3.3.1. Hình ảnh Kiều và những ý nghĩa biểu trưng.
Hiếu
Tân trong một bài viết “Đọc lại truyện Kiều” có đoạn viết: “Hãy hình
dung Truyện Kiều là “vườn xuân một cửa”, thì cửa ấy đâu có ngăn cấm một
ai. Bước chân vào đấy, ta có thể suy tư về đủ điều, mọi lẽ. Dựa trên
những diễn biến, nhưng tâm tình trong truyện, ta có thể trầm tư về lẽ
đạo hay ngẫm ngợi lẽ đời, và ta thấy mình có toàn quyền như thế. Còn nếu
xác quyết rằng “chính Nguyễn Du đã nghĩ thế này” hay “đây mới thực là
tư tưởng Nguyễn Du”, thì xin hãy dè dặt, chậm rãi một chút. Tôi e rằng
Nguyễn Du sẽ mỉm cười lặng lẽ: “Ta quả có viết 3254 câu thơ, nhưng ta có
nói gì đâu?”
Còn
Nguyễn Văn Trung thì viết: “Cũng như bất cứ tác phẩm vĩ đại nào, Truyện
Kiều là một khu rừng muôn ngả, một vườn hoa muôn màu cửa mở rộng, ai
nấy được tự do ra vào để khai thác, thưởng thức, mỗi người đã vào đều
muốn tìm ra một lối nhìn bao quát mong lĩnh hội được vẻ đẹp toàn diện
của vườn hoa, nhưng khi ra về, vẻ đẹp vẫn còn nguyên vẹn và người du
khách đến sau cũng lại mang theo tham vọng nhìn bao quát, rốt cuộc, mỗi
người thật ra cũng chỉ chỉ nhìn thấy một vài khía cạnh của chân lý toàn diện, nghĩa là đã chỉ đề nghị một lối nhìn vào đó, khám phá được một vài nét mới của vẻ đẹp muôn đời đó thôi”
Truyện
Kiều là một tuyệt phẩm không chỉ của Việt Nam nói riêng mà còn là một
trong số ít thi phẩm nổi tiếng của thế giới. Hơn 3000 câu thơ, gần 3 thế
kỷ cày xới của biết bao học giả; người ta cũng đã từng ngâm, vịnh, lẩy,
tập, bói… Kiều. Người tán dương với lời lẽ thêu hoa dệt gấm không ít mà
chê bai không một tiếng xót thương cũng nhiều. Truyện Kiều giờ đây như
Phạm Thếng trong Tiếng khóc Nguyễn Du đã đưa truyện Kiều vào vị trí “…
như tấm gương sáng treo cao, hậu thế ngẩng lên nhìn vào và càng sùng bái
nồng nhiệt khi thấy hình ảnh mình trong đó hùng tráng hoặc bi đát, đáng
trọng hay đáng thương. Còn như đàng sau tấm kiếng có gì, ao lo biết
đến? Ai cần biết đến? Mà đã dễ biết được sao?” và có lẽ đó cũng chính là
lý do Truyện Kiều sống mãi trong lòng mỗi người chúng ta.
Theo
cách nhìn của Hiếu Tân, trong truyện Kiều tồn tại song song hai mạch
chuyện: mạch nổi và mạch ngầm. Mạch nổi là hiện thực cuộc sống với tình
yêu Kiều dành cho Kim Trọng, với oan ức mà gia đình Kiều phải gánh, với
Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Thúc Sinh, Giác Duyên… Kiều
chính là hiện thân cho số phận nghiệt ngã của con người tài hoa nhưng
bạc mệnh, rơi vào vòng xoáy của cuộc đời trớ trêu, nhiều phen sống dở
chết dở …nhưng cuối cùng với cái Tâm trong sáng sẽ giúp Kiều vượt qua
mọi khó khăn trở ngại để đoàn viên cùng với gia đình. Mạch ngầm trong
truyện Kiều được lý giải dưới góc độ triết học thông qua hai quan niệm
cơ bản là Thuyết Thiên mệnh hay Tài mệnh tương đố của Nho giáo và Thuyết
Nhân quả của Phật giáo đã được người viết chú giải khá chi tiết ở trên.
Một
cách nhìn khác có khuynh hướng nhấn mạnh khá nhiều vào hiện thực xã
hội, mang nặng màu sắc giai cấp và chính trị là “Bản cáo trạng cuối cùng
trong truyện Kiều” của nhà thơ Xuân Diệu. Cách nhìn này hiện nay đã bị
nhiều nhà phê bình phê phán vì họ cho Xuân Diệu đã “cảm thương trái khoáy của ông đối với nàng Kiều và ngợi ca nhầm chỗ đối với Nguyễn Du”.
Một số khác lại tiếp cận Kiều dưới góc độ tâm linh, cụ thể ở đây là Phật giáo, qua một vài tác
phẩm tiêu biểu như Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc của Phạm Công Thiện
hay Truyện Kiều qua khía cạnh tâm linh của Huyễn Ý, Thả một bè lau của
Nhất Hạnh… Kiều và 15 năm lưu lạc chính là biểu trưng cho tâm thức chúng
sinh bị trôi lăn trong luân hồi sinh tử và sự đoàn viên của Kiều chính
là quá trình giác ngộ cái Phật tính trong sáng thường hằng của mỗi chúng
ta. Cách nhìn này không phải là không có lý nếu chúng ta biết rằng bản
thân Nguyễn Du đã từng chuyên tâm nghiên cứu và trì tụng Kinh Kim Cương
cả ngàn lần, có rất nhiều bài thơ đượm chất thiền. Thế nhưng chúng ta
cũng không nên quên rằng Nguyễn Du không sáng tác truyện Kiều mà chỉ
phóng tác truyện Kiều dựa trên Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài nhân.
Không ai có thể nghi ngờ những sáng tạo thiên tài của Nguyễn Du nhưng
cũng phải thừa nhận cốt truyện của Truyện Kiều gần như được giữ nguyên
so với bản gốc là Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân…
Có
quá nhiều cách hiểu về Kiều, tương tự như một chiếc kính vạn hoa, mỗi
lần chúng ta xoay một vòng thì một hình ảnh khác hiện ra. Hình ảnh Kiều
cũng thế, nhìn dưới bất kỳ góc độ nào cũng thấy có lý nhưng cũng chưa
phải là hoàn hảo. Ta không thể nhìn Kiều cùng một lúc bằng nhiều nhãn
quan khác nhau, càng không thể phê bình một tuyệt phẩm như Truyện Kiều
trên một thế giới quan nhất định được. Bởi vậy, nói như Anatole France:
“Nhà phê bình giỏi là người kể lể những cuộc phiêu lưu của lòng mình qua
các tuyệt phẩm”. Cá nhân người viết không dám cho mình là người phê
bình giỏi, càng không dám phê bình Kiều qua một thế giới quan nào đó nên
đành viết về Kiều như viết về cuộc phiêu lưu bằng chính kinh nghiệm
sống của mình. Chắc chắc đó là chủ quan và không nhất thiết Nguyễn Du có
nghĩ đến điều đó hay không nhưng hình ảnh Kiều với 15 năm đoạn trường,
theo quan điểm người viết mãi mãi là cuộc lưu lạc và tìm kiếm bản lai
diện mục của mình trong hình hài của trăm năm tại thế. Và có lẽ cũng nhờ
đi sâu vào khía cạnh tâm linh qua nhân vật Kiều mà ta có thể biết thêm
một góc độ nào đó nhằm thể hiện rõ nét hơn tính nhân bản qua các tác
phẩm của Nguyễn Du.
3.3.2. Con đường lưu lạc của Kiều hay sự tha hóa của kiếp người.
Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Ngay
đầu câu chuyện, Nguyễn Du thiết lập ngay một quan điểm về Tài Mệnh
tương đố (Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau… rồi Trời xanh quen thói má
hồng đánh ghen). Phải chăng đây là một lời tuyên bố khẳng định số
phận đoạn trường và bạc mệnh của những người tài hoa và có sắc đẹp và
đoạn tiếp theo của của câu chuyện chỉ là minh chứng cho lời tuyên bố trên hay lời tuyên bố trên chỉ là một giả thuyết được Nguyễn Du mượn tạm để nhập đề cho câu chuyện của mình???
Khó có thể trả lời một cách mạch lạc rằng đây là một lời khẳng
định hay chỉ là một giả thuyết. Khi phân tích truyện Kiều dưới khía
cạnh siêu hình hay triết lý, nhiều nhà nghiên cứu đã vội vàng cho rằng Kiều ảnh hưởng thuyết Tài Mệnh tương đố của một vài Nho sỹ tài tử nhưng thất chí đặt niềm tin vào Thiên Mệnh và thường cho
rằng Trời vốn hay thử thách những người tài năng. Dưới góc độ tâm linh,
đặc biệt là triết học Phật giáo cũng không lý giải nguyên nhân tại sao
con người có Phật tính nhưng lại bị vô minh che lấp đến nỗi khổ đau dày
vò. Ngay trong quan niệm về Thập nhị nhân duyên cũng vậy, Vô minh không
phải là điểm khởi đầu và cũng chẳng phải đoạn kết thúc mà chỉ là một mắt
xích trong chuỗi mắt xích của mười hai nhân duyên tương tác với nhau.
Hỏi về điểm khởi đầu thì Đạo Phật chỉ trả lời bằng cách im lặng, trong một số bản kinh thì cho
thời gian là vô thủy… Vì thế, nhìn dưới quan niệm của Phật giáo, đoạn
thơ trên chỉ nên nhìn nhận như là một giả thuyết cần được kiểm chứng chứ
chưa hẳn là Tất định luận không thể đảo ngược.
Hình
ảnh của Kiều: tài sắc tuyệt vời không gì sánh được. Dưới góc độ hiện
thực, Kiều có thể được nhìn nhận là một người tài hoa, có nhiều tài
năng, hiện thân cho tinh hoa của con người. Dưới góc độ tâm linh, Kiều hiện thân cho bản tâm trong sáng của mỗi chúng sinh còn tài năng của Kiều chính là diệu dụng vô tận của bản tâm trong sáng đó.
Việc Kiều thương khóc Đạm Tiên chính là dấu hiệu đầu tiên báo hiệu cho quá trình đoạn trường lưu lạc của Kiều. Nhìn dưới góc độ tâm lý thông thường có thể cho
rằng Kiều là người đa sầu đa cảm và thường hay liên hệ số phận người
khác với bản thân mình. Việc Kiều làm thơ trong sổ Đoạn trường rồi gảy
khúc nhạc bi thương khiến Kim Trọng nghe mà phải rơi lệ thể hiện tâm lý
đa sầu đa cảm và chứa nhiều u uẩn như thế. Dưới khía cạnh tâm linh, có
thể lý giải Đạm Tiên chính là hình ảnh Tâm quá khứ của Kiều, hay nói
đúng hơn là những chủng tử có sẵn, khi gặp thuận duyên thì bắt đầu đơm
hoa kết trái.
Tình
yêu nảy nở giữa Kim Trọng với Thúy Kiều trong sáng, tự nhiên theo mô
tuýp “trai tài gái sắc” cũng là chuyện hợp với tự nhiên, nhưng việc Kiều
vượt tường rào sang “tâm sự” với Kim Trọng được nhiều nhà phê bình hiện
nay cho là cuộc cách mạng đối với phụ nữ trong chuyện tình yêu của
Nguyễn Du. Dưới góc độ tâm linh, có thể coi Kim Trọng như là nhân duyên
hiện tại. Kiều có sẵn những hạt giống sầu cảm, đa tình, nay gặp phải Kim
Trọng như cá gặp nước, đó là lý do khiến Kiều vượt khỏi lễ giáo phong
kiến để thỏa lòng yêu thương. Điều này cũng cho thấy sức mạnh của nghiệp lực, một khi Nhân đã có, duyên đã đủ thì Quả nhất định sẽ tới.
Khi
gia đình Kiều gặp tai họa vì sự vu cáo của kẻ bán tơ. Hình ảnh người
bán tơ làm ta liên hệ đế tơ lòng, tơ tưởng…. Khi tâm thức rối ren như
cuộn chỉ hay tơ vò thì khó lòng có được những quyết định sáng suốt nên
Nguyễn Du đã dùng những câu rất hay để viết về tâm thức này:
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
Vậy nên những chốn thong dong
Ở không an ổn ngồi không vững vàng
Ma đưa lối, quỷ dẫn đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Câu hỏi đặt ra lúc này là Kiều bị bắt buộc lựa chọn hay bản thân Kiều tự do lựa chọn?
Nguyễn
Văn Trung nhận định rằng Nguyễn Du đã đề nghị một lối nhìn về cuộc đời
như một phiêu lưu của tự do, luôn luôn phải nhận định một hướng đi trong
cái phức tạp hỗn độn mơ hồ của hoàn cảnh và vì thế nên sự chọn lựa của
Kiều chính là thể hiện sự tự do đó, bởi Kiều có thể không chọn cách bán
mình chuộc cha.
Một cách lý giải khác cho
rằng ở đây Kiều hoàn toàn bị bắt buộc phải chọn cách bán mình bởi theo
đạo Nho, chữ Hiếu là nguồn gốc của Nhân, người không có hiếu thì cũng
không còn đạo làm người nên việc Kiều chọn cách bán mình chuộc cha là
một sự bắt buộc.
Theo
quan niệm của người viết, sự chọn lựa của Kiều là tự do nhưng là tự do
trong cái lẽ tất yếu của nó. Trong tâm thức chứa đựng những chủng tử của
phiền muộn, ưu sầu, đa cảm… lại thiếu chánh niệm tỉnh giác (hình ảnh
anh bán tơ) thì việc trôi lăn trong luân hồi sinh tử trở thành lẽ tất
nhiên. Nhưng bản thân cái tất nhiên này lại tự do bởi lẽ hoàn toàn không
có bất kỳ một thế lực nào bên ngoài tác động vào quá trình vận hành của
tâm thức nên sự lựa chọn của Kiều chính là do bản thân Kiều (tâm thức
mỗi chúng sinh) tự quyết định lấy
Bắt
đầu rơi vào tay Mã Giám Sinh là bắt đầu quá trình lưu lạc của Kiều,
cũng là quá trình tâm thức chúng ta bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi.
Những nỗi khổ đau vì nhớ nhung, bị lừa dối, bị phản bội… chính là những
hình ảnh biểu trưng của Khổ đế mà hàng ngày hàng giờ chúng ta đang phải
gánh chịu.
Trong suốt quá trình lưu lạc đó, có bốn nhân vật chính gắn liền với số phận của Kiều, đồng thời cũng chính là biểu chưng cho quá trình quay về bến giác của mỗi chúng sinh:
-
Hình ảnh Sở Khanh: Kiều dựa vào Sở mong Sở đưa ra khỏi lầu xanh nhưng
sự xuất hiện của Sở chỉ là tạm thời rồi sau đó Kiều lại rơi vào lầu xanh
lần nữa. Trên lộ trình tâm linh, hình ảnh Sở Khanh có thể biểu trưng cho ý
nghĩa Thế gian trụ trì Tam bảo. Quá trình tìm về Chân tâm của chính
mình phải bắt đầu từ thế gian trụ trì Tam bảo nhưng sự cứu cánh của Thế
gian Trụ trì tam bảo đó cũng chỉ là nhất thời, nếu ta bám chặt vào quá
mà không tiếp tục chuyển hóa thân tâm của mình thì sớm hay muộn cũng sẽ
tiếp tục con đường phiền não cũ, không có ích gì trên lộ trình giải
thoát.
-
Hình ảnh Thúc Sinh: Thúc Sinh cứu Kiều ra khỏi lầu xanh nhưng Kiều lại
gặp nỗi khổ bởi ghen tuông của Hoạn Thư. Hình ảnh Thúc Sinh có thể tượng
trưng cho những tàn dư trong tâm thức vẫn còn nên mặc dù đã thoát ra
khỏi phiền não của hồng trần nhưng bám chấp vào đó quá lâu cũng chẳng
khác nào bỏ nỗi khổ đau này ôm thêm nỗi phiền muộn khác.
-
Hình ảnh Từ Hải: Hình ảnh Từ Hải là một tay trí dũng song toàn, anh
hùng một phương, cứu Kiều hoàn toàn ra khỏi Thanh Lâu. Một số người cho
rằng Từ Hải là mẫu người lý tưởng của Nguyễn Du với ước mơ phục hưng lại
nhà Lê nhưng bị thất bại. Hình ảnh của Từ Hải cũng có thể biểu trưng cho
Phật tâm từ bi nhưng biển của Như Lai (Từ: từ bi; Hải: biển). Năng lực
diệu dụng của Như Lai cũng như tình thương của Phật thì vô bờ, chở che
chúng sinh trên một lộ trình nhất định nào đó. Cái chết của Từ Hải hàm ý
năng lực giác tha không phải là yếu tố quyết định trên lộ trình giải
thoát mà chính khả năng tự giác, tự tu của mỗi con người mới là yếu tố
quyết định.
-
Hình ảnh Giác Duyên: Hình ảnh sư Giác Duyên xuất hiện trong truyện Kiều
như những người quân tử làm việc nghĩa, xuất hiện đúng lúc và đúng chỗ.
Chữ Giác có nghĩa là giác ngộ còn Duyên là yếu tố hỗ trợ. Trên lộ trình
tu tập, các thiện duyên hỗ trợ cho sự giác ngộ là rất quan trọng, đặc
biệt trong nhà Thiền, có khái niệm giác ngộ từng phần hay tiệm ngộ, thì
rất cần đến những tăng thượng duyên này.
3.3.3. Sự đoàn viên của Kiều hay sự quay về với Chân tâm thường hiện.
“Khái
niệm “Ðoàn viên” có thực trong đời hay chỉ trong tiểu thuyết trở nên
một ý niệm lý tưởng gấp đôi về sự „toàn hảo“ trong tác phẩm: đối với
người sáng tác và đối với độc giả trong tương quan hỗ tương. Ðối với
người sáng tác, „sự trở về trong chung cuộc“ bao hàm tư tưởng triết lý
về cuộc đời „khổ tận - cam lai“, „sau cơn mưa trời lại sáng“, cần phải
được làm tỏ rõ trong câu chuyện được kể ra. Nó trở nên thủ thuật „điểm
nhãn“ viễn tượng lạc quan của câu chuyện, nó chuyên chở linh hồn cho
toàn câu chuyện. Ðối với người đọc, „đoàn viên“ là ước mơ trở thành hiện
thực của con người trong giới hạn hiện sinh của nó. Những câu chuyện
„đoàn viên“ có thể làm cho số „độc giả mềm“ muốn tìm những thí dụ điển hình đem lại ý nghĩa cho
cuộc sống, ý nghĩa lạc quan trong hiện thực bi quan, muốn tìm cái toàn
thể trong phân lìa, một kết cuộc „có hậu“ có tính cách vượt lên trên mọi
giới hạn giam hãm con người trong khát vọng giải phóng” là cách hiểu
của Thái Thị Kim Lan trong “ý niệm đoàn viên trong truyện Kiều của
Nguyễn Du.
Truyện
Kiều của Nguyễn Du cũng nằm trong số những tác phẩm có hậu như thế.
Dưới khía cạnh tâm linh, nếu 15 năm lưu lạc của Kiều chính là 15 năm
biểu hiện cho Khổ đế đồng thời cũng chính là quá trình tìm về bản lai
diện mục của chính mình như là Đạo đế thì khúc ca đoàn viên gồm 287 câu
chính là ý nghĩa của Diệt đế trong Tứ diệu đế của triết học Phật giáo.
Cũng
cần phải nói thêm rằng hai lần tự tử của Kiều và hai lần được cứu sống
đã thể hiện một quan niệm nhân bản hết sức độc đáo: chết không phải là
giải pháp cuối cùng. Dưới nhãn quan Phật giáo, tự tử không phải là
phương cách tối ưu mà đó chỉ là cách giải quyết trong tâm thức tuyệt
vọng, chấm dứt mọi hy vọng chuyển hóa nghiệp lực và dù có chết thì
nghiệp lực vẫn còn đó và sẽ phải tiếp tục tái sinh để gánh chịu hậu quả.
Do đó, việc cứu sống Kiều được hiểu như là đáp án cho một phương thức giải thoát toàn diện.
Việc
Kiều được cứu sống nhưng lại không ở chùa trong quãng đời còn lại mà
đưa về nhà đoàn tụ cùng gia đình là một điểm nhấn đặc biệt quan trọng.
Hình ảnh Kiều biểu trưng cho tâm thức chúng sinh, sau quá trình trôi lăn
trong bến bờ sinh tư, chết đi sống lại nhiều lần và cuối cùng quay trở
về căn nhà xưa là một sự nhập thế đặc biệt tích cực, được thể hiện rõ
nhất trong triết học Phật giáo đại thừa mà cụ thể thiền tông. Bức tranh
thứ 10 trong Thập mục ngưu đồ tụng với hình ảnh vị sư thõng tay vào chợ,
vai vác rượu bầu và hình ảnh Kiều sau 15 ly tán quay về căn nhà xưa
cũng chính là hình ảnh đóa sen chân tâm bất nhiễm khi mà “sự đời đã tắt
lửa lòng” dù sống ngay trong lòng cảnh đời ô trọc.
Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đầu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn thục đế hay mình đỗ quyên!
Trong sao châu rỏ duềnh duềnh
Ấm sao hạt ngọc lam điền mới đông
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao
Chàng rằng phố ấy tay nào
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
Té vui bởi tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai?
Nguyễn
Du đã mượn Kim Trọng nói thay cảm xúc khi đứng trước người xưa. Vẫn còn
người đó, vẫn ngón tay đó nhưng “xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?” Vô
tự chân kinh thông qua một khúc nhạc mà Kiều đã diễn bày được trạng
thái Niết bàn tại thế sau một hành trình vất vả quay trở về với căn nhà
xưa và tìm ra diện mạo chân tâm của chính mình.
Và đến đoạn kết của Truyện Kiều
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
Có tài mà cậy chi tài?
Chữ tài đi với chữ tai một vần
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Ở
đoạn đầu của truyện Kiều, như người viết đã từng đề cập, được hiểu như
là một giả thuyết mà Nguyễn Du nêu ra và đoạn kết trên chính là câu trả lời cho giả thuyết đó.
Theo quan niệm của ông, dù cho
trời, hiểu như là quy luật tự nhiên hay hiểu như là Thiên mệnh thì đặc
điểm quan trọng nhất vẫn là tính bình đẳng tuyệt đối “có đâu thiên vị
người nào – chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai”. Tiếp theo là hai câu nghi
vấn và phản luận và bốn câu cuối là phát ngôn chính thức của tác giả về
vấn đề Tài – Mệnh. Cách nhìn của Nguyễn Du nghiêng hẳn về Phật giáo với
các khái niệm Nghiệp, Thiện căn (Phật tính) và Tâm (Phật tâm).
Giá
trị và ý nghĩa đoàn viên trong truyện Kiều được thể hiện trọn vẹn
trong 4 câu cuối này, xác định vai trò tự chủ của con người trong mọi
hoạt động, đồng thời nhấn mạnh đến Phật tính thường hằng trong tâm thức
mỗi chúng ta cũng như Phật tâm là phương cách cơ bản để chuyển hóa
nghiệp trong một viễn tượng hướng đến giài thoát tối hậu. đó cũng là ý
nghĩa cơ bản của văn học hệ Bát Nhã: tâm tức Phật, Phật tức Tâm, nhất
thề không phân biệt.
4. Tạm kết:
Trưởng
thành trong một xã hội loạn lạc, đất nước nhiểu nhương, đời sống nhân
dân gặp nhiều khổ cực bởi chiến tranh, thuế khóa…. Bản thân ông, tuy
được học nhiều biết rộng, nhưng đường hoạn lộ của ông cũng ba chìm bảy
nỗi tạo nhiều cơ duyên cho Nguyễn Du có cơ hội đi nhiều biết rộng, nhiều kinh nghiệm sống và chứng kiến không ít những số phận không may mắn khiến cho ngọn bút của ông thấm đấm nước mắt của thân phận kiếp người.
Tình yêu của Nguyễn Du dành cho
con người quá rộng và quá lớn, vượt lên trên sự phân biệt sang hèn, giàu
nghèo… nên hầu như bài thơ nào, ta cũng bắt gặp chính thân phận ta
trong đó. Tiếng lòng của Nguyễn Du cũng chính là tiếng nói thầm kín của
chính ta trước số phận Tài Mệnh tương đố trớ trêu mà tạo hóa đã vô tình
sắp đặt.
Quan trọng hơn cả, cách Nguyễn Du giải quyết bài toán hóc búa và trớ trêu trên, trước hết cho chính bản thân cuộc sống của ông, sau đó là lời giải đáp cho
chúng ta chính là một thái độ sống, nói đúng hơn là một nghệ thuật sống
tiêu dao tự tại ngay giữa dòng đời nhiều phen nổi sóng ba đào. Ông không khuyên ta lánh đời yếm thế, không tiểu ẩn nơi sơn lâm để trốn tránh số phận mà khuyên
ta sẵn sàng đối diện với nó với một thái độ tự do và tự chủ nhất. Bởi
đơn giản ta có một vũ khí vô song: Cái Tâm. Chính cái chân tâm trong
sáng kia sẽ giúp ta chiến thắng những số phận xấu số, xóa đi ranh giới
của mọi sự phân biệt và xây dựng một thế giới đại đồng hay Niết bàn tại
thế. Trịnh Công Sơn, người nhạc sỹ tài hoa của thế kỷ 20 cũng thầm mơ
ước “… sống ở đời cần có một tấm lòng…” đấy sao?!!
Trí Không
Tài liệu tham khảo:
Sách
1. Nguyễn Du: Truyện Kiều.
2. Nguyễn Du: 192 bài thơ chữ Hán – Bùi Hạnh Cẩn dịch, nxb VHTT, 1996.
3. Phạm Công Thiện: Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, nxb THTG.
4. Huyễn Ý: Truyện Kiều qua khía cạnh tâm linh, nxb Tôn giáo, HN, 2007.
5. Hà Như Chi: Việt Nam thi văn giảng luận, nxb ĐT, 1994.
6. Nhất Hạnh: Thả một bè lau, nxb Lá bối.
7. Nhất Hạnh: Truyện Kiều văn xuôi dành cho người trẻ, nxb VHSG.
8. Thích Chơn Thiện: Những hạt sương, nxb TG,HN, 2000.
Bài báo hội thảo và internet
1. Phạm Thếng:Tiếng khóc Tố Như.
2. Nguyễn Huệ Chi: Trở lại câu chuyện so sánh Kim Vân Kiều với truyện Kiều.
3. Hiếu Tân: Đọc lại truyện Kiều.
4. Nguyễn Văn Trung: Đặt lại vấn đề truyện Kiều hay phê bình phê bình văn học.
5. Nguyễn Sỹ Tế: Triết lý đoạn trường.
6. Việt Tử: Minh oan cho Kiều.
7. Thanh Tâm Tuyền: Cửa vào đoạn trường tân thanh.
8. Đinh Hùng: Người thơ thuần túy Nguyễn Du trong Văn tế thập loại chúng sinh.
9. Nhất Thanh: Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du.
10. Thái Thị Kim Lan: Ý niệm đoàn viên trong truyện Kiều của Nguyễn Du.