TÁC HẠI CỦA TÂY DU KÝ


Cư sĩ Tuệ Đăng
30/05/2012 08:15 (GMT+7)
Số lượt xem: 248571
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Có câu hỏi như sau: "Trong lễ Hồng Danh Sám Hối, chúng tôi niệm danh hiệu "Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật". Theo truyện Tây Du, sau khi cùng với Sư Phụ là thày Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh, ngài Tôn Ngộ Không được phong là Đấu Chiên Thắng Phật. Vậy Đấu Chiến Thắng Phật Tôn Ngộ Không này có phải chính là vị Phật trong kinh Hồng Danh Sám Hối không?"



Đây là một câu hỏi rất đặc biệt. Nhân câu hỏi này, chúng ta sẽ có dịp thảo luận về một đề tài gây nhiều hiểu lầm trải dài nhiều thế kỷ và lan rộng tại nhiều vùng địa danh trên thế giới.

Thật vậy, tác phẩm Tây Du Ký đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Việt ngữ, Nhật ngữ, Thái ngữ, Anh ngữ, Pháp ngữ vân vân ... và đã được nhiều đạo diễn dựng thành kịch bản, thành phim điện ảnh, do đó, nội dung Tây Du K‎‎ý đã tạo dấu ấn vào tâm tư của nhiều thế hệ và nhiều tầng lớp người thưởng ngoạn. Vì thế, chúng ta rất nên tìm hiểu coi dấu ấn và ảnh hưởng của cuốn sách này tác động vào tâm tư độc giả là tốt hay xấu và có lợi hay có hại cho người đọc.

Vậy Tây Du Ký là gì?

Đó là tên cuốn truyện do tác giả Ngô Thừa Ân sáng tác, chỉ dựa vào một chi tiết có thật độc nhất là «Tam Tạng pháp sư Huyền Trang được vua nhà Đường nước Trung Hoa cử sang Tây Trúc (tức là Ấn Độ) thỉnh kinh ». Từ chi tiết có thật đó, tác giả đã viết ra một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, hoang đường, xúc phạm sự tôn nghiêm của đức Phật, hạ thấp phẩm cách chư đại đệ tử Phật và nhất là bôi nhọ pháp sư Huyền Trang, khiến cho độc giả mất thiện cảm với giới tu hành nhà Phật, cản trở con đường tìm hiểu và tu tập theo Phật pháp một cách nghiêm túc.

Nếu tác giả dùng thể tiểu thuyết để hư cấu một câu chuyện thì không có gì đáng nói vì độc giả sẽ coi như đó chỉ là cuốn tiểu thuyết giả tưởng để giải trí. Nhưng vì ông dùng thể ký sự và lạm dụng tên nhân vật chính cùng với câu chuyện có thật là "Đường Tam Tạng thỉnh kinh tại Tây Trúc" trong sáng tác của ông, nên đã tạo ấn tượng vào tâm trí độc giả rằng đây là chuyện đã thật sự xảy ra, khiến cho có những người đã dùng cuốn Tây Du K‎‎ý như tài liệu để học tập, thảo luận, thậm chí có người đã viết thành những cuốn sách bình luận, ca ngợi vai trò của những con khỉ Tôn, con heo Trư trong truyện Tây Du, cố tình gán ghép triết l‎‎ý kiểu «gọt chân cho vừa giầy», gán cho cuốn sách những tư tưởng cao siêu một cách hoang đường đề cao hành động của mấy con vật hư cấu trong khi xóa tan công đức cao cả vĩ đại của ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang.

Cũng vì sự xuyên tạc này của cuốn Tây Du Ký và sự suy tôn cuốn sách một cách vô trách nhiệm của một số người khiến đã nảy sinh những hiểu lầm, đưa tới giảm thiểu sự tôn kính Phật tổ Như Lai và chư Đại Đệ Tử, đồng thời cũng hiểu lầm luôn cả giáo lý nhà Phật cùng với lịch sử Phật giáo.

Cũng xin thưa rằng từ ngữ "pháp sư" trong nhà Phật có nghĩa là thày dạy Phật pháp, Tam Tạng Pháp Sư là vị thày thông suốt ba kho sách nhà Phật là Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng, không phải là ông thầy có pháp thuật, bày đàn bát quái cúng kiếng quỷ thần, hô gió gọi mưa. 

Trước hết, xin tóm tắt nội dung cuộc thỉnh kinh trong thực tế, đã được Tam Tạng pháp sư Huyền Trang ghi lại thành bộ sách "Đại Đường Tây Vực Ký". Bộ sách này được hòa thượng Thích Như Điển dịch ra Việt ngữ, với lời đề tựa như sau:

"Bộ Đại Đường Tây Vực Ký này sở dĩ chúng tôi dịch trước vì nghĩ rằng chính đây là tấm bản đồ đầy đủ nhất, chi ly nhất mà đương thời từ năm 628 đến năm 645 tại Ấn Độ và Trung Hoa chưa có một người nào viết được một bộ Sử Phật Giáo như thế. Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật cũng như chư vị Bồ Tát, A La Hán.

Số nước mà Ngài đã đi qua là 110, ngày nay chúng ta có thể gọi là những tiểu bang, vì ngày xưa mỗi một vùng có một ông Vua nhỏ, hoặc tù trưởng đứng đầu. Còn ngày nay, Ấn Độ chỉ còn một nước mà thôi. Chung quanh đó có một số nước, ngoài Ấn Độ như Ba Tư, Kasmir, Tân Cương v.v... là những nước lớn ta có thể kể riêng. Nhưng tựu chung chỉ đi bộ và dùng voi ngựa mà vượt qua được những chặng đường dài gần 50 ngàn dặm ấy thì quả thật thế gian nầy chỉ có một không hai.

Nhờ bản đồ hành hương của Ngài qua truyện Đại Đường Tây Vực Ký này mà những học giả, những nhà Khảo Cổ người Âu Châu mới tìm đến Ấn Độ để xác nhận, tìm kiếm những di tích ấy vào cuối thế kỷ thứ 18 và cho đến nay thì bốn Thánh Địa căn bản của đức Phật từ khi Đản Sinh cho đến khi Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên và thị tịch Đại Bát Niết Bàn đã rõ ràng. Bây giờ các nhà Khảo Cổ  người Nhật Bản vẫn còn đang tiếp tục tìm kiếm các di tích cũ ngày xưa cách đây trên 2500 năm về trước. Tất cả đều nhờ vào công đức của Ngài Huyền Trang đã vẽ cho chúng ta một tấm bản đồ cách đây 1375 năm. Đây là tấm bản đồ cũ nhất trong tất cả những tấm bản đồ của thế giới hiện nay".

Trên đây là lời xác nhận của hòa thượng Thích Như Điển về công trình thỉnh kinh của ngài Đường Tam Tạng.

Ngoài ra, trong cuốn "Con Ngựa Già của Đường Tam Tạng", nhà khảo cổ Vương Hồng Sển cũng viết như sau:

"Thực sự, Tây Du diễn nghĩa là một bộ truyện thần thoại, hầu hết sự kiện, tình tiết đều là bịa đặt.  Nhưng chuyện thầy Trần Huyền Trang (Tam Tạng) đi từ Ðông Ðộ qua thỉnh kinh tại Tây Phương lại là chuyện lịch sử có thật. Trần Huyền Trang là một nhân vật có thật trong lịch sử nhà Ðường. Ông tên thật là Trần Vỹ, sanh vào năm thứ 16 đời Tùy Văn Ðế Dương Kiên (596 sau TL) tại huyện Câu Thi (hiện là Huyện Yêm Sư) Tỉnh Hà Nam. Và chuyện thỉnh kinh Tây Phương cũng là chuyện có thật, đã được chính Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ "Ðại Ðường Tây Vực Ký". Thầy chính là một nhân vật sống đã vào lịch sử một cách vinh quang. Thầy từng làm bề tôi cho vua Ðương Thái Tôn (Lý Thế Dân) là bậc minh quân đem lại hiển vinh cho lịch sử Trung Quốc. 

Sự thực thầy Huyền Trang chỉ đi một mình, cỡi một con ngựa già làm chân. Ông đi và ở suốt 17 năm bên Tây phương, gồm 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm ở lại du học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 629 mãi đến năm 645 (thế kỷ thứ 7 sau Tây Lịch) mới về đến thành Trường An (Trung Quốc). Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường đến 17 năm, đi trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lớn nhỏ. Khi về, ông đã mang về:

- 150 viên xá lợi (tinh cốt của Như Lai). 
- 2 tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước 
- 3 tượng Phật bằng đàn hương : cao 3 thước rưỡi, 2thước 9 và 2 thước 3. 
- 657 bộ kinh 
- cùng một số bảo vật khác nữa, phải dùng voi, lạc đà và 24 ngựa mới chở hết. 

Trong thời gian mười ba năm lưu trú tại Ấn độ, thầy đi viếng hầu hết các di tích của đạo Phật, đặc biệt nhất là thầy ở lại chùa Na Lan Ðà, học đạo trong sáu năm. Tất cả những kinh điển của phái Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ đà (Veda), các sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v v... đều tập trung tại chùa này. Chùa do pháp sư Giới Hiền chủ trì và pháp sư có đến trên mười ngàn tín đồ theo học đạo. 

Sau sáu năm học tập, thày Huyền Trang trở nên một trong ba người học trò giỏi nhất của vị cao tăng Giới Hiền.

 Chẳng những là một nhà sư đạo đức, thày Huyền Trang còn là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhất là một nhà phiên dịch giỏi không ai bằng. Lúc còn ở Tây Trúc, đi đến đâu, thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về Trường An, thầy viết lại thành bộ Ðại Ðường Tây Vực Ký, gồm 12 quyển, trong ấy ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v. của những nước đã trải qua hoặc từng trú ngụ. Ngày nay, những tài liệu của thầy để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Ðộ và bất kỳ ai ngày nay cũng công nhận những điều nghe thấy và ghi chép của thầy Huyền Trang rất là đích xác. 

Từ ngày về Trường An, thầy Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch. Suốt mười chín năm ròng rã, từ năm 645 đến năm 664, thầy dịch được tất cả 75 bộ kinh, khoảng 1335 quyển từ tiếng Phạn dịch qua Hán tự, bộ Ðạo Đức Kinh và một bản dịch "Ðại Thừa Khởi Tín Luận" từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ "Ðại Ðường Tây Vực ký" .

Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài thầy Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Ngày cử hành tang lễ có đến một triệu người ở Trường An và các vùng lân cận đến để tiễn đưa thầy. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này". 

Trên đây là lời xác nhận của học giả Vương Hồng Sển, nhà khảo cổ danh tiếng của miền Nam Việt Nam.

Như thế, câu chuyện ngài Tam Tạng pháp sư Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh đã thật sự xảy ra vào thời đại nhà Đường. Duy chi tiết về công cuộc thỉnh kinh gian khổ thì hoàn toàn khác hẳn với những sự mô tả trong cuốn Tây Du K‎‎ý do Ngô Thừa Ân viết.

Vì vậy, để mọi sự được minh bạch, chúng ta cùng lần giở lại trang sử Phật giáo để tìm ra nội dung chính xác về người thật việc thật, về nhân vật lịch sử Đường Tam Tạng, vị cao tăng đã một mình một ngựa từ kinh đô Tràng An nước Trung Hoa lặn lội vượt qua 50 ngàn dặm đường tới Ấn Độ thỉnh kinh. Sự việc được ghi lại rõ ràng trong cuốn Đại Đường Tây Vực K‎‎ý. Khi đó là vào thế kỷ thứ 7.

Gần một ngàn năm sau, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 16, tác giả Ngô Thừa Ân sáng tác cuốn Tây Du K‎ý dựa vào một sự thật độc nhất là pháp sư Huyền Trang sang Ấn Độ thỉnh kinh, ngoài ra, tất cả các chi tiết thí dụ 3 đệ tử là Tôn hành giả, Bát Giới và Sa Tăng cùng các hành vi huyền bí bất thường của họ đều là do tác giả hư cấu.

Chúng tôi xin lược trích ‎‎ý kiến của thày Thích Nhật Từ, chủ biên thư viện điện tử Đạo Phật Ngày Nay như sau:

 "... Theo Tây Du K‎ý‎‎ thì chính Phật Tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm đã bắt giam Tôn dưới chân núi Ngũ Hành ngót 500 năm dài và cũng chính Phật Tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm một lần nữa tạo ra 81 nạn cho 4 thầy trò Ðường Tăng, để rồi dẫn đến kết thúc của tác phẩm chẳng có nghĩa lý gì: ‘’Như Lai là người chủ mưu cuộc hối lộ cái "bát vàng" trước khi giao chân kinh có chữ về Ðông Thổ’’.

Trong truyện Tây Du K‎‎ý, Phật Tổ Như Lai chủ mưu cuộc hối lộ bằng cách "ném đá dấu tay," ra lệnh cho hai tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà, những vị thánh tăng hàng đầu trong hàng đệ tử Phật, đòi "quà thông cảm" với bốn thầy trò Ðường Tăng. Ðiều đó đã làm cho ba vị đồ đệ cương trực của Ðường Tăng bất bình. Nhưng vì thấy tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà "xuống nước nhỏ" (nhưng thật chất là đánh lừa), cả ba vị đã hỷ xả mà không làm lớn chuyện! Bốn thầy trò tưởng mọi việc êm xuôi, hớn hở đem kinh về. Gần về đến Ðại Ðường thì bổng đâu chim Ðại Bàng của Phật Di-lặc cướp bay lên không, rồi sau đó bỏ xuống đất. Lúc đó, thầy trò Ðường Tăng mới vỡ lẽ ra là kinh mà họ khổ công mang về là "kinh vô tự."

Cái gút "kinh vô tự và kinh hữu tự" mà tác giả dựng lên không mang dụng ý thiền học như nhiều người đã cố tình lý giải. Thật ra, nó nhằm tạo ra thái độ căm phẫn của độc giả đối với đức Phật và Bồ-tát, thông qua đó, bôi bác, xuyên tạc Phật giáo. Tôi cho rằng Ngô Thừa Ân đã xúc phạm một cách trịch thượng đến đức Phật, các vị Bồ-tát và các vị thánh tăng. Những điều gì mà đức Phật khuyên người ta nên từ bỏ, xa lìa thì Ngô Thừa Ân lại đem những cái đó gán lên đức Phật".

Trên đây là ý kiến của thày Thích Nhật Từ, chủ biên thư viện điện tử Đạo Phật Ngày Nay.   

Như chúng ta đã biết, đạo Phật xuất hiện trên đời khởi nguồn từ sự giác ngộ thực tại của đức Phật. Ngay sau khi bừng tỉnh, Ngài trực nhận ra rằng : ‘’Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có khả năng giác ngộ như Ngài’’. Từ đó cho tới suốt gần 50 năm, đến tận ngày cuối cùng trước khi nhập Niết Bàn, Ngài đã tận tụy đi khắp nơi để truyền dạy giáo pháp, với nguyện vọng là ‘’Mọi chúng sinh đều được giác ngộ giải thoát, đều thành Phật như Ngài.’’

Tuy nhiên, kinh nghiệm chứng đắc của Ngài là do thực tập, không phải là l‎ý‎ thuyết suông mà đạt được, cho nên nếu ai chưa từng hành trì các pháp môn tu thì sẽ thấy rất khó hiểu.

Vì thế, nhà Phật tạm thời phân sự tu tập thành 2 giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là ‘’Không làm điều xấu ác’’ ‘’Siêng làm đều tốt lành’’. Giai đoạn tu này để chuyển hóa nghiệp xấu thành nghiệp tốt, cùng với các tôn giáo và các nền giáo dục tạo dựng một xã hội lành mạnh, bớt khổ đau, tạo cơ duyên lành cho sự tu giải thoát sau này.

Sau đó, qua giai đoạn thứ nhì là ‘’Tự thanh tịnh tâm ‎‎ý’’. Đây là lúc hành giả buông xả hết tất cả mọi bám víu vào thế gian để tiến tới giác ngộ giải thoát như đức Phật.

Hai giai đoạn tu này thuộc về hai chân l‎‎ý, là đối với chân lý quy ước, có phải trái, hay dở, tốt xấu tương đối với nhau thì ‘’chuyển hóa từ xấu thành tốt’’. Nhưng qua giai đoạn "Tự thanh tịnh tâm ‎ý‎" là giai đoạn vượt lên trên cả sự phân biệt tốt xấu, thánh phàm, hay dở, tiêu dung Tham Sân Si, gọi là cảnh giới Bất Nhị, tạm gọi là Chân L‎‎ý Tuyệt Đối, là giai đoạn tu xuất thế gian, mới chính là bản hoài của đức Phật mong mỏi cho chúng sinh đạt tới.

 Như thế, hai giai đoạn tu hành rất rõ ràng. Tuy nhiên, nếu không đi sâu vào giáo l‎‎ý và hành trì của nhà Phật thì người ta có thể hiểu lầm, thí dụ cho rằng đạo Phật là "thế lưỡng phân", hoặc cho là "đạo Phật thì phải phá chấp". Truyền bá sự hiểu lầm như vậy sẽ gây hoang mang cho quần chúng độc giả, khiến cho có những người luôn luôn chép miệng phê phán "chấp quá, chấp quá", cho là phải vứt bỏ những quy luật sống của xã hội thì mới là "sống Thiền". Đó là một sự lầm lẫn rất đáng tiếc.

Thực tế, hai giai đoạn tu này có những mục tiêu khác nhau và đường lối tu cũng khác nhau, tạm ví như người họa sĩ khi mới tập vẽ cũng phải dùng thước đo để tạo ra những hình ảnh đầu tiên. Nhưng khi đã qua giai đoạn sơ đẳng, họ phải buông thước, hoàn toàn phóng bút theo cảm quan, hai giai đoạn đó không thể lẫn lộn. Hoặc em bé chưa biết đi thì phải theo quy luật, dùng xe tập đi giúp em đứng vững, khi biết đi rồi thì bỏ xe. Chưa biết đi mà bỏ xe thì em bé sẽ té ngã.

Người tu hành trong giai đoạn chuyển xấu thành tốt thì phải nghiêm chỉnh tuân theo giới luật.

 Khi đã qua giai đoạn buông xả được mọi chấp trước Tham Sân Si thì mới có thể phá chấp, tự tại trong cảnh giới Bất Nhị. Đó là lúc vượt lên trên mọi quan điểm về Thánh Phàm, là lúc ‘’Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt’’ (chấm dứt nói năng, nơi tâm suy nghĩ ngưng bặt).

Ở trên, chúng ta đã đọc những lời minh xác của các bậc tôn túc về con người và hành trạng của vị cao tăng là Đường Tam Tạng, ai cũng đã thấy rõ con người ấy hoàn toàn không giống chút nào với Đường Tam Tạng trong Tây Du K‎ý. Và trên thực tế, không hề có 3 đệ tử là Tôn hành giả, Bát Giới và Sa Tăng đi cùng, mà là ngài đi thỉnh kinh một mình.

Thế nhưng trong Tây Du K‎‎ý, Ngô Thừa Ân đã bôi nhọ hình ảnh vị cao tăng, thí dụ để cho tên đồ đệ hư cấu là con khỉ mắng vị Tam Tạng pháp sư (người thông suốt 3 kho Kinh, Luật và Luận)  rằng ‘’ngay đến bài kinh Bát Nhã có 270 chữ nói rằng vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý mà thầy cũng không nhớ’’, hoặc đưa ra hình ảnh Đường Tam Tạng rất tàn ác, đã dối trá để đánh lừa Tôn hành giả đội chiếc mũ có vòng kim cô rồi sau đó thường nghe lời gièm pha của Trư Bát Giới mà đọc "khẩn cô nhi chú" siết vòng kim cô vào đầu tên đệ tử tận tụy là Tôn hành giả khiến cho hắn đau đớn rên siết lăn lộn kinh hoàng... vân.. vân...          

Đến đây, chúng ta đã thấy tất cả câu chuyện Tây Du K‎ý và các nhân vật như Tôn hành giả, Bát Giới, Sa Tăng là hoàn toàn bịa đặt, hoang đường, không có trong thực tế.

Cũng xin thưa rằng câu "Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật" trong Hồng Danh Sám Hối là trích từ kinh Đại Bảo Tích, tôn xưng đức tu hành chân chính, chiến thắng được Tham Sân Si của bản thân, phá trừ được Ngã Chấp, thoát được mọi khổ não trong biển sinh tử, không liên hệ gì tới con khỉ trong câu chuyện bịa đặt Tây Du K‎ý do Ngô Thừa Ân sáng tác.

Nhà Phật không kêu gọi hành giả tu Phật chiến đấu với mọi người hoặc mọi thế lực bên ngoài mà phải luôn luôn thức tỉnh, tự thanh lọc tam độc Tham Sân Si, tự chiến đấu với bản thân để tiêu dung Bản Ngã, hóa giải lòng vị kỷ, sự thù hận và si mê.

Hoàn tất quá trình tu chứng đó là trở thành Đấu Chiến Thắng Phật.

Tuệ Đăng

Bài viết liên quan đến chủ đề:
ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ - Pháp sư Huyền Trang - Thích Như Điển dịch
KẾT THÚC CỦA "TÂY DU KÝ" SỰ CHỐNG LẠI ĐẠO ĐỨC - Thích Nhật Từ

PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN  - Tỳ kheo Thích Hằng Đạt dịch PHẦN V

Âm lịch

Ảnh đẹp