16/10/2010 18:24 (GMT+7)
Số lượt xem: 5234
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

3 Vị Thuốc Quý Cho bạn tự chữa bịnh cho mình và cho người để làm phước
 

download 3ViThuocQui.pdf(275,96KB)

Sau  nhiều  năm  trị  bệnh  tôi  thấy  đa  số  đồng  bào  miền  Nam  đều  có
thói  quen  uống  nhiều  nước  đá,  nước  trà  đá,  nước  tủ  lạnh  kế  đến  là
nước cam, nước chanh, nước ngọt công nghiệp, nước dừa, nước mía,
nước sâm và ăn nhiều đồ mát như cải bẹ xanh, rau mồng tơi, rau dền,
đậu  bắp,  khổ  qua,  rau  má,  canh  tập  tàng…  Trái  lại  ít  ăn  nghệ,  gừng,
riềng,  tỏi,  sả…  là  những  thức  ăn  dương  tính  so  với  đồng  bào  ở  miền
Bắc và Trung… Nói chung là đồng bào ở miền Nam hay sử dụng các
thức  ăn  uống  mang  tính  âm  (nói  nôm  na  là  đồ  mát).   Vì  họ  nghĩ  là
thời tiết nóng nực và cũng nóng nực trong mình nên ăn uống đồ mát
để  giải  nhiệt.   Nghĩ  thế  là  không  sai  nhưng  chính  vì  quan  điểm  này
mà nhiều người đã lạm dụng lâu ngày các thức ăn uống trên khiến cơ
thể bị âm hóa sinh ra nhiều bệnh như đau (mỏi) lưng, nhức đầu, mỏi
cổ  gáy,  vai,  thần  kinh  tọa,  cảm  lạnh  (hoặc  dễ  bị  lạnh),  hen  phế  quản,
viêm đại tràng, trĩ, lòi dom, tiêu chảy, đau khớp gối, yếu tim, hay mệt
mỏi bần thần, thiếu máu, mặt xanh xao, vàng vọt hay sợ lạnh, sợ gió,
bướu  cổ,  viêm  xoang,  viêm  mũi  dị  ứng,  thị  lực  kém,  lười  biếng,
không  năng  động,  yếu  sinh  lý,  huyết  trắng…  Ngoài  ra  hơn  khoảng
chục năm trở lại đây, đa số phụ nữ uống nhiều cam, chanh, nước dừa
với  ý  nghĩ  là  để  cho  đẹp  da  và  chống  lão  hóa  (theo  Tây  Y).   Cho  nên
càng khiến cho cơ thể nhiều người bị âm hóa sinh ra nhiều bệnh như
cảm  lạnh,  viêm  mũi  dị  ứng,  viêm  xoang,  thần  kinh  tọa,  huyết  áp
thấp, suy nhược cơ thể, biếng ăn…
 
           Nhận  thấy  đây  là  một  tập  tục  về  ăn  uống  rất  tai  hại  cho  sức
khỏe  của  đồng  bào  ta,  cho  nên  tôi  đã  cố  gắng  tìm  tòi,  nghiên  cứu  và
cho  ra  đời  một  bài  thuốc  bằng  thức  ăn  gồm  3  vị  mang  tính  thuần
dương  (ấm,  nóng)  như  sau:   NGHỆ  ‐  TRÒNG  ĐỎ  HỘT  GÀ  ‐  MẬT
ONG  để  giúp  đồng  bào  có  thể  cân  bằng  lại  âm  dương  trong  cơ  thể
mình  từ  đó  sẽ  bớt  bệnh  và  tăng  cường  được  sức  khỏe.   Đây  là  ba  vị
thuốc  (cũng  là  thức  ăn)  có  nhiều  dược  tính  quý  báu  cũng  đã  được  
nhiều dân tộc trên thế giới dùng hằng mấy nghìn năm qua.  Cho nên
rất tự nhiên và an toàn.
 
           LƯU  Ý:   Điểm  đặc  biệt  của  toa  này  là  chỉ  trị  bệnh  Hàn  (bệnh  lạnh)
chứ  không  trị  bệnh  Nhiệt  (bệnh  nóng)  và  phải  dùng  dưới  dạng  chưng  cách
thủy mới hiệu quả.
 Toa  này  do  tôi  sáng  chế  từ  năm  1976  cùng  lúc  với  toa  Âm
Dương  thang  (tức  là  toa  Tắc‐Nghệ)  và  đã  được  bệnh  nhân  rất  tín
nhiệm trong suốt hơn 20 năm qua (Hai toa này đã được tôi ghi trong
sách  Bài  Giảng  Diện  Chẩn  ‐  Điều  Khiển  Liệu  Pháp  trang  56,  tái  bản
1993).  Qua thời gian dài thử nghiệm tôi thấy toa NGHỆ ‐ HỘT GÀ ‐
MẬT ONG  trị được khoảng 40 bệnh chứng có nguyên nhân do lạnh
như sau:
 
 15. Thiếu  máu,  mặt  xanh  xao,     37. Viêm đại tràng mạn tính.
vàng vọt.
16. Tay  chân  lạnh,  thường         38.  Đau  gan  vàng  da  (chỉ  dùng
 
xuyên   mặc áo len.

17. Nhức đầu.
18. Mất ngủ.
19. Đau lưng
20. Yếu sinh lý
21. Rong kinh
22. Huyết trắng.
 nghệ,  mật  ong  chưng  cách  thủy,
không dùng hột gà).
39. Sa tử cung.
40. Sa dây chằng.
41.  Mệt  tim  (do  uống  nhiều  nước
dừa).
42.  Mỏi  cổ  gáy  vai  (do  uống  nhiều
nước đá).
43. Huyết áp thấp.
44. Ung thư máu.
 
 Toa  Tắc  nghệ  (Âm  –  Dương  thang)  dùng  để  quân  bình  Âm
Dương  cho  nên  chữa  được  các  bệnh  do  nóng  hay  lạnh  như  cảm
nóng,  cảm  lạnh,  viêm  mũi  dị  ứng,  viêm  xoang  trong  khi  toa  Nghệ  ‐
Hột  gà  ‐  Mật  ong  chỉ  chữa  được  các  bệnh  do  lạnh  mà  thôi.   Riêng
Nghệ  xắt  lát  phơi  khô  ngâm  rượu  để  dành  có  thể  trị  vết  thương
nhiễm trùng, đứt da thịt, trầy xướt da chảy máu.
 
          CÔNG THỨC:
 
1. Nghệ  xà  cừ  (còn  gọi  là  nghệ  Tàu,  tức  nghệ  khi  ta  cạo
vỏ  thấy  có  màu  vàng  sậm) :   Một  củ  bằng   ngón  chân
cái người bệnh.
 
2. Hột gà:  Nên chọn hột gà ta còn mới tốt hơn hột gà Mỹ
và chỉ lấy tròng đỏ, bỏ tròng trắng.
 
3. Mật ong nguyên chất:  Có thể mua mật ong ở các tiệm
bán  mật  ong  hay  công  ty  nuôi  ong  nếu  không  có  mật
ong rừng.
 
CÁCH  CHẾ:   Nghệ  rửa  sạch,  cạo  vỏ  để  trong  chén  ăn  cơm  rồi
giã  nhỏ  ra.   Xong  đổ  vào  cỡ  1/3  chén  nước  nóng  rồi  dầm  cho  dễ  ra
nước  nghệ.   Xong  ép  lấy  nước  nghệ,  bỏ  xác  ra  kế  đến  cho  tròng  đỏ
hột  gà  và  hai  muỗng  café  mật  ong  vô  chén.   Tất  cả  đánh  nhuyễn  rồi
đem  chưng  cách  thủy.   Sau  khi  sôi  độ  10  phút  bắc  xuống,  ăn  lúc  còn
ấm.  Khi chín nó có dạng như bánh flan, ăn khá ngon.
 
           CÁCH  DÙNG:  Nên  ăn  vào  khoảng  8‐9  giờ  tối,  cách  buổi  cơm
chiều 3 giờ (ăn mỗi ngày một lần).  Ăn một liệu trình từ 3 hoặc 6 hoặc
9  hay  12  ngày  tùy  mức  độ  bệnh  nặng  hay  nhẹ,  mới  bị  hay  đã  lâu.  
Nếu nhẹ thì ăn ít ngày, nặng thì ăn nhiều ngày hơn.  Ăn đợt một liên
tiếp trong 3 hoặc 6 hoặc 9 hay 12 ngày.  Nếu chưa thấy hết lạnh (hoặc
chưa  thấy  ấm)  thì  cứ  tiếp  tục  ăn  cho  đến  khi  thấy  nóng  trong  người
(táo  bón,  nổi  mụn  nhọt,  viêm  họng,  mất  ngủ,  ho  nhiều)  thì  dừng  lại
không  ăn  nữa  (nên  nhớ  đây  là  thức  ăn  nhưng  cũng  là  thuốc  cho  nên
chớ nên dùng quá liều sẽ có hại).  Ngưng một tuần sẽ ăn lại nếu chưa
hết  bệnh.   Ăn  ba  đợt  thì  ngưng  một  tháng  mới  ăn  lại  từng  đợt  như
cũ.   Nếu  đã  hết  bệnh  thì  thỉnh  thoảng  khoảng  nửa  tháng  hay  một
tuần cũng nên ăn một lần để củng cố kết quả cho lâu bền hơn.
 
          LƯU Ý:  Toa này có thể gia giảm như sau:
 
          ‐  Nếu thấy đàm nhiều thì bớt mật ong, dùng 1 muỗng thay vì 2
muỗng café (vì ngọt nhiều hay sinh đàm).
 
 Nếu thấy nóng quá thì bớt nghệ lại (dùng củ nhỏ hơn).
 
  ‐   Con  nít  dùng  rất  tốt  tuy  nhiên  liều  lượng  cần  phải  giảm  còn
1/3  của  người  lớn  và  không  nên  dùng  nhiều  ngày.   Vì  con  nít  dương
khí  nhiều,  nghệ  cũng  dương  cho  nên  dùng  nhiều  không  được  là  vì
thế.
  ‐   Phải  dùng  nghệ  tươi  mới  có  công  hiệu  nhiều  hơn.   Đừng  vì
tiện lợi mà dùng nghệ bột bán sẵn sẽ không có hiệu nghiệm bằng.  Và  

sau  hết  xin  nhắc  lại  là  phải  chưng  cách  thủy  mới  đúng  cách  và  có
hiệu quả cao.
 
           TOA  ÂM  DƯƠNG  THANG  gồm  hai  vị  tắc  và  nghệ.   Trái  tắc
có tính mát (thuộc âm), nghệ có tính ấm, nóng (thuộc dương).
 
           CÁCH  LÀM:   Nghệ  cạo  vỏ,  giã  nhỏ.   Trái  tắc  (lựa  trái  to,  còn
tươi  xanh,  đừng  lựa  trái  chín)  cắt  đôi,  để  nguyên  hột,  bỏ  vô  chén,
thêm  vào  3  muỗng  mật  ong  (hay  đường  phèn)  và  ½  chén  nước  đem
chưng  cách  thủy  15  phút.   Uống  sau  hai  bữa  cơm  chính  trong  ngày,
mỗi  lần  uống  5  muỗng  cà  phê  (xác  nghệ  và  trái  tắc  có  thể  ăn  nếu
muốn).  Không được dùng trước khi ăn cơm.  Cần lưu ý:  đối với bệnh
lạnh  và  người  hư  nhược,  yếu  ớt  (Đông  Y  gọi  là  hư  hàn),  phải  dùng  nghệ
nhiều  (cỡ  ngón  chân  cái  người  lớn)  và  tắc  ít  (1/2  trái  tắc).   Trái  lại  đối  với
bệnh  nóng,  dùng  trái  tắc  nhiều  (2‐3  trái  bổ  đôi)  và  nghệ  ít  cỡ  ½  lóng  ngón
tay  út,  cạo  vỏ,  giã  nhỏ  bỏ  vào  ½  chén  nước).   Liều  lượng  cho  trẻ  nhỏ  bằng
1/3  hay  ½  người  lớn.   Toa  này  ăn  rất  thơm  ngon  và  công  hiệu  nhưng  nên
nhớ  đây  là  thuốc  rất  mạnh  cho  nên  chớ  coi  thường  mà  lạm  dụng  quá  liều
lượng quy định sẽ bị phản tác dụng, có haị.
 
           Dấu  hiệu  bệnh  nhiệt  (nóng):   Không  sợ  trời  lạnh, không  sợ  gió,
không  sợ  nước  lạnh,  hơi  thở  nóng,  môi  khô,  lưỡi  đỏ,  rêu  lưỡi  vàng,
khát nước, tiểu nóng, vàng.  Mạch cổ tay đập nhanh, mạnh.
 
           Dấu  hiệu  bệnh  hàn  (lạnh):   Ngược  lại  với  các  dấu  hiệu  trên,  sợ
khí hậu lạnh, sợ gió, sợ nước lạnh, hơi thở lạnh, môi khô, lưỡi không
đỏ,  rêu  lưỡi  trắng,  không  khát  nước,  tiểu  trong.   Mạch  cổ  tay  đập
chậm, yếu.
 
           Toa  Âm  Dương  thang  cũng  trị  được  nhiều  bệnh,  trong  đó  có
cảm  lạnh  (dùng  nghệ  nhiều  tắc  ít),  cảm  nóng  (dùng  tắc  nhiều  nghệ
ít), suyễn hàn (nghệ nhiều tắc ít), suyễn nhiệt (tắc nhiều nghệ ít), thấp
khớp (tùy dạng nhiệt hay hàn mà để nghệ nhiều hay ít), bế kinh (tùy
dạng  nhiệt  hay  hàn  mà  để  tắc  nhiều  hay  nghệ  nhiều),  viêm  xoang,  

viêm  phế  quản  mạn  tính  (ngứa  cổ  ho  hoài)  viêm  mũi  dị  ứng,  nhức
đầu, mất ngủ…
 
          Lưu ý:  Xin các bạn đọc kỹ bài này 10 lần trước khi dùng:
 
          Xin mời các bạn thử nghiệm sẽ thấy hiệu quả.
 


Âm lịch

Ảnh đẹp