như cả ngàn mùa thu của người sống trong tự do. Nếu suy gẫm sâu sắc
ta thấy rằng, thời gian tâm lý có thể gây đau khổ triền miên cho con
người. Đến độ có triết gia đã nói: “Thời gian (tâm lý) là nỗi đau… Thời
gian (tâm lý) giống như một dòng sông đang chảy và trong dòng thời gian
này con người bị giam cầm và dằn vặt không nguôi. Nếu không chấm dứt
được thời gian (tâm lý) thì không chấm dứt được đau buồn” (Krisnamurti,
1895-1986). Điều này là rõ ràng bởi vì người ta thường không sống an
nhiên trong hiện tại mà cứ sống mải mê trong quá khứ của tâm trí hoặc
chìm đắm trong vọng tưởng tương lai. Có thể là suy nghĩ đúng đắn chăng
khi cho rằng con người chỉ thật sự hạnh phúc nếu tỉnh giác cởi bỏ sự
trói buộc của thời gian tâm lý và sống thuận theo thời gian vật chất? Vế
thứ nhất của câu hỏi vừa nêu đối với một số người còn phải xem lại chứ
vế thứ hai thì cuộc sống và khoa học đã chứng minh là hoàn toàn đúng
đắn. Xin có đôi điều nói về một lĩnh vực dược khoa đã và đang nghiên
cứu để làm sao “dùng thuốc thuận theo thời gian vật chất một cách tốt
nhất”.
Thuốc là sản phẩm được bào chế để có hiệu lực phòng, chữa và chẩn
đoán bệnh. Muốn nâng cao hiệu lực của một thứ thuốc, từ lâu và cho tới
nay có hai biện pháp chủ yếu được áp dụng: 1. Thay đổi cấu trúc hóa học
của thuốc để tạo ra những dẫn chất mới có tác dụng tốt hơn; 2. Chọn
con đường đưa thuốc vào cơ thể và bào chế dạng thuốc tối ưu để giảm
thiểu tác dụng phụ và gia tăng tác dụng điều trị.
Gần đây, khi phát hiện và xác định vai trò các chu kỳ sinh học có
trong cơ thể người, đã xuất hiện một biện pháp khác tỏ ra có nhiều
triển vọng trong việc nâng cao hiệu lực của thuốc. Đó là biện pháp chọn
thời điểm cho thuốc để thuốc có tác dụng tốt nhất. Và đó cũng là nội
dung nghiên cứu của một lĩnh vực mới của ngành y dược học: Dược lý thời
khắc (Chronopharmacologie).
Trước đây, khi nghiên cứu một hiện tượng sinh học trong cơ thể, người
ta thường chú ý nhiều đến tính hệ thống và tìm cách xây dựng cấu trúc
không gian của hiện tượng đó. Thí dụ, theo dõi sự hoạt động bài
tiết của các tuyến nội tiết, người ta tìm cách xác định các hiện tượng
nào xảy ra ở cơ quan nào, mô nào, tế bào nào. Tức là chỉ chú ý giải đáp
các câu hỏi: “ở đâu?” và “thế nào?”. Nhưng các hiện tượng sinh học xảy
ra không phải lúc nào cũng giống nhau. Các trạng thái thể hiện có khi
nhanh, khi chậm, khi mạnh, khi yếu, khi đạt đến điểm cực đại, khi đạt
đến điểm cực tiểu, và câu hỏi: “bao giờ thì hoạt động mạnh, bao giờ thì
hoạt động yếu?”… không được các nhà nghiên cứu quan tâm lắm. Hiện nay
thì người ta đã nhận rõ, những thay đổi của các hiện tượng sinh học
trong cơ thể người xảy ra đều đặn và liên tiếp nhau tạo thành chu kỳ gọi
là chu kỳ sinh học. Có chu kỳ sinh học ngắn như hơi thở, nhịp đập của
tim, có chu kỳ dài hơn như chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ. Chu kỳ
sinh học được nghiên cứu nhiều nhất là chu kỳ ngày đêm gắn liền với chu
kỳ ngày đêm của ngoại cảnh, thí dụ như người ta nghiên cứu sự tiết các
hormon theo chu kỳ ngày đêm, theo dõi sự bài tiết các chất điện giải qua
nước tiểu theo chu kỳ ngày đêm v.v.
Kết quả nghiên cứu các chu kỳ sinh học giúp cho việc xây dựng một cấu
trúc mới của cơ thể ngoài cấu trúc không gian, đó là cấu trúc sinh học
theo thời gian của cơ thể, trong đó các chu kỳ sinh học liên quan chặt
chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất và thể thống nhất này liên
quan chặt chẽ với môi trường bên ngoài.
Trạng thái bệnh lý của cơ thể có thể hiểu là sự biểu hiện rối loạn
cấu trúc sinh học nào đó đưa đến rối loạn cấu trúc sinh học theo thời
gian. Và tác dụng điều trị của thuốc có thể xem là việc điều chỉnh sự
rối loạn này.
Ngược lại, chính cấu trúc sinh học theo thời gian cũng ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc.
Một thứ thuốc đưa vào cơ thể, hiệu lực của nó tùy thuộc vào nhiều yếu
tố, nhưng chủ yếu là do tính dung nạp (nói theo dân dã là tính “hạp’
hay “chịu”) của cơ thể đối với thuốc và sự chuyển hóa thuốc trong cơ thể
đưa đến tác dụng.
Về tính dung nạp thuốc (tức là sức chịu đựng của cơ thể đối với
thuốc), nếu cơ thể không dung nạp thuốc tốt thì thuốc sẽ có tác dụng
xấu thậm chí có thể gây độc. Nhiều nghiên cứu cho thấy tính dung nạp
thuốc của cơ thể cũng biến đổi theo chu kỳ tương ứng với chu kỳ sinh
học trong cơ thể có liên quan. Thí dụ, biết được chu kỳ sinh học của sự
tiết adrenalin nội sinh đạt mức tối đa vào lúc 9 giờ sáng trong ngày;
như vậy, tiêm thuốc adrenalin, tức đưa thêm adrealin từ bên ngoài vào,
vào thời điểm này hoàn toàn không có lợi vì cơ thể đã có sẵn adrenalin.
Hay như người ta đã nghiên cứu cho thấy độc tính của thuốc chống ung
thư (tức tác dụng diệt tế bào ung thư đồng thời cũng là độc tính đối
với tế bào thường) của 5-fluoruracil nếu tiêm vào buổi sáng sẽ mạnh gấp
đôi so với buổi chiều, tức là sự chịu đựng của cơ thể đối với thuốc
chống ung thư này tốt hơn vào buổi chiều.
Về sự chuyển hóa thuốc, nhiều thuốc nếu được cơ thể chuyển hóa
nhanh (gan là cơ quan chủ yếu làm nhiệm vụ này), tác dụng của thuốc
sẽ mạnh nhưng ngắn. Còn chuyển hóa quá chậm, tác dụng sẽ yếu và kéo
dài. Không kể có trường hợp thuốc chuyển hóa chậm có thể tích lũy lại
trong cơ thể gây ngộ độc; qua nghiên cứu người ta nhận thấy sự chuyển
hóa thuốc không phải lúc nào cũng giống nhau mà có sự thay đổi theo chu
kỳ hàng ngày, lý do là sự chuyển hóa thuốc tùy thuộc vào hoạt động của
các enzym gọi là enzym chuyển hóa thuốc (do gan tạo ra). Bản thân các
enzym hoạt động theo chu kỳ và cả hệ nội tiết có ảnh hưởng nhiều đến
việc điều hòa các enzym cũng hoạt động theo chu kỳ.
Như vậy, rõ ràng là tác dụng của thuốc có tùy thuộc vào yếu tố thời
gian. Cho thuốc đúng lúc thì tác dụng sẽ tốt nhất. Cho thuốc không đúng
lúc không những không làm khỏi bệnh mà có khi có hại vì làm rối loạn
thêm cấu trúc sinh học theo thời gian của cơ thể.
Nội dung nghiên cứu chủ yếu của Dược lý thời khắc là xác định thời
gian cho thuốc tối ưu cho từng loại thuốc và cả liều thuốc tối ưu dựa
trên cấu trúc sinh học theo thời gian của cơ thể. Để xác định thời gian
cho thuốc tối ưu, người ta chú ý nhiều đến các chu kỳ sinh học theo chu
kỳ ngày đêm và cố gắng làm sáng tỏ cơ chế sinh ra các chu kỳ sinh học
này. Có giả thuyết cho rằng chính tuyến tùng (glande pinéale) là cơ
quan điều khiển các chu kỳ sinh học. Tuyến này đáp ứng với sự biến thiên
ánh sáng do tuần hoàn ngày đêm từ bên ngoài tác động vào. Tín hiệu của
bóng tối hoặc ánh sáng từ võng mạc của mắt theo dây thần kinh thị giác
về tuyến tùng sẽ kích thích hoặc ức chế tuyến tùng tiết ra các chất
điều khiển các chu kỳ sinh học. Trong các chất ấy, melatonin là chất
được biết tương đối rõ. Người ta đã chứng minh rằng ở một số loài vật,
melatonin được tuyến tùng tiết ra chủ yếu vào ban đêm. Ánh sáng ban
ngày tùy theo cường độ sẽ làm giảm hoặc ngưng sự tổng hợp rồi tiếp theo
là tiết ra melatonin. Hiện nay, melatonin được bào chế dùng trị mất ngủ
nói chung, trong đó đặc biệt là những trường hợp mất ngủ vì lệch múi
giờ.
Khi đưa thuốc vào trong cơ thể, dược lý thời khắc chú ý đến ba vấn đề:
• Thời động học (chronocinétique): tức là thuốc sẽ hấp thụ, phân bố, chuyển hóa, thải trừ theo chu kỳ thời gian như thế nào.
• Thời nhận cảm (chronesthésie): tức là sự đáp ứng của hệ thống đích
(là nơi thuốc sẽ phát huy tác dụng) đối với thuốc theo chu kỳ thời gian
như thế nào.
• Thời năng động (chronesgie): tức là tác dụng của thuốc, kể cả tốt và xấu, theo chu kỳ thời gian như thế nào.
Cho tới nay, có nhiều thuốc được nghiên cứu để chọn thời điểm cho
thuốc tối ưu trong ngày. Thí dụ như thuốc loại glucocorticoid được
uống dùng trị hen suyễn thì có khuyến cáo là nên dùng thuốc vào buổi
sáng (thậm chí để hạn chế tác dụng phụ nguy hiểm của glucocorticoid mà
có khi phải uống thuốc cách ngày, tức hai ngày dùng thuốc một lần).
Trái lại, thuốc theophyllin thì khuyến cáo nên dùng vào chiều tối.
Đặc biệt đối với thuốc trị ung thư là thuốc có độc tính, khai thác hiện
tượng cơ thể nhạy cảm với thuốc không đồng đều trong ngày, các nhà khoa
học tìm cách nâng cao hiệu quả điều trị mà cơ thể người bệnh vẫn chịu
đựng được những thuốc có độc tính cao. Nói cách khác, nếu chọn
được thời điểm cho thuốc tối ưu thì có thể giảm được sự độc hại mà
không cần phải giảm liều thuốc. Thậm chí, người ta hy vọng rồi đây sẽ
còn sử dụng được tất cả những chất trước đây dùng trị ung thư nhưng sau
đó phải loại bỏ vì quá độc.
Đối với người sử dụng thuốc, nên lưu ý dùng thuốc theo đúng chỉ định
của thầy thuốc hoặc theo đúng bản hướng dẫn sử dụng thuốc. Không
những theo đúng loại thuốc mà còn theo đúng cách uống, đặc biệt theo
đúng số lần, theo đúng thời điểm dùng thuốc trong ngày. Các nhà
điều trị không ngừng nâng cao kiến thức về sử dụng thuốc và theo
đúng “giờ nào thuốc nấy” chính là tuân thủ “dược lý thời khắc” đang
được phát triển và áp dụng rộng rãi hiện nay ■
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 124 | NGUYỄN HỮU ĐỨC