Thơ
 Bùi Giáng hóa kiếp và cho đầu thai để tái sinh cả những cánh bướm, cánh
 chuồn chuồn, con kiến, con vi trùng, sâu bọ cùng hoa hoang cỏ dại qua 
ngôn ngữ hiện đại.
Ông
 cũng sớm nhập vào cuộc sống đô thị, bắt đầu từ Hội An, Huế, rồi Sài 
Gòn: Anh đi về đô hội/ Ngó phố thị mơ màng. Bùi Giáng như một cái cây bị
 bứng khỏi phù sa Thu Bồn, vất giữa đất Sài Gòn, tưởng thung thổ lạ lẫm 
mà vẫn hút được dưỡng chất phồn hoa để tồn tại.
Ông
 vừa lạc lõng giữa đô thành lại vừa muốn là một tế bào - tuy là tế bào 
dị thể - của nó. Thơ ông không dửng dưng với “những chiều hôm phố thị”, 
“những đèn khuya phố thị”. Có lúc ông tự trách mình: Bây giờ tôi đã quên
 xưa/ Sài Gòn cám dỗ tôi chưa chịu về.
Ðiều
 kỳ diệu là Bùi Giáng ngao du sơn thủy mà vẫn như trụ chân một chỗ. Sau 
34 năm ông mới trở lại quê nhà, nhưng thật ra ông đã có bao chuyến về 
tâm thức, đúng hơn, chân ông đi xa mà tâm ông còn ở lại: Hỏi rằng: người
 ở quê đâu?/ Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà.

Trí giả và hiền giả
Trong
 thế giới sáng tạo của Bùi Giáng, gắn liền với kết hợp Quê - Phố là kết 
hợp giữa cổ xưa và hiện đại, Ðông phương và Tây phương. Từ một làng quê 
xứ Quảng, giã từ bầy dê từng được ông choàng hoa và đặt tên, Bùi Giáng 
và những trang từ điển của ông mở lối lên thành phố và đi ra nhân loại.
Rồi
 ra Trung Niên Thi Sĩ không chỉ thân thiết với Nguyễn Du, Cao Bá Quát, 
Chu Mạnh Trinh, Tản Ðà...; mà còn làm quen với những tâm hồn xứ lạ của 
Martin Heidegger, Saint-Exupéry, Gérard de Nerval, André Gide, Albert 
Camus... Ông chơi với cái cổ điển nhất cũng hết mình như chơi với cái 
tân kỳ nhất.
Ông
 yêu Thúy Vân trong vẻ đẹp cổ điển nhưng cũng tụng ca Thúy Kiều trên nền
 nhạc hiện sinh. Nhưng dù là truyền thống hay cách tân, Bùi Giáng vẫn 
hướng về những giá trị vĩnh cửu. Với ông, cái tĩnh tại uy nghi trường 
tồn như núi Ngự muôn đời bên bờ sông Hương là đẹp, đồng thời cái biến 
dịch muôn sắc huy hoàng cũng là đẹp, miễn là nó được vĩnh cửu hóa bằng 
nghệ thuật.
Nếu
 làm một thống kê từ vựng trong thơ Bùi Giáng, sẽ thấy bảng pha màu ngôn
 ngữ của ông đa dạng biết bao: những từ ngữ cổ kính, nghiêm trang đan 
kết với những từ ngữ tân thời, nghịch ngợm.
Ðể
 dùng cách nói thời thượng hiện nay, ông nhà quê Bùi Giáng là người “mở 
cửa”, “hội nhập” sớm hơn ai hết. Việc ông giỏi chữ Hán, tiếng Pháp thì 
không khó hiểu.
Nhưng
 chỉ mười năm ở Sài Gòn, không qua trường lớp nào, mà ông thông thạo 
tiếng Anh, có thể đọc Shakespeare trong nguyên tác, và am hiểu tiếng Ðức
 một cách chuẩn xác, sâu sắc, khi đọc, dịch, trích dẫn Friedrich 
Hölderlin, Martin Heidegger, như sự xác nhận qua kiểm chứng trong thực 
tế của nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, thì quả là một năng lực ngôn ngữ 
thâm hậu.
Một
 đối cực khác được kết hợp trong tác phẩm và con người Bùi Giáng là sách
 vở, nhà trường trang nghiêm với cuộc đời nắng gió, bụi bặm, xô bồ.
Ðó
 cũng là kết hợp giữa quy cách và phá cách. Xuất thân Bùi Giáng là nhà 
giáo, ông viết những lời trân trọng về các thầy giáo cũ của mình.
Ông
 vào trường thi, thi rớt, phải thi lại để có tấm bằng. Nhưng ông cũng 
sẵn sàng bỏ trường mà đi khi thất vọng về nó. Khi viết sách giáo khoa, 
ông viết mạch lạc, khúc chiết. Khi sáng tác, viết khảo luận và dịch 
thuật, ông để dòng ý thức của mình lôi ngòi bút đi miên man bất tận.
Sách
 vở giúp Bùi Giáng trở thành trí giả; cuộc đời và số phận biến ông thành
 hiền giả. Người trí giả phải chịu lép vế trước người hiền giả trong 
ông. Người và văn ông không để cho những chuẩn mực câu thúc, ý văn ông 
tràn ra ngoài những ranh giới của lý trí.
Tư
 tưởng ông đi theo đường dây riêng biệt của nó, từ Nerval đến 
Shakespeare, từ Shakespeare đến Nguyễn Du, từ Nguyễn Du đến Gide, rồi 
lại từ Gide đến Saint-Exupéry... Qua cái bề ngoài phi logic, văn bản của
 ông thách đố người đọc đi tìm sự mạch lạc nội tại của nó.

“Người nghịch chữ”
Về
 mặt tâm lý sáng tạo và chức năng biểu hiện của văn bản, tác phẩm Bùi 
Giáng là sự pha trộn, nhập nhòa giữa thực và mộng, giữa tỉnh và mê. Thực
 và mộng, tỉnh và mê không có ranh giới rõ ràng mà thực hòa trong mộng, 
tỉnh hòa trong mê và ngược lại. Có những trang thơ, trang văn Bùi Giáng 
viết như lên đồng, như viết tự động, viết trong giấc thụy du.
Theo
 lời kể của người thân, bệnh án Bùi Giáng có ghi ông mắc bệnh “tâm thần 
phân liệt dạng sáng tạo chữ”. Ðiên là thoát khỏi thế giới thực tại để đi
 vào một thế giới huyễn ảo của tâm hồn. Nói cách khác, điên là lìa xa 
chuẩn mực của người, không còn bị gò bó, vướng bận.
Từ
 khi được/ bị xem là điên, Bùi Giáng thong dong đi tiếp con đường của 
mình, không phải chiều lụy gia đình, xã hội; không ai và không điều gì 
có thể níu kéo, làm phiền ông nữa.
Ông
 có thể nhập thân vào thi giới của mình, một thi giới mang ít nhiều ảnh 
tượng của hiện thực nhưng lại do chính ông tái tạo và chế biến. Có thể 
nói ông là đấng toàn năng, là hoàng đế trong thế giới của riêng ông.
Lao
 động nghệ thuật của Bùi Giáng là sự tương tác giữa nghĩ, viết và chơi. 
Có lẽ ông không phải là “phu chữ”, như cách nói của Lê Ðạt, mà là “người
 nghịch chữ”.
Ngay
 trong khi nghĩ, ông đã nghịch ngợm những từ ngữ và khi viết ra thì thực
 sự là ông bày trò chơi trên trang giấy. Bao vấn đề suy tư triết học, tư
 tưởng văn học hóc búa, rối rắm, ông diễn đạt tuy rườm rà mà đọc vẫn 
thấy vui, nhiều khi ta chưa hiểu hết ý mà không thấy mệt óc.
Ông
 là bậc kế tục thượng thừa những trò chơi chữ, giễu nhại... của văn hóa 
dân gian, của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tú Quỳ... và khai thác một cách 
mạnh mẽ, cuồng nhiệt nhất. Ít thấy trong văn Bùi Giáng vẻ nghiêm nghị, 
cau có của người tin rằng mình đang nói những điều quan trọng hay đang 
phát ngôn cho chân lý.
Có
 thể nói Bùi Giáng là thứ quả mà cây văn chương chỉ kết được một lần. 
Bùi Giáng phơi mình giữa nắng gió cuộc đời, rong chơi bất tận giữa đám 
đông mà vẫn là bí ẩn trước mắt thiên hạ, thách thức mọi suy đoán, lý 
giải. Ai ở Sài Gòn những năm 70, 80, 90 thế kỷ trước mà không một lần 
gặp Trung Niên Thi Sĩ.

Trên
 những con đường quanh chợ Trương Minh Giảng. Trước cổng trường Ðại học 
Vạn Hạnh. Trong sân chùa Già Lam. Giữa các ngõ hẻm quanh co của xóm Gà 
Gia Ðịnh. Tôi có bốn năm là hàng xóm của ông ở xóm Gà.
Một
 buổi trưa nắng gắt, tôi chạy xe về hẻm 482 Lê Quang Ðịnh, thấy ông nằm 
như thiu ngủ trên một đống cát nhà ai đang xây, bóng cây không che hết 
gương mặt teo tóp đọng nắng của ông. Vài tờ giấy viết dở vương vãi bên 
cạnh.
 Tôi
 dừng xe lại, chưa biết làm gì: nhặt giúp ông những tờ bản thảo sắp bay 
đi hay đánh thức gọi ông vô nhà. Giữa lúc tôi còn phân vân, thì Bùi 
Giáng, mắt vẫn nhắm nghiền, nhưng linh cảm có người bên cạnh, đưa bàn 
tay lên xua qua xua lại, ngầm bảo rằng: hãy đi chơi chỗ khác đi, đừng 
quấy rầy ông, hãy để ông yên với cơn mê của ông, thế giới của ông.
Chúng
 ta nói nhiều, viết nhiều về Bùi Giáng, nhưng có lẽ vẫn là người xa lạ 
đối với ông. Sau 15 năm, chúng ta thêm một lần đón nhận Bùi Giáng, đón 
ông về lại với không gian văn hóa này, thậm chí có thể nói một cách nào 
đó là chuộc lỗi với ông, bởi có lần ta đã lạnh nhạt, nếu không nói là 
xua đuổi ông.
Thử
 tưởng tượng một hôm nào đó Bùi Giáng tinh anh nghe nói có tọa đàm về 
ông ở trường đại học. Chắc ông sẽ lò dò đến đấy, leo lên cầu thang, đứng
 ngoài cửa ngó vào, nghe lấy đôi câu, rồi hấp háy đôi mắt dưới cặp kính 
dày cộp mà lẩm bẩm: “Các cháu cứ ở đó mà tọa đàm đi, ông già Bùi rong 
chơi tiếp đây!”.
Dẫu
 có như thế, chúng ta cũng đừng phật ý. Ta hãy đáp lại ông bằng ngôn ngữ
 của chính ông: “Vui thôi mà, thưa Trung Niên Thi Sĩ”.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Thiên tài không định nghĩa được Bùi
 Giáng thi sĩ là hiện tượng lạ của nền thơ Việt Nam hậu bán thế kỷ 20 
bởi sự tích hợp nghệ thuật kỳ bí song hành với cuộc đời kỳ dị, được công
 chúng yêu thơ mến mộ, truyền tụng và thêu dệt như những giai thoại, đến
 một ngưỡng nào đó, được xem như huyền thoại. Nghiên
 cứu về thơ Bùi Giáng, ngày càng có nhiều công trình công phu và thành 
tựu ra mắt bạn đọc. Nhưng với một cuộc đời đa dạng và một tài năng thơ 
đa diện và đa chất như ông, thì không phải mọi kết luận đều đã thống 
nhất và bình ổn. Vì vậy, sự vẫy gọi từ thế giới thi ca của Bùi Giáng vẫn
 là khả tính cho những ai quan tâm và muốn đi tìm bản thể cuộc đời và 
bản mệnh nghệ thuật của thi sĩ tài năng dị biệt này, đúng như nhà văn 
Sơn Nam đã tâm sự: “Viết đôi lời về Bùi Giáng không bằng đọc về Bùi 
Giáng. Ðọc Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi 
Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giáng thật vui mà 
thật khó vậy. Ông thuộc vào loại thiên tài không định nghĩa được, là một
 bí ẩn toàn diện trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái nửa 
không nửa có, nửa hư nửa thực”. Những
 nghịch lý trong sáng tạo nghệ thuật của Bùi Giáng đã làm thành tổng hòa
 của sự hội tụ chứ không phải là sự phân hóa thi pháp thơ. Nhưng cũng vì
 vậy mà trong cái bông đùa, cà rỡn có sự thăng hoa của đau xót miên 
trường; trong cái hồn nhiên có sự uyên uẩn, nhức nhối của trí tuệ; trong
 điên loạn, cuồng say có sự mộng mơ và mê đắm của cõi tình. Tất cả những
 nghịch lý trên chính là tâm thức hiện sinh của Bùi Giáng trên từng 
chặng hành trình sống và hành trình thơ. Trích tham luận Bản mệnh thơ Bùi Giáng của PGS.TS Hồ Thế Hà  | 
 
Thế giới có một không hai Đọc
 Bùi Giáng như thể là đi lạc vào một thế giới hỗn độn, chập chờn. Thiên 
la địa võng của ngôn từ tuôn ra từng trận từng cơn, trùng trùng điệp 
điệp. Câu thơ “Ngữ ngôn cuồng dại chập chờn” của chính Bùi Giáng trong Ngày tháng ngao du có
 thể dùng để miêu tả thế giới Bùi Giáng - đó là thế giới của người thật 
dắt tay người ảo. Các nhân danh địa danh nửa có nửa bịa. Các trích dẫn 
chương cú hư hư thực thực. Những đối thoại tưởng tượng (với Nguyễn Du, 
Nietzsche, Trang Tử, Simone Weil, với các “mẫu thân”, với chính mình, 
với cả châu chấu, chuồn chuồn) thì quá ư tiếu ngạo, trộn lẫn mọi thứ có 
thể và không thể... Bùi Giáng tung ngọc vào bùn, chẳng cần quan tâm thị phi, khinh trọng. Ông
 trộn nhã và tục trong nói lái, pha điên và tỉnh trong triết lý, lẫn giả
 và chân trong trò chơi văn bản, chen hay và dở những câu thơ. Thế giới đó, dẫu sao đi nữa, là có một không hai. Trích tham luận Bùi Giáng “chơi” của nhà văn Nhật Chiêu  |