Mang mang trường dạ trung
Tam bảo vi minh đăng
Thao thao khổ hải nội
Tam bảo vi từ hàng.
Hoang mang giữa quãng đêm dài
Này ngôi Tam bảo là đài quang minh
Ngập trời bể khổ lênh đênh
Này ngôi Tam bảo sanh linh thuyền từ.
Kỷ niệm Phật đản 2505
THÍCH TRÍ THỦ
CUNG KỶ TỪ HIẾU TỔ ĐÌNH KHÁNH THÀNH CHI LỄ
Mạc nhĩ Thiền tôn truy tư Tổ
Đức quang hỷ từ bi đại tai
Hùng lực Từ Hiếu gia danh
Xuân sơn tịnh vức bất ỷ bất thiên.
Duy tinh tình nhất thị pháp trường
Ngưng kỳ nghi bất hoặc lịch đại
Miên miên tiêu tâm dực dực
Vạn cổ chân phong yết kỳ hữu cực.
Phật lịch nhị thiên ngũ bách tứ niên
Canh tý Mạnh Đông
Ba La, Tra Am tọa chủ hiệu Trí Thủ
Tịnh môn pháp bái thượng.
(Câu đối ở chùa Từ Hiếu, đề tặng Hòa Thượng Tọa chủ nhân
lễ khánh thành chùa).
ĐỀ TẶNG HÒA THƯỢNG CHÙA CHÂU LÂM.
Mỹ hỷ đạo sư, cứ sư tử tòa, diễn đại pháp âm
Hoán tỉnh mê nhơn văn diệu kệ,
Thiện tai văn sĩ, trước tệ cấu y, hiện tiểu thừa
tướng
Vãng hồi cùng tử phó gia trân.
ĐỀ TẶNG CHÙA BA LA, HUẾ
Bán thiên chung bích nhập Kỳ viên
Mãn địa hoa hương khai Phật quốc
(Câu đối)
Dĩ Đức Trì thân hảo tác nhân
Tam sinh thạch thượng thủ tinh thần
Hành thâm Bát nhã Ba la mật,
Mãn địa thiên hoa bất trước thân.
(Phật lịch nhị ngũ nhất ngũ, Tân hợi Thu)
ĐIẾU SƯ HUYNH TRÍ GIẢI
Tam sanh thạch thượng ức tiền duyên,
Nhân, ngã, đồng tham Đại Phổ Hiền.
Quy khứ bất phường, vân tán tụ,
Cô tùng, hạc lãnh, nại hà thiên!
Dịch
Ba sanh hòn đá nhớ tiền duyên,
Cùng học cùng tu hạnh Phổ Hiền.
Đi mất, ngại gì mây tán tụ!
Tùng côi hạc lạnh nói sao nên!
NƯỚC TÀO KHÊ
Khe Tào nước chảy về Đông,
Bát bình nối dõi lâu không nhớ ngày.
Trăng thiền nào khác xưa nay,
Viên Thành ấn chứng đã dày công tu.
TỤNG KINH HOA NGHIÊM CẢM TÁC
Phần hương nhứt nguyện Pháp không vương
Đại hạnh đồng tham biến cát tường
Sát hải trần thân thi diệu lực.
Trầm kha chướng loại tận an khương.
Đốt nén tâm hương trước Phật đài
Phổ hiền hạnh cả nguyện nào sai
Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo
Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài.
CẢM NIỆM PHẬT THÀNH ĐẠO
Đêm sâu từ bỏ chốn hoàng cung
Cắt đứt dây thương bận mấy vòng
Chữ đạo nằm trên ngai phú quý
Thề đem muôn loại thoát lao lung.
Lao lung đau khổ chốn trần ai
Bể ái nguồn ân chìm nổi hoài
Động mối bi tâm nguyền tát cạn
Trải bao sương tuyết cũng không nài.
Không nài thể chất có và không
Khám phá cho ra manh mối lòng
Đạp vỡ hồng trần gương trí rạng
Đốt đèn chân lý dẫn quần mông.
Quần mông theo dõi ánh từ quang
Hổ biến rừng mê khỏi lạc đoàn
Mưa móc thấm nhuần cơn sống chết
Nhớ ơn Từ Phụ mãi lo toan.
Lo toan xin đốt nén tâm hương
Với nhánh quỳ hoa ngỏ cúng dường
Thành đạo bốn phương trời chấn động
Muôn linh mừng thấy đấng Y Vương.
Y Vương chứng tỏ khối lòng châu
Trăm kiếp nghìn đời nguyện cúi đầu
Sứ mạng làm tròn thân đệ tử
Chiếu đèn diệu huệ giữa đêm sâu.
(1948)
TẶNG ĐỔNG MINH ĐẠI SƯ
Nhất thừa thật tướng ấn
Pháp pháp tận viên dung
Từ bi vô quái ngại
Tứ cú bách phi không.
HƯỚNG VỀ
Mỗi lần xuân hết hè sang,
Hồ trong sen nở nhụy vàng phơi hương.
Đàn con Phật, khắp muôn phương,
Hướng lòng thành kính cúng dường Đản sanh.
Thâm tâm truy niệm ân lành,
Nghìn xưa Ưu bát một cành ngát hương.
Nhớ thuở ấy, lúc tan sương,
Nhạc trời rung cảm, bốn phương thái bình;
Muôn chim ca khúc bình minh,
Cha lành cứu khổ ứng sinh Diêm phù,
Tám mươi năm mãn công phu,
Sa la ẩn bóng, mạn thù thâu hương!
Đạo vô thượng đủ ngàn phương;
Ánh vàng chói lọi, sáng đường lầm mê.
Phá trừ ma chướng nặng nề,
Sanh linh lạc lối trở về đường ngay.
Kiếp xưa âu cũng duyên may,
Mênh mông bể khổ được lây hương thừa;
Xót mình đức bạc tài sưa,
Ân sâu khó trả, nghiệp xưa còn nhiều
Trước đài hương tỏa phiêu diêu,
Chí thành đảnh lễ đấng Siêu Nhân Hoàn;
Con thề đem mảnh thân tàn,
Phụng thờ chánh pháp đạo vàng bền lâu.
Hư không tan rã mặc dầu,
Sắt gan ghi tạc, nguyện cầu chứng tri;
Hướng về muôn đức từ bi,
Đường lên giác đạo quyết đi tận cùng.
(Đặc san Mừng Phật đản P.H.V.1957)
CẢM TÁC XUÂN CANH TUẤT
Tuổi đà "dĩ thuận" lẻ thêm hai
Hơn thiệt chi chi cũng hết nài
Nội hạc chưa ngừng sân Lão thọ
Ngàn mây còn vướng ngõ Hoàng Mai
Non xanh, pháp nhãn hoa Linh Thứu
Nước biếc, thiền tâm bóng Thiện Tài
Cánh thiệp tin xuân hồn đất mẹ
Nén hương hằng nguyện trước liên đài.
VỊNH CÂY BỒ ĐỀ
Bồ đề đạo thọ gốc thiên nhiên
Phật tổ xưa kia đến tọa thiền
Dẹp sạch ma vương thành chánh quả
Bước lên thánh vị được chơn truyền
Ba ngàn thế giới hào quang tỏa
Muôn vạn sanh linh giải thoát phiền
Dầu dãi nắng sương càng vững chắc
Đâm chồi nảy lộc khắp tam thiên.
(Mậu Thân, 1968)
XUÂN QUÝ MÃO CẢM TÁC
Xuân này tính tuổi chẵn năm lăm
Kiểm điểm công phu ngấy lỗi lầm
Còn luyến cành hoa khi sáng sớm
Đan vương tơ nắng lúc chiều âm.
Liệng vành mỏi cánh thương thân bướm
Nhả kén si gan ngán ruột tằm
Đốt nén hương nguyền thề sám hối
Trước sau giữ trọn chữ Không Tâm
(1963)
XUÂN MẬU THÂN
Bốn mươi tuổi đạo, sáu mươi đời
Cái kiếp phù sinh quá nửa rồi
Cay đắng nếm dư đầu chót lưỡi
Khen chê nghe đủ giữa vành tai
Mây ngàn vạn nẻo tung đường hạc
Hương nguyện mười phương quyện gió trời
Tâm sự sắc không ai có biết ?
Kìa gương bát nhã vốn trong ngời.
(Mậu thân, 1968)
CẢM ĐỀ NON BỘ BẢN ĐỒ VIỆT NAM
(tại Thiền thất P.H.V. Nha Trang)
Dấn thân mây hạc giang hồ
Chạnh lòng quê mẹ dư đồ Việt Nam.
Này thắng tích nọ danh lam,
Máu xương trang trải ai làm nên khung.
Đúc vun khí tiết hào hùng,
Hai vai gánh nặng Quang Trung Nguyễn Hoàng.
Trường Sơn một dãy hiên ngang,
Càng nhìn càng ngắm muôn vàn thân yêu.
Non sông gấm vóc mỹ miều,
Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương.
Dù cho Nam Bắc đôi đường;
Đốt lò hương nguyện bốn phương một nhà,
Sớm hôm hướng nẻo Phật đà,
"Sắc, Không" tâm sự đường xa nỗi gần.
Mong sao giữ vẹn mười phần
Thanh cao dáng núi, trong ngần vẻ sông.
Gấm vóc gương nước tinh thần,
Đạo vàng dân tộc chiếu hồng muôn xuân.
VIẾNG LẠI CHÙA HƯƠNG
Cỏ hoa còn nhớ ta chăng,
Bước du tăng đã bao lần tới đây ?
Tuyết sương nhuộm bạc râu mày
Non sông gấm vóc vẫn đầy sắc xưa.
Đây khe yến, nọ rừng mơ,
Này am cửa Võng, suối bờ Giải oan.
Hỏi thăm người cũ: bàng hoàng,
Anh linh đã nhập sen vàng phương Tây! ...
Nam Thiên đệ nhất còn đây,
Chim ca cúng trái, cá quầy nghe kinh.
Hoa thiên sương ngọc long lanh,
Hương thiền ngào ngạt gió lành phân phân ...
Trầm loang điểm tiếng chuông ngân,
Bước lên mỗi bước, tần ngần, nao nao ...
Tình yêu đất mẹ dâng cao
Trong ngần bể rộng dạt dào suối khe
Ba ngàn thế giới nhắn nhe
A di đà Phật quy về, ai ơi!
Bức tranh thủy mạc ngàn đời,
Đào nguyên e cũng hổ ngươi kém phần ...
QUỲ TRƯỚC ĐIỆN
Đệ tử hôm nay quỳ trước điện
Chí tâm đảnh lễ đấng Từ tôn
Đã bao phen sanh tử dập dồn
Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo
Thế tôn đã đinh ninh di giáo
Mà con còn đắm đuối mê say
Mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày
Tai thích tiếng mật đường dua nịnh
Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện cay co
Thân tham dùng gấm vóc sa sô
Ý mơ tưởng bao la vũ trụ
Bởi lục dục lòng tham không đủ
Lấp che dần trí huệ từ lâu
Hôm nay con giác ngộ hồi đầu
Tâm sám hối phơi bày tỏ rõ
Nguyện tội ác từ nay lìa bỏ
Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê
Trước đài sen thành kính hướng về
Tịnh tâm ý quy y Tam bảo
Phật giới cấm chuyên trì chu đáo
Dứt tận cùng gốc rễ vô minh
Chí phàm phu tự lực khó thành
Cầu Đại Giác từ bi gia hộ
Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ
Con hết lòng vì đạo hy sinh
Nương từ quang tìm đến bảo thành
Đặng tự giác giác tha viên mãn.
TỤNG KINH PHÁP HOA CẢM TÁC
Một lòng kính lạy Phật đà
Ngàn đời con nguyện ở nhà Như lai
Con hằng bận áo Như lai
Con ngồi pháp tọa Như lai muôn đời
Trí lực năng nhân tiêu cổ sầu
Thân vân tâm nguyện nhất thời hưu
Nhược ly không hữu đoạn thường luận
Khổ hải cuồng ba bát hoạt châu.
Phật lịch nhị ngũ nhị tứ, Canh thân hạ
Quảng Hương Già Lam
Thiện Thệ Tử Thích Trí Thủ đề
Bài thơ họa theo bài Nguyên Xương của Tuệ Không
Già lam, nơi hiệp chúng tăng già.
Tu niệm nào phân biệt trẻ tra.
Gặp bạn thơ vui câu Đổ Phủ
Noi đường giác rạng tánh Di đà.
Liêu sau vọng bái hình Sơ tổ
Sân trước cung chiêm tượng Phật bà.
Cửa đạo khai tâm thường rộng mở,
Khuyên đời chẳng nệ khách vô ra.
THƠ NHÁC
(Thiện Mỹ số 48, trang 12 ngày 22-10-1965)
Nhân đọc bài Chiếc Mũi, nguyên tác Bgunosure Akutagan do
thi sĩ Vũ Trụ dịch, đăng ở tuần báo Thiện Mỹ số 46 ra ngày 8 tháng 10 năm 1965.
Sực nhớ một bài thơ Nhác của thầy tôi (Hòa thượng Viên Thành sáng lập chùa Tra
Am, Mật Sơn ở Huế hiện nay) đọc cho tôi nghe hồi còn nhỏ mới xuất gia hành đạo.
Xin chép ra đây để cống hiến bạn đọc nghe cho vui. Mặc dù nó không còn hợp thời
theo tôi nghĩ. Thơ rằng:
Ai thăm ơn lắm, dám thăm ai,
Ai mời xin lánh, dám mời ai.
Nhà dột lá che không đợi lợp
Phên xiêu gió đẩy không đợi cài
Phải chăng mặc thế hơi nào nghĩ
Hơn thiệt tình đời cũng chẳng nài
Dễ có công đâu ngồi quẹt mũi ( )
Nay còn chưa kể huống là mai.
BÀI THƠ BÈO
(Do Trạng Giáp Hải họa. Nguyên tác của Bao Bá Ôn. Hòa
Thượng dịch sát nghĩa)
Vải gấm dày dày chẳng lọt kim
Lá liền với gộc kế nào thêm
Đã cùng mây trắng tranh làn nước
Lại thấy vừng hồng rực ánh tươi
Ngàn lớp sóng nhồi không rã nổi
Muôn cơn gió dập chẳng lay chìm
Ít nhiều rồng cá nương trong ấy
Lã Vọng ngồi câu hết chỗ tìm.
Bể ái sông mê sóng ngập đầu
Xoay vòng sống chết mãi không thôi
Ai mà trở gót xoay đầu lại
Trước mắt đài sen hiện sáng ngời.
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
CỐ ĐÔ HOA LƯ
Ngàn năm văn hiến Việt Nam ta
Đinh Lý Trần Lê quả thật là
Để tiếng anh hùng ngời nét đẹp
Diệu phong đã vẹn trổ hồn hoa.
(Tham quan cố đô Hoa Lư tháng 9.1983)
NÔNG TRẠI NƯỚC NGỌT
Ba gian nhà là một chòm mây
Cảnh trí khen ai khéo sắp bày
Dạo khắp bồng lai về "Nước ngọt"
Ba gian nhà là một chòm mây.
(Cảm tác khi đi thăm đạo hữu Nguyễn Mậu Tùng tại nông
trại Nước Ngọt)
(1940)
NHỚ LÀNG
Tôi nhớ làng tôi sống cực nghèo
Lũy tre soi bóng nước trong veo
Quanh năm phẳng lặng dòng sông Hãn
Đùm bọc thân yêu tấm nhiễu điều
Làng tôi xa lánh cảnh phồn hoa
Sớm tối chuông ngân khắp mọi nhà
Luống cải vồng rau sanh hoạt thú
Tiếng cười xen lẫn tiếng dân ca.
Làng tôi cát mịn nước hồ trong
Gió mát sen thơm dân một lòng
Chạp giỗ sum vầy tình nội ngoại
Buồn vui san sẻ đói no chung
Làng tôi khó tả hết tình yêu
Dù nói bao nhiêu chẳng thấy nhiều
Bể rộng trời cao tôi thấy nhỏ
Trung Kiên đất tổ ngập tình yêu.
THĂM LẠI CHÙA NON NƯỚC
Mười lăm năm trước đến ngày nay
Cũng nước non tiên cũng lối này
Hòn đá tham thiền trơ trọi đó
Hỏi thăm người cũ chẳng ai hay.
LÊN VỌNG HẢI ĐÀI
Trời mênh mông bể mênh mông
Trời bể mênh mông sóng chập chồng
Mấy chiếc thuyền ai qua bể biếc
Nỗi sầu mang nằng chở không đùa.
LÊN VỌNG GIANG ĐÀI
Giang sơn gấm vóc ngắm càng xinh
Nước nước non non thật hữu tình
Mây bạc chập chờn ngang cửa động
Thương thay bầy én liệng quanh vành.
KÍNH ĐIẾU THẦY KIM TIÊN
Thầy chết rồi ư ?
Mang mác hồn quê mây tán tụ.
Tôi còn sống sót lại
Mênh mông bệ nguyện lệ đầy vơi!
ĐIẾU HÒA THƯỢNG THÍCH MẬT NGUYỆN
Đồng bào còn đau khổ
Nhân loại còn nhiễu nhương
Lá vàng rơi xơ xác cội bồ đề
Hòa thượng ra về chi quá vội
Đạo pháp cần phát huy
Đàn em cần hướng dẫn
Mây trắng phủ lờ mờ trăng bát nhã
Chúng tôi ở lại tính sao đây
Mạnh thu, Nhâm Tý-1972
XUÂN NHÂM TÝ
Niên ba sáu sáu đã qua rồi
Bâm bốn còn lưa nửa ấy thôi
Trông trước nào ai người cố cựu
Nhìn sau biết có kẻ tương lai
Non cao gió lộng cành xuân động
Sông rộng gương lồng chiếc én bơi
Bất diệc nụ cười xuân Bố Đại
Bàn cờ sắp xóa thưởng xuân chơi
NHỚ BÓNG THUNG HUYÊN
Ngùi ngọc nga thi chạnh tủi phần
Trời cao đất rộng đức sanh thân
Bao nhiêu cảnh giới nào qua lại
Ngàn dặm ven trời bóng bạch vân
Bạch vân tan hợp rải đầu non
Những tưởng hung thuyên mắt mỏi mòn
La rụng thu về cành rớm lệ
Tiêu sơ tiếng nhạn động tình con
Tình con mang mác ánh sao hôm
Phưởng phất hồn thiêng ngọn gió nồm
Tôn giả Mục Liên gương hiếu hạnh
Đài sen xin nguyên chứng chơn tâm
KHÓC CHA
(Làm thay con gái ông Đắc khóc cha)
Nhớ cha con biết nói gì đây
Bể khổ chơi vơi huyết lệ đầy
Nhìn mẹ cuộn đau tằm rút ruột
Trông em xa xót vượn xuối tay
Trời sao ghét bỏ người côi quả
Đất nở không dung kẻ dại ngây
Sớm tối còn đâu lời giáo huấn
Chở che ngưỡng vọng đất cao dày.
THƯƠNG NHỚ
(Kỷ niệm 48 năm ngày thầy viên tịch
7-10 Bính Thìn 1976)
Bốn tám năm xưa cũng phút này
Gió mưa man mác tớ xa thầy
Những lời diệu huấn con thường nhớ
Con gởi hồn con đân gió mây
CẢM TÁC SINH NHẬT 67 TUỔI
Sáu bảy xuân thu giữa cuộc đời
Buồn vui mừng giân khéo trêu ngươi
Thân này đã hứa cùng non nước
Vinh nhục khen chê chỉ mỉm cười
XUÂN MẬU NGỌ
Xuân về Mậu Ngọ tuổi lai hy
Chẳng dám khoe chi chẳng muốn gì
Bảo ở thì ừ hoan hỷ ở
Kêu đi âu cứ tự nhiên đi
Cảnh khô lá úa mai nhưng nụ
Mây cuốn sương tan đá vẫn lỳ
Vô tận không thời vô tân ý
Thị chưa từng bận ngại gì phi.
BÓNG TRĂNG
Đầu sào trăm thước câu buốn
Một làn sóng độngngàn luồn sóng theo
Đêm thanh nước lạnh cá nghèo
Đầy thuyền chở nặng trăng gieo bóng về.
KHUYÊN TU TỊNH ĐỘ
Pháp môn tịnh độ gắng tu hành
Giữ trọn niềm tin quyết vãng sanh
Bể khổ thuyền từ buồm thuận gió
Hồ trong sen ngát đất trời thanh
Mẹ hiền tựa cửa trông con dại
Cha khổ đưa tay đón kẻ thành
Cứu độ sanh linh hoằng thệ nguyện
Nhất tâm bất loạn niệm hồng danh.
CÂY BÈO
Dọc theo ruộng nước bám như chậm
Rể bám vào đâu cũng chẳng thêm
Vờ có căn nguyên, vờ có lẽ
Dám chi sạch tiết, dám chi tâm
Tụ rồi đã chắc chi khi tán
Nổi đó náo hay đến lúc chìm
Gặp trận trời cho cơn gió lốc
Quét tan hề bể khó mà tím
Chen nhau vảy gốm khó luồn kim
Cành rể liền nhau chẳng kể thân
Tranh với bóng mây trên mặt nước
Hé dung ánh nhật lọt dòng tâm
Nghìn trùng sóng đánh thường không vỡ
Muôn trận phong ba cũng chẳng chìm
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lữ Vọng khó mà tìm.
HỌA VẦN THƠ GIÀ
Của sư bà Như Không
Tai điếc mắt mờ phận chịu hư
Lão lai tài tận biết răng chừ
Đôi giò thêm gậy lo còn thiếu
Nửa bát lưng cơm gắng vẫn dư
Nhìn trước trông sau thêm chán ngán
Say đi nghĩ lại ruột đau dừ
Hoại không thành trụ đời kiên cố
Dấn bước như không mới thật cừ.
TẶNG ĐỆ TỬ NGUYÊN NGHI
Tôn thờ đức Phật chí kiên trinh
Nữ giới thua ai mối đạo tình
Kim địa gieo trồng hoa Nạc Lợi
Phượng hoàng bay liệng cảnh thanh bình
Pháp hoa kinh tả dâng chư Phật
Danh vọng đời cô nhường chúng sanh
Nguyên thỉ yếu chung dòng vọng tộc
Nghi dung ngưỡng đạt đấng cao minh.
NGƯỜI NGẮM HOA ĐÀO
Bác ngắm hoa đào lại nhớ mai.
Miền Nam buổi sống mộ danh người.
Chín hai tuổi chẵn xuân còn mãi,
Tám mốt năm tròn nước sáng soi.
Thống nhất chung lòng xây vững đạo
Tùy duyên một dạ ghé vai đời.
Mai vàng cực lạc trong trần thế
Tứ chúng đồng tâm trước Phật đài.
Xuân Tân Dậu cảm tác.
CÂU ĐỐI
GIỚI ĐÀN P.H.V. HẢI ĐỨC 1973
Giới thọ hữu hà nan nan giả chung thân trì tịnh
giới,
Đàn tràng phi dung dị dị tai đại lực hộ hành đàn.
Thọ giới không chi khó, khó vì trọn đời trì tịnh
giới,
Đăng đàn đâu phải dễ, dễ thay đủ sức hộ hành đàn.
Chứng Chơn đế lý như Điều ngự thân lâm Xá vệ,
Minh Phật tâm tông tợ Tào khê kế thuật Hoàng Mai.
Chứng Chơn đế lý, như Thế Tôn thân lâm Xá vệ,
Rõ Phật tâm tông, tợ Tào Khê kế thuật Hoàng Mai.
Hòa hiệp tế tam thừa vận xuất tâm trung đạo lực,
Thượng năng huân ngũ phận hiển dương tánh thượng
pháp thân.
Hòa hợp thuyết tam thừa, vận hết tâm thành đạo lực,
Thượng năng dâng ngũ phận, bày tròn tánh đức pháp
thân
Chúc Phật giáo chi hà xương quốc tộ miên trường
vĩnh lịch Nam sơn chi thọ,
Giới Thích tôn chi thùy phạm tòng lâm quy củ
giáo lưu Đông chấn chi đàn.
Chúc Phật giáo lâu dài, nước nhà hưng vượng,
thọ sanh Nam sơn muôn thuở,
Cầu Thích tôn gia hộ, đạo pháp vinh quang,
Phước đầy Đông hải khắp nơi.
CỐ ĐÔ THIÊN MỤ TỰ TRỤ TRÌ
ĐÔN HẬU THƯỢNG NHƠN HUỆ TỒN
Đạo sinh thuyết pháp ngoan thạch điểm đầu
Thánh giả thôn châm thiên nhơn củng thủ.
Phật lịch nhị ngũ nhị niên, tuế thứ Đinh mùi niên Thu.
Thiểu nạp Thích Trí Thủ thư tặng.
ĐIẾU NGÀI QUY THIỆN
Tích niên pháp nhủ đồng triêm,
thệ hải giả tằng minh thiết thạch
Kim nhựt đàm hoa tiên lạc,
thiền lâm thùy thị nại phong sương.
ĐIẾU THẾ HUYNH KIÊM PHÁP LỮ
HÒA THƯỢNG THÍCH DIỆU HOẰNG
Nguyện thế thế sanh sanh đồng vi từ bi quyến
thuộc.
Pháp tịch diễn chơn thuyên sư hống nhất thanh hồ
quần tan thiển.
Sư tọa tuyên diệu nghĩa phạm dương nhất khúc ma
ngoại hàng tâm.
Yết đế khâm sùng giới tử khải tam phương trượng
pháp môn biện sự,
Ma ha quảng đại sa di bạch tứ đế tiền thọ cụ đăng
đàn.
Con Hồng cháu Lạc văn hiến bốn ngàn năm
nối tiếp anh hào dòng bất khuất.
Cảnh Phật ngày Trời giang sơn muôn vạn thuở
đề cao dân tộc chí hiên ngang.
(Mùa Đông năm Quý sửu, 1973)
Hồn dân tộc, mái chùa tô nét đẹp
Tiếng pháp âm, dòng nước họa vần thiêng.
Tóc treo chẳng nại canh dài vắn
Cháo lỏng đầu nài
bửa đói no