THƠ VÀ CÂU ĐỐI


Tác giả: Hòa Thượng Thích Trí Thủ
12/12/2010 17:53 (GMT+7)
Số lượt xem: 4250
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

VIẾT TRONG ĐỜI SỐNG ĐẠO PHẬT HỌC VIỆN NHA TRANG


Mang mang trường dạ trung

Tam bảo vi minh đăng

Thao thao khổ hải nội

Tam bảo vi từ hàng.

Hoang mang giữa quãng đêm dài

Này ngôi Tam bảo là đài quang minh

Ngập trời bể khổ lênh đênh

Này ngôi Tam bảo sanh linh thuyền từ.

Kỷ niệm Phật đản 2505

THÍCH TRÍ THỦ

 

CUNG KỶ TỪ HIẾU TỔ ĐÌNH KHÁNH THÀNH CHI LỄ

Mạc nhĩ Thiền tôn truy tư Tổ

Đức quang hỷ từ bi đại tai

Hùng lực Từ Hiếu gia danh

Xuân sơn tịnh vức bất ỷ bất thiên.

Duy tinh tình nhất thị pháp trường

Ngưng kỳ nghi bất hoặc lịch đại

Miên miên tiêu tâm dực dực

Vạn cổ chân phong yết kỳ hữu cực.

Phật lịch nhị thiên ngũ bách tứ niên

Canh tý Mạnh Đông

Ba La, Tra Am tọa chủ hiệu Trí Thủ

Tịnh môn pháp bái thượng.

(Câu đối ở chùa Từ Hiếu, đề tặng Hòa Thượng Tọa chủ nhân lễ khánh thành chùa).

 

ĐỀ TẶNG HÒA THƯỢNG CHÙA CHÂU LÂM.

Mỹ hỷ đạo sư, cứ sư tử tòa, diễn đại pháp âm

Hoán tỉnh mê nhơn văn diệu kệ,

Thiện tai văn sĩ, trước tệ cấu y, hiện tiểu thừa tướng

Vãng hồi cùng tử phó gia trân.

 

ĐỀ TẶNG CHÙA BA LA, HUẾ

Bán thiên chung bích nhập Kỳ viên

Mãn địa hoa hương khai Phật quốc

(Câu đối)

Dĩ Đức Trì thân hảo tác nhân

Tam sinh thạch thượng thủ tinh thần

Hành thâm Bát nhã Ba la mật,

Mãn địa thiên hoa bất trước thân.

(Phật lịch nhị ngũ nhất ngũ, Tân hợi Thu)

 

ĐIẾU SƯ HUYNH TRÍ GIẢI

     Tam sanh thạch thượng ức tiền duyên,

     Nhân, ngã, đồng tham Đại Phổ Hiền.

     Quy khứ bất phường, vân tán tụ,

     Cô tùng, hạc lãnh, nại hà thiên!

Dịch

     Ba sanh hòn đá nhớ tiền duyên,

     Cùng học cùng tu hạnh Phổ Hiền.

     Đi mất, ngại gì mây tán tụ!

     Tùng côi hạc lạnh nói sao nên!

 

NƯỚC TÀO KHÊ

Khe Tào nước chảy về Đông,

Bát bình nối dõi lâu không nhớ ngày.

Trăng thiền nào khác xưa nay,

Viên Thành ấn chứng đã dày công tu.

 

TỤNG KINH HOA NGHIÊM CẢM TÁC

     Phần hương nhứt nguyện Pháp không vương

     Đại hạnh đồng tham biến cát tường

     Sát hải trần thân thi diệu lực.

     Trầm kha chướng loại tận an khương.

     Đốt nén tâm hương trước Phật đài

     Phổ hiền hạnh cả nguyện nào sai

     Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo

     Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài.

 

CẢM NIỆM PHẬT THÀNH ĐẠO

     Đêm sâu từ bỏ chốn hoàng cung

     Cắt đứt dây thương bận mấy vòng

     Chữ đạo nằm trên ngai phú quý

     Thề đem muôn loại thoát lao lung.

 

     Lao lung đau khổ chốn trần ai

     Bể ái nguồn ân chìm nổi hoài

     Động mối bi tâm nguyền tát cạn

     Trải bao sương tuyết cũng không nài.

 

     Không nài thể chất có và không

     Khám phá cho ra manh mối lòng

     Đạp vỡ hồng trần gương trí rạng

     Đốt đèn chân lý dẫn quần mông.

 

     Quần mông theo dõi ánh từ quang

     Hổ biến rừng mê khỏi lạc đoàn

     Mưa móc thấm nhuần cơn sống chết

     Nhớ ơn Từ Phụ mãi lo toan.

 

     Lo toan xin đốt nén tâm hương

     Với nhánh quỳ hoa ngỏ cúng dường

     Thành đạo bốn phương trời chấn động

     Muôn linh mừng thấy đấng Y Vương.

 

     Y Vương chứng tỏ khối lòng châu

     Trăm kiếp nghìn đời nguyện cúi đầu

     Sứ mạng làm tròn thân đệ tử

     Chiếu đèn diệu huệ giữa đêm sâu.

(1948)

  

TẶNG ĐỔNG MINH ĐẠI SƯ

Nhất thừa thật tướng ấn

Pháp pháp tận viên dung

Từ bi vô quái ngại

Tứ cú bách phi không.

 

HƯỚNG VỀ

Mỗi lần xuân hết hè sang,

Hồ trong sen nở nhụy vàng phơi hương.

Đàn con Phật, khắp muôn phương,

Hướng lòng thành kính cúng dường Đản sanh.

Thâm tâm truy niệm ân lành,

Nghìn xưa Ưu bát một cành ngát hương.

Nhớ thuở ấy, lúc tan sương,

Nhạc trời rung cảm, bốn phương thái bình;

Muôn chim ca khúc bình minh,

Cha lành cứu khổ ứng sinh Diêm phù,

Tám mươi năm mãn công phu,

Sa la ẩn bóng, mạn thù thâu hương!

Đạo vô thượng đủ ngàn phương;

Ánh vàng chói lọi, sáng đường lầm mê.

Phá trừ ma chướng nặng nề,

Sanh linh lạc lối trở về đường ngay.

Kiếp xưa âu cũng duyên may,

Mênh mông bể khổ được lây hương thừa;

Xót mình đức bạc tài sưa,

Ân sâu khó trả, nghiệp xưa còn nhiều

Trước đài hương tỏa phiêu diêu,

Chí thành đảnh lễ đấng Siêu Nhân Hoàn;

Con thề đem mảnh thân tàn,

Phụng thờ chánh pháp đạo vàng bền lâu.

Hư không tan rã mặc dầu,

Sắt gan ghi tạc, nguyện cầu chứng tri;

Hướng về muôn đức từ bi,

Đường lên giác đạo quyết đi tận cùng.

   (Đặc san Mừng Phật đản P.H.V.1957)

  

CẢM TÁC XUÂN CANH TUẤT  

Tuổi đà "dĩ thuận" lẻ thêm hai

Hơn thiệt chi chi cũng hết nài

Nội hạc chưa ngừng sân Lão thọ

Ngàn mây còn vướng ngõ Hoàng Mai

Non xanh, pháp nhãn hoa Linh Thứu

Nước biếc, thiền tâm bóng Thiện Tài

Cánh thiệp tin xuân hồn đất mẹ

Nén hương hằng nguyện trước liên đài.

 

VỊNH CÂY BỒ ĐỀ

 

     Bồ đề đạo thọ gốc thiên nhiên

     Phật tổ xưa kia đến tọa thiền

     Dẹp sạch ma vương thành chánh quả

     Bước lên thánh vị được chơn truyền

     Ba ngàn thế giới hào quang tỏa

     Muôn vạn sanh linh giải thoát phiền

     Dầu dãi nắng sương càng vững chắc

     Đâm chồi nảy lộc khắp tam thiên.

   (Mậu Thân, 1968)

 

 

XUÂN QUÝ MÃO CẢM TÁC

 

     Xuân này tính tuổi chẵn năm lăm

     Kiểm điểm công phu ngấy lỗi lầm

     Còn luyến cành hoa khi sáng sớm

     Đan vương tơ nắng lúc chiều âm.

     Liệng vành mỏi cánh thương thân bướm

     Nhả kén si gan ngán ruột tằm

     Đốt nén hương nguyền thề sám hối

     Trước sau giữ trọn chữ Không Tâm

(1963)

 

XUÂN MẬU THÂN

     Bốn mươi tuổi đạo, sáu mươi đời

     Cái kiếp phù sinh quá nửa rồi

     Cay đắng nếm dư đầu chót lưỡi

     Khen chê nghe đủ giữa vành tai

     Mây ngàn vạn nẻo tung đường hạc

     Hương nguyện mười phương quyện gió trời

     Tâm sự sắc không ai có biết ?

     Kìa gương bát nhã vốn trong ngời.

(Mậu thân, 1968)

 

CẢM ĐỀ NON BỘ BẢN ĐỒ VIỆT NAM

(tại Thiền thất P.H.V. Nha Trang)  

Dấn thân mây hạc giang hồ

Chạnh lòng quê mẹ dư đồ Việt Nam.

Này thắng tích nọ danh lam,

Máu xương trang trải ai làm nên khung.

Đúc vun khí tiết hào hùng,

Hai vai gánh nặng Quang Trung Nguyễn Hoàng.

Trường Sơn một dãy hiên ngang,

Càng nhìn càng ngắm muôn vàn thân yêu.

 

Non sông gấm vóc mỹ miều,

Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương.

Dù cho Nam Bắc đôi đường;

Đốt lò hương nguyện bốn phương một nhà,

Sớm hôm hướng nẻo Phật đà,

"Sắc, Không" tâm sự đường xa nỗi gần.

Mong sao giữ vẹn mười phần

Thanh cao dáng núi, trong ngần vẻ sông.

Gấm vóc gương nước tinh thần,

Đạo vàng dân tộc chiếu hồng muôn xuân.

 

VIẾNG LẠI CHÙA HƯƠNG

Cỏ hoa còn nhớ ta chăng,

Bước du tăng đã bao lần tới đây ?

Tuyết sương nhuộm bạc râu mày

Non sông gấm vóc vẫn đầy sắc xưa.

Đây khe yến, nọ rừng mơ,

Này am cửa Võng, suối bờ Giải oan.

Hỏi thăm người cũ: bàng hoàng,

Anh linh đã nhập sen vàng phương Tây! ...

Nam Thiên đệ nhất còn đây,

Chim ca cúng trái, cá quầy nghe kinh.

Hoa thiên sương ngọc long lanh,

Hương thiền ngào ngạt gió lành phân phân ...

Trầm loang điểm tiếng chuông ngân,

Bước lên mỗi bước, tần ngần, nao nao ...

Tình yêu đất mẹ dâng cao

Trong ngần bể rộng dạt dào suối khe

Ba ngàn thế giới nhắn nhe

A di đà Phật quy về, ai ơi!

Bức tranh thủy mạc ngàn đời,

Đào nguyên e cũng hổ ngươi kém phần ...

  

QUỲ TRƯỚC ĐIỆN

Đệ tử hôm nay quỳ trước điện

Chí tâm đảnh lễ đấng Từ tôn

Đã bao phen sanh tử dập dồn

Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo

Thế tôn đã đinh ninh di giáo

Mà con còn đắm đuối mê say

Mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày

Tai thích tiếng mật đường dua nịnh

Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh

Lưỡi dệt thêu lắm chuyện cay co

Thân tham dùng gấm vóc sa sô

Ý mơ tưởng bao la vũ trụ

Bởi lục dục lòng tham không đủ

Lấp che dần trí huệ từ lâu

Hôm nay con giác ngộ hồi đầu

Tâm sám hối phơi bày tỏ rõ

Nguyện tội ác từ nay lìa bỏ

Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê

Trước đài sen thành kính hướng về

Tịnh tâm ý quy y Tam bảo

Phật giới cấm chuyên trì chu đáo

Dứt tận cùng gốc rễ vô minh

Chí phàm phu tự lực khó thành

Cầu Đại Giác từ bi gia hộ

Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ

Con hết lòng vì đạo hy sinh

Nương từ quang tìm đến bảo thành

Đặng tự giác giác tha viên mãn.

 

TỤNG KINH PHÁP HOA CẢM TÁC 

Một lòng kính lạy Phật đà

Ngàn đời con nguyện ở nhà Như lai

Con hằng bận áo Như lai

Con ngồi pháp tọa Như lai muôn đời

 

Trí lực năng nhân tiêu cổ sầu

Thân vân tâm nguyện nhất thời hưu

Nhược ly không hữu đoạn thường luận

Khổ hải cuồng ba bát hoạt châu.

   Phật lịch nhị ngũ nhị tứ, Canh thân hạ

   Quảng Hương Già Lam

   Thiện Thệ Tử Thích Trí Thủ đề  

 

Bài thơ họa theo bài Nguyên Xương của Tuệ Không

Già lam, nơi hiệp chúng tăng già.

Tu niệm nào phân biệt trẻ tra.

Gặp bạn thơ vui câu Đổ Phủ

Noi đường giác rạng tánh Di đà.

Liêu sau vọng bái hình Sơ tổ

Sân trước cung chiêm tượng Phật bà.

Cửa đạo khai tâm thường rộng mở,

Khuyên đời chẳng nệ khách vô ra.

 

THƠ NHÁC

(Thiện Mỹ số 48, trang 12 ngày 22-10-1965)

Nhân đọc bài Chiếc Mũi, nguyên tác Bgunosure Akutagan do thi sĩ Vũ Trụ dịch, đăng ở tuần báo Thiện Mỹ số 46 ra ngày 8 tháng 10 năm 1965. Sực nhớ một bài thơ Nhác của thầy tôi (Hòa thượng Viên Thành sáng lập chùa Tra Am, Mật Sơn ở Huế hiện nay) đọc cho tôi nghe hồi còn nhỏ mới xuất gia hành đạo. Xin chép ra đây để cống hiến bạn đọc nghe cho vui. Mặc dù nó không còn hợp thời theo tôi nghĩ. Thơ rằng:

Ai thăm ơn lắm, dám thăm ai,

Ai mời xin lánh, dám mời ai.

Nhà dột lá che không đợi lợp

Phên xiêu gió đẩy không đợi cài

Phải chăng mặc thế hơi nào nghĩ

Hơn thiệt tình đời cũng chẳng nài

Dễ có công đâu ngồi quẹt mũi ( )

Nay còn chưa kể huống là mai.

 

BÀI THƠ BÈO

(Do Trạng Giáp Hải họa. Nguyên tác của Bao Bá Ôn. Hòa Thượng dịch sát nghĩa)

Vải gấm dày dày chẳng lọt kim

Lá liền với gộc kế nào thêm

Đã cùng mây trắng tranh làn nước

Lại thấy vừng hồng rực ánh tươi

Ngàn lớp sóng nhồi không rã nổi

Muôn cơn gió dập chẳng lay chìm

Ít nhiều rồng cá nương trong ấy

Lã Vọng ngồi câu hết chỗ tìm.

 

Bể ái sông mê sóng ngập đầu

Xoay vòng sống chết mãi không thôi

Ai mà trở gót xoay đầu lại

Trước mắt đài sen hiện sáng ngời.

Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông.

 

CỐ ĐÔ HOA LƯ

Ngàn năm văn hiến Việt Nam ta

Đinh Lý Trần Lê quả thật là

Để tiếng anh hùng ngời nét đẹp

Diệu phong đã vẹn trổ hồn hoa.

(Tham quan cố đô Hoa Lư tháng 9.1983)

 

NÔNG TRẠI NƯỚC NGỌT

Ba gian nhà là một chòm mây

Cảnh trí khen ai khéo sắp bày

Dạo khắp bồng lai về "Nước ngọt"

Ba gian nhà là một chòm mây.

(Cảm tác khi đi thăm đạo hữu Nguyễn Mậu Tùng tại nông trại Nước Ngọt)

(1940)

 

NHỚ LÀNG

Tôi nhớ làng tôi sống cực nghèo

Lũy tre soi bóng nước trong veo

Quanh năm phẳng lặng dòng sông Hãn

Đùm bọc thân yêu tấm nhiễu điều

Làng tôi xa lánh cảnh phồn hoa

Sớm tối chuông ngân khắp mọi nhà

Luống cải vồng rau sanh hoạt thú

Tiếng cười xen lẫn tiếng dân ca.

Làng tôi cát mịn nước hồ trong

Gió mát sen thơm dân một lòng

Chạp giỗ sum vầy tình nội ngoại

Buồn vui san sẻ đói no chung

Làng tôi khó tả hết tình yêu

Dù nói bao nhiêu chẳng thấy nhiều

Bể rộng trời cao tôi thấy nhỏ

Trung Kiên đất tổ ngập tình yêu.

 

THĂM LẠI CHÙA NON NƯỚC

Mười lăm năm trước đến ngày nay

Cũng nước non tiên cũng lối này

Hòn đá tham thiền trơ trọi đó

Hỏi thăm người cũ chẳng ai hay.

 

LÊN VỌNG HẢI ĐÀI

Trời mênh mông bể mênh mông

Trời bể mênh mông sóng chập chồng

Mấy chiếc thuyền ai qua bể biếc

Nỗi sầu mang nằng chở không đùa.

 

LÊN VỌNG GIANG ĐÀI

Giang sơn gấm vóc ngắm càng xinh

Nước nước non non thật hữu tình

Mây bạc chập chờn ngang cửa động

Thương thay bầy én liệng quanh vành.

 

KÍNH ĐIẾU THẦY KIM TIÊN

Thầy chết rồi ư ?

Mang mác hồn quê mây tán tụ.

Tôi còn sống sót lại

Mênh mông bệ nguyện lệ đầy vơi!

 

ĐIẾU HÒA THƯỢNG THÍCH MẬT NGUYỆN

Đồng bào còn đau khổ

Nhân loại còn nhiễu nhương

Lá vàng rơi xơ xác cội bồ đề

Hòa thượng ra về chi quá vội

 

Đạo pháp cần phát huy

Đàn em cần hướng dẫn

Mây trắng phủ lờ mờ trăng bát nhã

Chúng tôi ở lại tính sao đây

Mạnh thu, Nhâm Tý-1972

 

XUÂN NHÂM TÝ

Niên ba sáu sáu đã qua rồi

Bâm bốn còn lưa nửa ấy thôi

Trông trước nào ai người cố cựu

Nhìn sau biết có kẻ tương lai

Non cao gió lộng cành xuân động

Sông rộng gương lồng chiếc én bơi

Bất diệc nụ cười xuân Bố Đại

Bàn cờ sắp xóa thưởng xuân chơi

 

NHỚ BÓNG THUNG HUYÊN

Ngùi ngọc nga thi chạnh tủi phần

Trời cao đất rộng đức sanh thân

Bao nhiêu cảnh giới nào qua lại

Ngàn dặm ven trời bóng bạch vân

Bạch vân tan hợp rải đầu non

Những tưởng hung thuyên mắt mỏi mòn

La rụng thu về cành rớm lệ

Tiêu sơ tiếng nhạn động tình con

Tình con mang mác ánh sao hôm

Phưởng phất hồn thiêng ngọn gió nồm

Tôn giả Mục Liên gương hiếu hạnh

Đài sen xin nguyên chứng chơn tâm

 

KHÓC CHA

(Làm thay con gái ông Đắc khóc cha)

Nhớ cha con biết nói gì đây

Bể khổ chơi vơi huyết lệ đầy

Nhìn mẹ cuộn đau tằm rút ruột

Trông em xa xót vượn xuối tay

Trời sao ghét bỏ người côi quả

Đất nở không dung kẻ dại ngây

Sớm tối còn đâu lời giáo huấn

Chở che ngưỡng vọng đất cao dày.

 

THƯƠNG NHỚ

(Kỷ niệm 48 năm ngày thầy viên tịch

 7-10 Bính Thìn 1976)

Bốn tám năm xưa cũng phút này

Gió mưa man mác tớ xa thầy

Những lời diệu huấn con thường nhớ

Con gởi hồn con đân gió mây

 

CẢM TÁC SINH NHẬT 67 TUỔI

Sáu bảy xuân thu giữa cuộc đời

Buồn vui mừng giân khéo trêu ngươi

Thân này đã hứa cùng non nước

Vinh nhục khen chê chỉ mỉm cười

 

XUÂN MẬU NGỌ

Xuân về Mậu Ngọ tuổi lai hy

Chẳng dám khoe chi chẳng muốn gì

Bảo ở thì ừ hoan hỷ ở

Kêu đi âu cứ tự nhiên đi

Cảnh khô lá úa mai nhưng nụ

Mây cuốn sương tan đá vẫn lỳ

Vô tận không thời vô tân ý

Thị chưa từng bận ngại gì phi.

 

BÓNG TRĂNG

Đầu sào trăm thước câu buốn

Một làn sóng độngngàn luồn sóng theo

Đêm thanh nước lạnh cá nghèo

Đầy thuyền chở nặng trăng gieo bóng về.

 

KHUYÊN TU TỊNH ĐỘ

Pháp môn tịnh độ gắng tu hành

Giữ trọn niềm tin quyết vãng sanh

Bể khổ thuyền từ buồm thuận gió

Hồ trong sen ngát đất trời thanh

Mẹ hiền tựa cửa trông con dại

Cha khổ đưa tay đón kẻ thành

Cứu độ sanh linh hoằng thệ nguyện

Nhất tâm bất loạn niệm hồng danh.

 

CÂY BÈO

Dọc theo ruộng nước bám như chậm

Rể bám vào đâu cũng chẳng thêm

Vờ có căn nguyên, vờ có lẽ

Dám chi sạch tiết, dám chi tâm

Tụ rồi đã chắc chi khi tán

Nổi đó náo hay đến lúc chìm

Gặp trận trời cho cơn gió lốc

Quét tan hề bể khó mà tím

 

Chen nhau vảy gốm khó luồn kim

Cành rể liền nhau chẳng kể thân

Tranh với bóng mây trên mặt nước

Hé dung ánh nhật lọt dòng tâm

Nghìn trùng sóng đánh thường không vỡ

Muôn trận phong ba cũng chẳng chìm

Nào cá nào rồng trong ấy ẩn

Cần câu Lữ Vọng khó mà tìm.

 

HỌA VẦN THƠ GIÀ

Của sư bà Như Không

Tai điếc mắt mờ phận chịu hư

Lão lai tài tận biết răng chừ

Đôi giò thêm gậy lo còn thiếu

Nửa bát lưng cơm gắng vẫn dư

Nhìn trước trông sau thêm chán ngán

Say đi nghĩ lại ruột đau dừ

Hoại không thành trụ đời kiên cố

Dấn bước như không mới thật cừ.

 

TẶNG ĐỆ TỬ NGUYÊN NGHI

Tôn thờ đức Phật chí kiên trinh

Nữ giới thua ai mối đạo tình

Kim địa gieo trồng hoa Nạc Lợi

Phượng hoàng bay liệng cảnh thanh bình

Pháp hoa kinh tả dâng chư Phật

Danh vọng đời cô nhường chúng sanh

Nguyên thỉ yếu chung dòng vọng tộc

Nghi dung ngưỡng đạt đấng cao minh.

 

NGƯỜI NGẮM HOA ĐÀO

Bác ngắm hoa đào lại nhớ mai.

Miền Nam buổi sống mộ danh người.

Chín hai tuổi chẵn xuân còn mãi,

Tám mốt năm tròn nước sáng soi.

Thống nhất chung lòng xây vững đạo

Tùy duyên một dạ ghé vai đời.

Mai vàng cực lạc trong trần thế

Tứ chúng đồng tâm trước Phật đài.

Xuân Tân Dậu cảm tác.

 

CÂU ĐỐI

 

GIỚI ĐÀN P.H.V. HẢI ĐỨC 1973

 

Giới thọ hữu hà nan nan giả chung thân trì tịnh giới,

Đàn tràng phi dung dị dị tai đại lực hộ hành đàn.

 

Thọ giới không chi khó, khó vì trọn đời trì tịnh giới,

Đăng đàn đâu phải dễ, dễ thay đủ sức hộ hành đàn.

 

Chứng Chơn đế lý như Điều ngự thân lâm Xá vệ,

Minh Phật tâm tông tợ Tào khê kế thuật Hoàng Mai.

 

Chứng Chơn đế lý, như Thế Tôn thân lâm Xá vệ,

Rõ Phật tâm tông, tợ Tào Khê kế thuật Hoàng Mai.

 

Hòa hiệp tế tam thừa vận xuất tâm trung đạo lực,

Thượng năng huân ngũ phận hiển dương tánh thượng pháp thân.

 

Hòa hợp thuyết tam thừa, vận hết tâm thành đạo lực,

Thượng năng dâng ngũ phận, bày tròn tánh đức pháp thân

 

Chúc Phật giáo chi hà xương quốc tộ miên trường

vĩnh lịch Nam sơn chi thọ,

Giới Thích tôn chi thùy phạm tòng lâm quy củ

giáo lưu Đông chấn chi đàn.

 

Chúc Phật giáo lâu dài, nước nhà hưng vượng,

thọ sanh Nam sơn muôn thuở,

Cầu Thích tôn gia hộ, đạo pháp vinh quang,

Phước đầy Đông hải khắp nơi.

 

CỐ ĐÔ THIÊN MỤ TỰ TRỤ TRÌ

ĐÔN HẬU THƯỢNG NHƠN HUỆ TỒN

Đạo sinh thuyết pháp ngoan thạch điểm đầu

Thánh giả thôn châm thiên nhơn củng thủ.

Phật lịch nhị ngũ nhị niên, tuế thứ Đinh mùi niên Thu.

Thiểu nạp Thích Trí Thủ thư tặng.

 

ĐIẾU NGÀI QUY THIỆN

Tích niên pháp nhủ đồng triêm,

thệ hải giả tằng minh thiết thạch

Kim nhựt đàm hoa tiên lạc,

thiền lâm thùy thị nại phong sương.

 

ĐIẾU THẾ HUYNH KIÊM PHÁP LỮ

HÒA THƯỢNG THÍCH DIỆU HOẰNG

 

Nguyện thế thế sanh sanh đồng vi từ bi quyến thuộc.

 

Pháp tịch diễn chơn thuyên sư hống nhất thanh hồ quần tan thiển.

 Sư tọa tuyên diệu nghĩa phạm dương nhất khúc ma ngoại hàng tâm.

 

Yết đế khâm sùng giới tử khải tam phương trượng pháp môn biện sự,

Ma ha quảng đại sa di bạch tứ đế tiền thọ cụ đăng đàn.

 

Con Hồng cháu Lạc văn hiến bốn ngàn năm

nối tiếp anh hào dòng bất khuất.

Cảnh Phật ngày Trời giang sơn muôn vạn thuở

đề cao dân tộc chí hiên ngang.

   (Mùa Đông năm Quý sửu, 1973)

 

Hồn dân tộc, mái chùa tô nét đẹp

Tiếng pháp âm, dòng nước họa vần thiêng.

 

Tóc treo chẳng nại canh dài vắn

Cháo lỏng đầu nài bửa đói no

 


Nguon: http://www.phatviet.com/dichthuat/httrithu/tntttt/luan/luan_17.htm


Âm lịch

Ảnh đẹp