Trong văn học, nhà thờ Đức Bà, một giáo đường cổ lớn bậc nhất Paris được ngọn bút tài hoa của Victor Hugô mô tả thật sinh động trong từng trang sách. 
 
  
 
          Huế có Thánh Duyên Tự nổi tiếng cùng bao nhiêu ngôi chùa cổ khác, mỗi ngôi chùa là một thắng cảnh của đất Thần Kinh.
 
  
 
Xa
 hơn, ngôi chùa trong tâm thức mỗi người, gần hơn, ngôi chùa làng. Nói 
nghe nghịch lí mà thường khi sự thật là như vậy. Vậy chùa là gì mà vừa 
gần gũi vừa xa cách như thế? Đó là nơi thờ phượng đức Thế Tôn, thờ 
phượng những vị khác có cả ông Ác ông Thiện. Đó là nơi hàng tuần Phật tử
 tại gia và Gia đình Phật tử tới nghe giảng thuyết và tu tập. Kể cả 
những ai xa quê lâu ngày, việc đầu tiên là đến thăm chùa. Chùa là hình 
ảnh thân thương  nhất, dễ gì quên. Bởi vì chính 
tại nơi này, ta có thể thố lộ tâm tình tự do với một vị Sư có thể là Sư 
chú, có thể là Sư cô, có thể là một vị Hòa thượng. Khi có chuyện gì đó 
không
 thể giải quyết được, phần lớn thuộc phạm vi tinh thần làm cho ta khổ, 
ta lại đến chùa. Khi buồn bực trong lòng, giận chuyện chồng con, buồn 
chuyện gia đình, ta lại đến tìm chùa, tìm Phật. Phật Thích ca Mâu Ni, 
Phật bà Quán thế Âm. Nếu như Quán thế Âm là lắng nghe nỗi đau của nhân 
loại, hẳn người đã lắng nghe vô số niềm đau nỗi khổ - mà e chốn thế gian
 niềm đau thương tuyệt vọng nhiều hơn tiếng cười chăng? Niềm vui luôn 
hàm chứa đằng sau nó nỗi  buồn. Hạnh phúc hàm chứa
 đau khổ. Luôn như thế mà mấy ai chú tâm đến điều ấy để mỗi lần khổ đau 
tuyệt vọng lại tìm đến chùa như một nơi nương tựa?
 
  
 
Rất
 nhiều hình tượng đẹp trong thơ là một ngôi chùa. Không nhà thơ nào 
không một lần, ít nhất trong đời, hoặc đến với chùa hoặc với ngôi giáo 
đường tôn nghiêm. Để rồi qua thi ca viết lại cảm nghĩ của mình hoặc 
những chiêm nghiệm đã tựu thành trong khoảnh khoắc.  Những
 câu thơ hay và đẹp bắt nguồn từ đó. Có khi cũng vì một bài thơ hay, ta 
đâm yêu mến mái chùa hoặc siêng đến chùa, một việc tuy không có gì khó 
khăn mà ta mãi bơi trong vòng quay của cuộc sống cứ khất lần hoặc chưa 
hề nghĩ đến, việc mình có tín ngưỡng không, hay có nên theo đạo Phật 
không, chứ đừng nói đến việc tìm Thầy học đạo. 
 
  
 
Dưới ngòi bút tài tình của thi hào Nguyễn Du, Thúy Kiều đi tu ba lần. Đổi nhà cả thảy bốn lần. 
 
Lần đầu là do tình thế bắt buộc, không thật lòng, nên:
 
“Gác kinh viện sách đôi nơi
 
Trong gang tấc lại gấp mười quan san”.
 
Lần
 thứ hai, trên nẻo đường đào thoát khỏi nhà Hoạn Thư, ngôi chùa đột ngột
 hiện ra như ngôi nhà quen thuộc, vị Sư xuất hiện chẳng khác nào vị cứu 
tinh. 
 
“Xăm xăm gõ mái cửa ngoài
 
Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong
 
Thấy màu ăn mặc nâu sồng
 
Giác Duyên sư trưởng lòng lành liền thương.
 
 …Sớm khuya lá bối phiến mây
 
Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sương.
 
          Lần
 thứ ba, Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường được Sư chị Giác Duyên chờ sẵn 
thuê người vớt, được cứu sống và…sau đó lại đi tu lần nữa.
 
          “Thấy nhau mừng rỡ trăm bề
 
          Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
 
          Một nhà chung chạ sớm trưa
 
          Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng”.
 
  
 
Như
 vậy hình ảnh vị Sư chú, Sư chị trong thơ ca tượng trưng cho lòng từ bi 
và ngôi chùa là hình tượng thân thương, dễ gần nhất, đẹp nhất, từ đó ta 
làm quen với ngôi chùa, nếu cả đời ta chưa hề đến. 
 
  
 
          Chùa
 trong thơ Mặc Giang là một khái niệm rộng. Nói rộng vì qua ngôn ngữ thơ
 Mặc Giang, chùa là một cái gì thiêng liêng mà gần gũi, tôn nghiêm mà 
bao dung, trầm lắng đó mà sôi nổi cũng ở đó. Tình đạo, tình người, tình 
thầy trò thân thương biết mấy!
 
  
 
          Chùa
 là mái nhà quê mẹ. Chùa còn là quê hương tâm thức, nỗi lòng của mỗi 
người xa xứ. Nói rộng ra, đó là nơi ta có thể trở về an trú, không sợ 
hãi, không ai dòm ngó xét nét, phê bình. Dù ta có bỏ đi lâu, có làm gì 
chăng nữa thì mái chùa cũng là nơi chở che, thấm đậm tình dân tộc như 
trong thơ Mãn Giác thiền sư đời Lý. Tình thầy trò sống dậy sau bao năm 
tháng thăng trầm, ấm mùi đạo vị, không lý luận so đo. Không những hình 
tượng chùa trong thơ tác giả là một khái niệm rộng, nó còn sâu. Rất sâu.
 
 
  
 
          “Từ thuở tới lui dưới mái chùa
 
          Quên đi bóng dáng những hơn thua
 
          Tiếng kinh câu kệ hòa âm điệu
 
          Đức Phật mỉm cười ai thấy chưa?
 
  
 
          Xin chắp tay hoa trước Phật đài
 
          Bụi trần buông thả khỏi đôi vai
 
          Nghe sao thanh thản bình yên quá
 
          Hết tiếng sầu thương hết thở dài”
 
                                    (Cửa Phật từ bi hóa nhiệm mầu)
 
  
 
Ở
 chùa, không chỉ muối dưa, tương chao chay lòng, mà còn có tiếng chuông.
 Tiếng chuông đưa hồn người xa mùi tục lụy, tiếng chuông thức tỉnh những
 tâm hồn còn mê muội giấc mộng phù hoa, tiếng chuông ngân dài trong đêm 
vắng, có tác dụng như liều thuốc giải trừ bao nhiêu phiền muộn lo âu. 
Bao nhiêu toan tính giựt giành. 
 
          “Thử xem, son sắt có phai
 
          Thử xem, khí tiết kéo dài tới đâu
 
  
 
….        Ngân vang đánh thức tiếng chuông
 
          Tiếng chuông đồng vọng, tỉnh hồn cùng ai
 
          Giật mình, gối mộng thiên thai
 
          Bừng trong giấc ngủ mê dài đã lâu”.
 
                                                    (Tiếng chuông vang vọng ngân dài)
 
  
 
Chùa
 trong thơ Thầy không có vẻ ngoài xa hoa lộng lẫy, đó là ngôi chùa quê. 
Một ngôi chùa ta dễ dàng bắt gặp bất cứ nơi đâu trong những làng xã Việt
 nam. Ngôi chùa nào cũng có ngày cúng lễ, ngày sóc ngày vọng, ngày húy 
kỵ ... Chùa quê tuy đạm bạc mà ấm cúng, gần gũi như lũy tre làng, cánh 
đồng lúa chín; người dân quê quanh năm lao động vất vả không quên đến 
chùa ngày rằm, ngày mồng một hàng tháng, thắp nén tâm hương hồi hướng 
công đức tưởng nhớ đấng sinh thành, và cũng để tập tu. 
 
          “Dân làng, người cúng chè xôi
 
          Người dâng nải chuối, người thời bó rau
 
  
 
              Chùa tôi, không tiếng hơn thua
 
              Chùa quê đạm bạc quê mùa thế thôi!”
 
  
 
Hình ảnh người con Phật được diễn tả rất dung dị, rất đời thường.
 
          “Hôm qua em đi lễ chùa 
 
          Dọc đường rơi rụng hơn thua
 
          Thanh không vô cùng thanh sắc
 
          Áo lam em mặc bốn mùa
 
….
 
            Hôm qua em đi lễ chùa 
 
          Phất phơ tam nghiệp gió lùa
 
          Ngập ngừng tam vô ngưỡng cửa
 
          Đưa em về lại nhà xưa”
 
  
 
Thầy
 đã dâng tặng cho đời những vần thơ giản dị, ngôn ngữ thơ đơn sơ mà sâu 
lắng. Những vần thơ đẹp lung linh đậm đà tình yêu quê hương đất nước. 
Ngôn ngữ trong thơ thầy Mặc Giang là một thứ ngôn ngữ nói giàu nhạc 
tính, nhiều màu sắc, giàu hình tượng song rất đặc thù. Nó là một thứ 
ngôn ngữ thơ riêng biệt, riêng mà chung. Phải chăng đó là Phật tính! 
Tưởng cũng có thể mượn những câu thơ sau để nói lên ý tình sâu sắc trong
 thơ Mặc Giang thay lời kết:
 
          “Áo lam bốn mùa em mặc
 
          Đạo mầu từ đó em mang
 
          Thanh hương đi về thanh sắc
 
          Đạo mầu còn đó vang vang”. 
 
                                (Hôm qua em đi lễ chùa) 
 
          Chùa, sau cùng, là quê hương tâm linh của mỗi người con Phật.
 
  
 
27/9/2010
 
Hương Tâm