Vũ bị thương
trong một trận đánh lớn, được đưa về tuyến sau chữa trị. Viên đạn đã
được bác sĩ gắp ra từ ống xương đùi. Tuy vậy, vài mảnh bom li ti nằm bên
sườn không gắp ra được…
Ngày kết thúc chiến tranh, anh giải ngũ với giấy
chứng nhận thương binh, và trở về làng quê cũ… Mẹ già đã qua đời. Làng
xóm tốt bụng vẫn coi giữ mái tranh nghèo có bàn thờ đơn sơ của mẹ anh…
Anh vội vã đi cám ơn làng xóm và hỏi thăm nơi mộ phần
mẹ mình. Bà con cho biết nhà cửa anh được giữ gìn, mộ phần mẹ anh được
vun đắp, vườn tược nhà anh được chăm tưới xanh tươi là nhờ bàn tay cô
Vân - bạn anh năm xưa, vẫn thường xuyên lui tới với bà cụ trong bao năm
anh vắng nhà, và cả sau ngày cụ mất.
Vũ bàng hoàng xúc động nhớ đến cô bạn thuở thiếu thời
cùng nhau đi học mấy năm ở trường làng, cùng chăn trâu, cùng tắm suối,
cùng thả diều trên rẫy - Biết bao kỷ niệm về cô bạn nhỏ có đôi mắt to
tròn và chiếc răng khểnh duyên dáng. Cô bạn dễ thương ấy trước lúc anh
lên đường nhập ngũ đã bạo dạn cầm tay anh và bảo: "Em chờ anh trở về…".
Chỉ có thế, một câu nói tưởng chừng bâng quơ đơn
giản, người lính ở chiến trường đã bỏ quên trong bom đạn, nhưng người
con gái mộc mạc quê mùa ấy lại vẫn nhớ, vẫn chờ…
Vũ tìm đến nhà Vân ở cuối xóm Đồi. Cha mẹ Vân đều đã
mất trong thời chiến tranh chống Pháp, chỉ còn lại hai chị em làm nương
làm rẫy nuôi nhau. Xuân - chị của Vân - chịu khó làm lụng, cố gắng cho
em đi học trường làng. Vũ ngập ngừng đứng lại hồi lâu trước ngõ nhà Vân.
Hàng dâm bụt năm xưa vẫn nở hoa đỏ thắm, chỉ có khác là trước ngõ giờ
đã có thêm khóm trúc vàng và giàn bông giấy nở đầy hoa tím. Nhìn vào
sân, cây mận già vẫn đơm nhiều quả. Ngày trước anh và Vân đã cùng hái
mận biết bao lần.
Tiếng chó sủa, người phụ nữ thập thò trong cửa liếp nhìn ra. Vũ nghĩ có lẽ là chị Xuân bèn lên tiếng:
- Chị Xuân ơi, em là Vũ đây! Em đến thăm chị và cô Vân…
Câu chào chưa dứt thì anh đã đến cửa liếp. Người phụ nữ bưng mặt khóc òa, anh bối rối:
- Chị Xuân, có gì xảy ra không chị? Sao chị lại khóc? Còn cô Vân đâu?
Người phụ nữ đã đứng tuổi, đổ ập trên vai anh nức nở:
- Em là Vân đây… chị Xuân em đã vào thanh niên xung phong và hy sinh rồi anh ạ.
Vũ sững sờ, bối rối, cứ đứng trơ trơ như tượng đá.
Trên vai anh ấm nóng và nằng nặng. Người con gái vẫn khóc như chưa bao
giờ được khóc, để trút hết bao nỗi niềm chất chứa trong lòng. Chờ cho
Vân nguôi đi, anh nhẹ nhàng nâng đầu cô bạn gái năm xưa nhìn thật gần để
tìm những nét thân quen ngày nào… Anh đau đớn nhận ra khuôn mặt xinh
xắn năm xưa, nay đã sạm màu mưa nắng, đôi mắt không còn to đen lay láy
như ngày nào. Duy chỉ còn chiếc răng khểnh cho anh cảm nhận sự duyên
dáng quen thuộc. Anh dịu dàng:
Anh không ngờ sau chiến tranh, làng xóm ta nhà nào
cũng mất mát nhiều quá, nhà nào cũng có bàn thờ và bằng liệt sĩ, Tổ quốc
ghi công. Ruộng rẫy xác xơ tiêu điều, có lẽ thiếu người lao động phải
không em? Vân chỉ gật đầu, cô lặng lẽ nhìn ngắm thật kỹ khắp người Vũ
xem anh có còn nguyên vẹn hay không. Vũ hiểu ý, anh dìu Vân đến ngồi
trên ghế, rồi đến trước bàn thờ cha mẹ Vân và chị Xuân, đốt ba nén nhang
cắm lên và chắp tay lâm râm khấn vái:
- Thưa hai bác, thưa chị Xuân, xin hai bác và chị cho
phép Vũ và Vân được thành gia thất, xin hai bác nhận ở con lòng chân
thành…
Vân đã đến đứng bên cạnh anh, cô hỏi khẽ:
- Bao nhiêu năm em không hề có tin tức anh, nên không
biết anh đã có gia đình chưa? Tuy nhiên lời em đã hứa chờ anh, em vẫn
chờ, em vẫn đến với mẹ và mẹ cũng coi em như dâu con, do đó em vẫn an
lòng đợi anh…
Vũ quay lại nhìn Vân:
- Chiến tranh ác liệt, cái chết chực chờ, anh đâu có
lòng dạ nào nghĩ đến chuyện lập gia đình. Bây giờ anh đã về, anh đã bị
thương tật một chân nhưng may không què cụt. Anh cũng đã vừa xin hai bác
và chị Xuân chấp nhận anh là con trong nhà, chẳng biết em có nhận lời
không? Giờ cả hai ta cũng đâu còn ai nữa…?
Vân đưa cả hai bàn tay chai khô ráp đặt lên hai vai anh, nhỏ nhẹ trả lời:
- Em đã làm dâu mẹ bao năm rồi, khi mẹ mất em đã xin
phép làng xóm cho em thọ tang để mẹ khỏi tủi thân. Sao anh còn gọi ba mẹ
em là "hai bác".
- Ồ, anh thật vô ý. Em bỏ qua cho người lính vụng về. Từ đây anh gọi là ba mẹ…
Một nếp nhà tranh đơn sơ nhưng gọn gàng ngăn nắp, mái
bếp tỏa khói ấm nồng, đôi vợ chồng anh thương binh sống chan hòa hạnh
phúc. Cây cỏ vườn tược xanh tươi, họ cùng nhau ngày ngày trồng khoai,
trồng lúa, đào ao thả cá, đời sống ngày một tốt hơn. Họ chỉ còn ao ước
có một mụn con để chăm chút thương yêu. Họ cũng biết đã sắp hết khả năng
sinh nở rồi. Bao nhiêu năm chiến tranh đã cướp mất quãng đời thanh xuân
của họ. Mãi gần hai năm trôi qua Vân mới có bầu. Họ sung sướng vô ngần,
thầm cám ơn Trời Phật, cám ơn cha mẹ đã phù hộ. Họ sắp được làm cha làm
mẹ rồi. Họ cố gắng làm lụng tích lũy để sau này có thể nuôi con học
hành nên người. Biết bao hy vọng tương lai. Những chiều muộn bên mâm
cơm, họ nói về đứa con yêu quý sắp ra đời với bao lời trìu mến thiết
tha.
Rồi ngày khai hoa nở nhụy cũng đến. Vũ đưa vợ ra trạm
xá làng. Bụng Vân khá to, nhưng nhờ làm lụng hàng ngày nên cô vẫn nhanh
nhẹn khỏe mạnh chứ không quá nặng nề.
Vũ gởi vợ ở trạm xá rồi trở về tranh thủ cuốc cho xong đám rẫy sắp xuống giống cho kịp thời vụ.
Vũ đang cắm cúi cuốc mong cho chóng xong còn về nấu
cơm đem lên trạm xá cho vợ. Anh đồ chừng giờ này cô cũng bắt đầu chuyển
dạ rồi. Bỗng thằng Tài con bà Thơm hàng xóm la oai oái trên đường làng:
- Chú Vũ, chú Vũ, mau lên trạm xá, cô Vân sinh rồi, mẹ cháu đang ở trên ấy, chú nhanh lên!
Vũ ném cuốc, vui mừng quá, bỏ quên cả bình nước bên
bụi cây chạy như bay, quên cả cái chân đã bị thương thỉnh thoảng vẫn còn
đau những lúc trái gió trở trời.
Trạm xá kia rồi, Vũ nhảy thoắt lên thềm. Bà Thơm đứng dang cả hai tay chặn cửa, miệng la bài hải không cho Vũ vào:
- Khoan vào đã Vũ! Nghe bác nói đã nào!
Vũ đứng khựng lại, vừa thở hổn hển vừa hỏi bà Thơm:
- Sao rồi bác? Vợ cháu sinh trai hai gái? Cô ấy khỏe
không? May có bác ở đây chắc cô ấy cũng đỡ sợ. Cháu chỉ về cuốc chỗ vạt
đất dang dở mà không kịp. Gớm! con so mà cũng nhanh quá bác nhỉ?
Mặt bà Thơm lạnh tanh, hai mắt bà cụp xuống. Vũ như linh cảm có chuyện gì, anh lay hai vai bà:
- Sao thế bác? Có chuyện gì à? Để cháu vào xem sao…
Bà Thơm lại ngăn Vũ:
- Khoan đã, nghe bác nói đây, nó sinh một lúc hai
thằng cu, con ạ… Nhưng sinh khó quá, nó cũng lớn tuổi rồi mà… một đẻ
ngược, một đẻ xuôi, băng huyết ồ ạt, đường từ đây lên huyện quá xa, giờ
này làm gì có xe cộ nữa, ở đây chỉ là trạm xá làng, thiếu thốn mọi thứ,
mặc dầu cô mụ đã cố gắng hết sức, nhưng con ơi… nghe bác nói đã… sống
chết có số trời định cả rồi, con hãy bình tĩnh rồi bác đưa vào vuốt mắt
cho vợ con…
Vũ gào lên:
- Sao? Vợ cháu chỉ sinh bình thường thôi sao lại chết
được? Còn hai cháu bé sinh đôi đâu? Cháu phải vào xem vợ cháu ra sao,
con cháu ra sao?
Anh xô dạt bà Thơm sang bên, kéo cửa bước vào phòng
trạm xá. Mùi máu tanh nồng hắt tận mũi. Trên giường trạm, một thi thể đã
được đắp tấm vải. Bên dưới gầm giường vẫn còn lênh láng máu.
Vũ giở tấm vải đắp, ôm lấy xác vợ hãy còn nóng ấm,
đôi mắt vẫn mở nhìn anh, chờ anh tới. Tóc tai cô tung xõa rũ rượi, mồ
hôi còn ướt đẫm cả mớ tóc mai. Vũ nói nghẹn ngào trong nước mắt:
- Vân ơi, em ơi, anh có ngờ đâu, một lần sinh con mà
em đã bỏ anh, bỏ con. Rồi đây anh biết làm sao để nuôi con đây? Sao trời
lại bất công với em quá, bao nhiêu năm chờ đợi anh... em ơi!
Bà Thơm đã đến bên cạnh. Cô mụ giục Vũ:
- Thôi, đây là trạm xá, đừng khóc gào quá bà con sẽ
sợ hãi anh Vũ ạ. Anh hãy vuốt mắt cho chị yên nghỉ đi, rồi nhanh chóng
ra làm thủ tục đưa vợ vê an táng và làm thủ tục khai sinh cho con anh.
Mãi đau đớn vì cái chết tức tưởi của vợ, anh quên mất con anh hiện ra sao. Anh chưa thấy nó. Anh nói với cô mụ:
- Cô làm ơn cho tôi thăm hai cháu.
Bà Thơm đưa mắt nhìn cô mụ như thầm hỏi có nên đưa Vũ sang xem hai đứa bé không? Cô mụ cũng lưỡng lự giây lát rồi đành nói rõ:
- Con của anh ấy mà, ruột thịt mà, dù sao cũng phải cho cha con gặp nhau chứ biết làm sao bây giờ hở bà?
Bà Thơm và cô mụ đi trước dẫn đường, Vũ theo sau. Cánh cửa phòng mở ra, ba người bước vào, tiếng Vũ thét lên:
- Con tôi đây sao? Trời ơi..., sao lại thế này?
Bà Thơm phải đỡ Vũ mới khỏi ngã quỵ xuống.
Trên mặt bàn trải tấm chăn bông trắng, hai đứa hài
nhi đỏ hỏn, một đứa ngọ ngoạy hai tay, một đứa nằm im không nhúc nhích,
cả hai đều dị dạng. Đứa ngọ ngoạy có vẻ khỏe mạnh hơn, chiếc đầu to
không có mắt, hai hố mắt bằng phẳng, liền da như ai đã dán băng keo lên
đó, hai tay có dạng bình thường ngo ngoe liên tục, nhưng lưng thì cong
vẹo, xô chiếc bụng nghiêng lệch sang một bên, còn hai chân thì nhỏ xíu
và teo lại hình như không có xương ở trong đó. Chỉ riêng bộ phận sinh
dục minh chứng nó là con trai. Còn đứa thứ hai, không mắt không mồm, tay
chân đều nhỏ xíu không có xương, nằm bất động chỉ còn thoi thóp thở nhè
nhẹ rồi lịm dần chỉ vài ba phút sau đó, người nó lạnh dần và tím tái.
Cô mụ bảo:
- Cháu đã không thể sống nổi rồi, còn cháu này may ra
có sức khỏe hơn, anh cố nuôi cháu, trong nhà có tiếng trẻ thơ cũng vui.
Cô mụ bỗng hỏi Vũ – Anh là thương binh phải không?
- Dạ!
- Anh ở chiến trường hay hậu trạm?
- Tôi đi tác chiến mới bị thương chứ ạ!
- Ừ nhỉ, xin lỗi, tôi quên. Thế nơi anh đóng quân là rừng núi hay đồng bằng?
- Dạ, toàn rừng là rừng, rừng trụi lá, chẳng có cây
nào sống nổi, cũng chẳng có chim chóc hươu nai gì sống nổi, trơ sỏi đá,
nóng hầm hập cứ như cháy rừng ấy cô ạ.
Cô mụ gật đầu:
- Ấy là bị rải thuốc khai quang diệt cây cỏ rồi… thảo nào… thảo nào…
Ấy thế mà cái khối thịt đỏ hỏn chỉ ngo ngoe hai tay
ấy đã được anh Vũ chăm sóc, bồng bế đi xin sữa khắp làng… rồi cũng lớn
dần… Nhưng cháu không đi được, không nhìn được, cháu chỉ nghe, chỉ nói
ngọng nghịu, chỉ có hai tay là toàn vẹn nhất trong cơ thể. Lưng vẹo nên
nó chỉ nằm một chỗ. Tuy vậy hai tai nó lại nghe rất thính, nghe rất xa.
Một hôm làng mở hội xuân, tiếng trống rộn ràng, nó lắng nghe rồi hỏi Vũ:
- Ba ơi, tiếng gì nghe rùng rùng, bùng bùng vậy ba?
- À, đó là tiếng trống hội làng đó con.
Nó ngạc nhiên:
- Tiếng trống hả ba? Trống là cái gì ba?
Anh Vũ tìm cách giải thích cho nó hiểu:
- Cái trống làm bằng gỗ, bên trong rỗng, hai đầu bịt
bằng da trâu, đánh lên nghe to lắm con ạ. Khi nào có hội hè thì mới đánh
lên cho cả làng đến dự hội.
Thằng bé vẫn còn thắc mắc:
- Hai đầu trống bịt bằng da trâu hả ba? Đánh bằng hai tay hả ba? Đánh vậy đau tay lắm phải không ba?
Anh Vũ ôm lấy con mà cười:
- Người ta làm hai cái dùi bằng gỗ để đánh mới kêu to
vậy con ạ. Tội nghiệp con của ba không thể nào đi lễ hội để thấy cái
trống làng.
Thằng bé lại cười hồn nhiên:
- A ha! Ba quên rồi, con đâu có thấy cái trống được, con chỉ nghe tiếng trống thôi!
Đó là những giây phút hai cha con cười đùa vui vẻ với
nhau. Hàng ngày, Vũ bận rộn đi làm rẫy, đến hết buổi về nấu cơm hai cha
con ăn với nhau rồi anh lại ra hồ cá chăm sóc đàn cá.
Riêng thằng bé từ khi được cha giải thích cho nó biết
về cái trống, nó vô cùng thích thú, suốt ngày cứ dùng hai tay vỗ xuống
giường, đánh trống mồm "Tùng tùng, cắc, tùng tùng…" không ngớt. Đó là
trò chơi nó thích thú nhất.
Rồi mùa thu đến, bọn trẻ trong làng kéo nhau đi rước
đèn, đánh trống, cười đùa ầm ĩ ngoài đường làng. Thằng bé lại hỏi cha về
những cái trống bọn trẻ đang chơi ngoài kia với một vẻ thèm thuồng
thích thú. Nó khao khát, mơ ước có một cái trống để đánh lên, kêu thật
to, cho mọi người nghe thấy và biết có nó đang ở đây.
Trước nỗi khát khao tột cùng của đứa con bất hạnh, Vũ
đành phải hứa liều sẽ làm cho nó một cái trống. Vì quá thương con, anh
không quản khó nhọc, lò dò ra tận xóm Đình hỏi cụ từ giữ đình về cách
làm trống. Rồi anh cất công đi kiếm gỗ tốt; lên tận lò mổ trâu bò trên
huyện nằn nì xin được hai miếng da trâu. Dưới sự chỉ bày của cụ từ giữ
đình, anh đã mày mò làm được một cái trống da trâu, cỡ bằng cái khạp
gạo, mang về cho thằng bé.
Làm sao quên được nét mặt rạng rỡ vui sướng của thằng
bé tật nguyền tội nghiệp ấy, khi cha nó hớn hở chạy về trao cho nó cái
trống khá to so với cơ thể nó. Rồi sau đó cha nó đã dạy nó ôm cái trống
trên bụng, một tay giữ trống, một tay cầm dùi đánh. Tiếng trống đầu tiên
vang lên, hai cha con ôm nhau cười ha hả. Kể từ đó thằng bé như được
sống trong một cõi thần tiên! Nó suốt ngày đùa vui với cái trống. Vũ lại
ra công dạy con hát nhiều khúc đồng dao, nhiều câu hát lý để nó vừa hát
vừa đánh trống nhịp nhàng.
Ít lâu sau, anh dạy thằng bé đánh trống theo ám hiệu.
Thường anh phải đi làm ngoài rẫy, nó ở nhà một mình với cái trống. Anh
dạy nó khi có ai đến nhà tìm anh thì nó đánh nhịp ba "Tùng tùng tùng,
cắc, tùng tùng tùng…" để gọi anh về. Khi có việc cấp bách, như có chó
vào nhà hay hỏa hoạn, thì nó đánh trống liên hồi cấp bách là anh chạy về
ứng cứu ngay. Còn thường ca hát hay chơi một mình thì chỉ chơi nhịp
hai,chầm chậm, nhẹ nhàng, anh ở ngoài rẫy nghe là yên tâm - Khi nào
không nghe tiếng trống là anh biết nó đang ngủ.
Rồi tiến tới là anh dạy nó học chữ, học số bằng viên
phấn cầm tay nắn nót cho nó viết trên mặt trống. Chủ đích của anh là chỉ
tìm cho nó một niềm vui để quên đi kiếp sống dị dạng tật nguyền. Nhưng
thằng bé rất chăm chỉ, nắn nót rờ rẫm trên mặt trống, nó ghi nhớ rất
nhanh. Dần dà, nó đã viết được những câu ngắn trên mặt trống, mặc dầu nó
không hề thấy chữ nó viết.
Một hôm đi làm rẫy về, anh bỗng sững sờ thấy trên mặt
trống ghi dòng chữ xiên xẹo: "Ba ơi, con thương ba lắm" - Vũ đã khóc
lặng đi vì quá xúc động.
Từ đấy, cái trống da trâu vừa để cho thằng bé đánh
trống "tùng tùng" và hát những bài đồng dao, những bài ca dao, mặt trống
cũng là cái bảng đen để nó vui học. Không những thế, nhờ có tiếng trống
và những câu hát ngọng nghịu ngây ngô của mình, nó đã có rất nhiều bạn
trong xóm lân la đến chơi. Trước đây không một đứa bé nào dám mon men
đến nhà Vũ vì rất khiếp hãi thằng bé. Lỡ khi nào cha mẹ có việc gì dắt
chúng đến tìm ba của thằng bé thì chúng sợ sệt nép vào người lớn chứ
không dám đến gần. Nhưng từ khi có tiếng trống vang xa, đã mê hoặc,
quyến rũ chúng đến chơi với thằng bé. Thằng bé dạy cho bạn hát và đánh
trống. Có hôm Vũ đi làm về chợt thấy năm, sáu đứa bé hàng xóm đang say
sưa vừa múa vừa hát, còn thằng con anh thì đánh trống nhịp - Chúng chơi
với nhau thật vui vẻ hồn nhiên, như không còn cái ranh giới sinh động và
nằm liệt. Thằng bé học tiến bộ rất nhanh, mặc dầu chỉ có đôi tay mò mẫm
chứ không có mắt. Nó cũng mỗi ngày ca hát thêm nhiều bài. Ngoài những
khúc đồng dao, ca dao do Vũ dạy, các bạn cũng dạy nó thêm những bài hát ở
trường học. Thằng bé sống vui vẻ, hồn nhiên, yêu đời và sinh động hẳn
lên. Nó như quên đi những bất hạnh đè nặng lên số phận nhỏ bé của mình.
Năm lên tám thì tự nhiên một cánh tay thằng bé yếu
dần rồi mềm nhũn và teo lại. Thế là nó chỉ còn một tay, và sức khỏe nó
cũng yếu dần đi, may mà niềm đam mê vào cái trống da trâu vẫn còn nguyên
vẹn trong cái cơ thể điêu tàn ấy. Vũ rất lo buồn, anh đã bế thằng bé đi
nhiều bệnh viện huyện và cả ở tỉnh, nhưng nơi đâu cũng không giúp gì
được cho nó. Tội nghiệp thằng bé, sợ ba nó buồn lo, nên dù sức khỏe đã
yếu đi nhiều, hàng ngày nó vẫn cố gắng đánh trống với cánh tay yếu ớt
còn lại, đánh trống để ba nó ở ngoài đồng, trên rẫy nghe thấy sẽ yên
lòng, đánh trống để các bạn nghe thấy may ra có đứa nào nghỉ học thì
chạy đến chơi với nó.
Một hôm làm đồng cả buổi mà Vũ không nghe tiếng trống
của thằng bé, anh nghĩ là nó đang ngủ, dạo này nó yếu nên ngủ nhiều.
Nhưng càng đến trưa, đã đứng bóng rồi, vẫn không nghe tiếng trống, có
bao giờ nó ngủ lâu như vậy? Anh lo lắng, bỏ cuốc chạy về. Nhà yên ắng
không một động tĩnh gì, Vũ vừa chạy vào sân vừa gọi con:
- Con ơi, con ngủ hay thức? Sao không đánh trống cho ba nghe?
Nhà vẫn yên ắng, không có tiếng thằng bé đáp lại,
khác hẳn với mọi khi, nghe tiếng ba về là nó líu lo ngọng nghịu hỏi đủ
thứ, khoe đủ thứ nó làm gì, bạn nó vui chơi trò gì…
Thằng bé nằm im, co quắp rất tội nghiệp, cái lưng vốn
đã vẹo vẹo, bây giờ như gồ hẳn lên, vẹo vọ hơn, đầu nó ngoẹo sang một
bên, bọt mép sùi ra. Nó đã tắt thở từ lúc nào!
Vũ ôm lấy xác con, bế thốc thằng bé lên lòng, gục đầu
vào ngực con khóc tức tưởi. Dù rằng anh biết ngày cuối cùng này rồi
cũng xảy ra, vì thằng bé sức khỏe kém dần, nó ăn uống ít dần, nhưng anh
không ngờ nó đi nhanh chóng quá, và lại ra đi lúc anh không có mặt bên
cạnh nó. Vũ không biết lúc ra đi nó có đau đớn quằn quại gì không? Thôi
đành vậy…
Khi Vũ đặt con nằm ngay ngắn xuống giường, kéo tấm
chăn đắp lên mình con, thì bắt gặp cái trống nằm nghiêng trên đầu
giường. Khi với lấy cái trống, Vũ kêu lên đau đớn:
- Trời ơi, con của ba, trước khi ra đi con còn nhớ
thương ba nhiều thế này sao? Trên mặt cái trống, dòng chữ nguệch ngoạc
bằng phấn trắng nổi bật trên màu xám của tấm da trâu: "Con thương ba
lắm" - chỉ bốn con chữ cuối cùng đơn sơ nó để lại cho ba nó. Có lẽ với
sức yếu ớt như thế, nó phải cố gắng lắm, đem chút hơi tàn lực kiệt để
viết nên dòng chữ này.
Vũ đọc đi đọc lại dòng chữ trên mặt trống: "Con
thương ba lắm… Con thương ba lắm", anh như trong cơn mê, trong nỗi đau
đớn tột cùng.
Kể từ ngày đứa con dị dạng tật nguyền mà Vũ đã thương
yêu hết lòng hết sức qua đời, ngôi nhà đã trống vắng như càng trống
vắng hơn. Chiếc bàn thờ đơn sơ bằng gỗ tạp, nơi thờ Vân bây giờ có thêm
một bát nhang và cái trống da trâu, vật kỷ niệm duy nhất của con anh để
lại, trên đó vẫn mang dòng chữ "Con thương ba lắm" anh cố trân trọng giữ
gìn cho đừng bị phai mờ nét phấn. Mỗi buổi đi làm rẫy về, anh lầm lũi
nấu cơm, bữa ăn nào anh cũng xới một bát cơm đặt trước cái trống, rồi
đốt nhang gọi con về ăn cơm. Mỗi khi nhìn đến cái trống, Vũ không khỏi
rơm rớm nước mắt và lẩm nhẩm đọc: "Con thương ba lắm", rồi anh tự trả
lời như đang nói với con: "Ba thương con lắm".
Từ ngày thằng bé dị dạng mất đi, trong xóm không bao giờ nghe tiếng trống da trâu nữa.
Truyện ngắn của Hoàng Hương Trang
(*) Tác phẩm đạt giải nhì giải cuộc thi
Văn-Thơ Phật giáo "Hướng về 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội"do báo Giác
Ngộ tổ chức