Lễ tế thần của người miền núi
Tết của người Kơro
ở cao nguyên Trung phần sau tết của người thành thị một tháng, gọi là Tết Lir
Bong. Lir Bong là “Mừng lúa về”. Nó bắt đầu vào khoảng tháng Ba dương lịch. Thóc vừa gặt xong, tha hồ nhàn rỗi, chờ
đến mùa mưa mới cày cấy cho vụ sắp tới.
Tết “Mừng lúa
về” được tổ chức hàng năm. Họ rào làng tránh cướp bóc, sửa sang đường sá, giếng
nước, trồng cây nêu v.v… Lễ được khai mạc vào buổi chiều khi mặt trời đã lặn.
Trống kèn khua vang, gà, vịt, dê, lợn được mang ra tế lễ dâng cúng Thượng đế
với lời cầu nguyện: “Khẩn cầu Thượng đế nhận lời cảm tạ của mọi người. Thượng
đế đã ban phúc cho dân làng, dân làng có thóc ăn quanh năm. Xin ban phát cho
mọi người được sức khỏe dồi dào để làm việc nhiều hơn cho mùa sau. Kết quả càng
tốt đẹp”. Lời cầu nguyện vừa xong, chủ tế chém chết những con vật, lấy huyết
vẩy lên cửa nhà, vạt thóc, giạ lúa,… sau đó mang ra làm cỗ đãi khách. Suốt đêm
chuông trống vang lừng khắp nơi. Họ tin tưởng may mắn sẽ đến vào những ngày kế
tiếp(1).
Tết của đồng
bào Di Linh, một năm không nhất định bao nhiêu ngày. Ngày tết của họ thay đổi
từ làng này sang làng khác. Sự thay đổi khiến họ có thể dự tết nhiều nơi. Tết
là một ngày hoàn toàn ở gia đình. Nghi lễ chỉ tổ chức trong phạm vi nhà cửa và
vựa thóc. Gà được lấy máu vẩy lên các bồ thóc để cầu thần linh cho những hạt
giống sinh sôi nẩy nở… Những con lợn bị giết và đem thui, ruột gan đựng riêng
để tế thần. Đêm xuống, trong vựa thóc chỉ còn leo lét ánh lửa thui lợn như ánh
lửa nấu bánh chưng của dân đồng bằng thành thị.
Phong tục tuy
có khác nhau, nhưng nói chung, tết xưa ở miền núi thường đi kèm với máu của súc
vật, kèn trống, hét hò và những bình rượu lớn.
Cổ tục làng Tích Sơn
Trai làng Tích
Sơn đến mười tám tuổi đều được làng cử nuôi một con gà ngay từ đầu năm trước,
để đầu xuân năm sau có gà tế thần. Họ phải săn sóc vỗ béo sao cho gà được nặng
cân.
Ngày mùng ba
tết, tất cả đều khăn đóng áo dài mang gà ra đình làm lễ. Mỗi người ôm gà của
mình sắp hàng chỉnh tề trước đình. Đợi các vị tiên chỉ trong làng khấn vái
xong, các chàng trai ôm gà nhảy nhót và vái lễ trước bàn thờ. Sau đó, từng
người một dùng dao chém đứt đầu gà, tiết gà được hứng riêng, thân gà mang ra
nhổ lông làm thịt. Phân gà có khi vãi cả ra bàn thờ cúng thần khi bị chặt đầu.
Ngoài tục chém
gà còn có tục chém lợn. Lợn cũng được vỗ béo và dẫn ra đình. Nó được tắm rửa
sạch sẽ và thả đi vòng vòng trước bàn thờ để trình Đức Thành hoàng. Trình lợn
xong, một thanh niên cầm gươm phang vào đầu lợn. Phải biết cách chém nhanh,
chém mạnh, gươm phải thật bén để đầu lợn đứt lìa ngay nhát chém đầu tiên. Đang tung
tăng, bị một nhát gươm, lợn không kịp kêu, máu từ cổ phun ra, thân lảo đảo rồi
ngã quỵ.
Có cổ tục này là do dân làng Tích Sơn chịu ảnh
hưởng vị thần mà họ đang dâng lễ tế. Tương truyền, lúc sinh tiền ông là một tên
tướng cướp. Khi bị dân làng đuổi tới chân núi thì cùng đường. Bị vây hãm quá
đói, sẵn có con lợn ngang qua, ông chém ngang mà ăn sống v.v... Sau, do chết
vào giờ linh(?) ông được dân làng tế tự như vị thần giữ làng(2). Nhân tích ăn lợn đó mà có lễ dâng lợn vào
đầu xuân hàng năm.
Tục dâng rượu ở làng Yên Đổ
Với cái nhìn của người thế gian, không có rượu thì
không có lễ, nên trong việc tế tự, đa phần đều có rượu đi kèm. Riêng ở làng Yên
Đỗ, rượu mang dâng thần phải là loại rượu thật đặc sắc, được các lão làng tế tự
tuyển chọn kỹ càng mới được dâng cúng.
Việc cúng kiếng ở thành thị
Xuân ở thành
thị, từ xưa đến nay vẫn văn minh hơn. Gà, vịt, heo, bò tuy vẫn bị giết, nhưng
máu của chúng đều được rửa sạch. Không thể để dấu vết của sự chết chóc tồn tại
đâu đó trong nhà cửa hay trong chốn làm ăn vào những ngày đầu năm. Thật kinh
hoàng khi đâu đó xuất hiện một vài giọt máu, dù của súc vật. Xem ra, thứ mà
ngày xưa dân miền núi gọi là điềm may, nay lại được coi như điềm bất hạnh với dân thành thị. Xét cho cùng “may” hay
“không may” chỉ là vọng tưởng của con người.
Đa phần mọi nhà
đều có tục làm cơm rước ông bà vào cuối năm. Người người lau rửa, sơn sửa nhà
cửa sạch đẹp để chuẩn bị đón mừng năm mới. Thức ăn đồ uống cũng được dự trữ đầy
đủ trong ba ngày tết. Phần do chợ búa ngày xưa không mở bán trong những ngày
đó, phần mọi người đều tin rằng sự sung túc đầy đủ đầu năm là điềm báo cả năm
được sung túc dư dả. Mọi người còn nhắc nhau phải vui vẻ, không được nhăn nhó
gay gắt để cả năm được an bình. Bực bội, la hét hay khóc lóc phải được kiêng cữ
tối đa trong ba ngày tết. Mùng ba tết có lễ làm cơm tiễn ông bà.
Lễ tết, ngoài
cơm nước thịnh soạn, còn có bánh chưng, bánh tét, tiền lì xì, rượu, chè v.v…
Tùy phong tục của từng miền mà nhà nhà sắm sửa sao cho thịnh soạn để cả năm
được sung túc an lành.
Lợi ích của tế tự qua cái nhìn của Đức Phật
Việc tế tự, dù cho chư thiên hay các vị thần linh,
cũng đều biểu trưng cho lòng biết ơn và thành kính của con người đối với những
gì mà họ đã nhận được trong cuộc sống của mình. Dù việc tế tự mang tính cầu xin
là không đúng với chánh kiến, nhưng bản thân việc tế tự lại mang tính bố thí và
lòng biết ơn, nên cái quả của nó vẫn có liên quan ít nhiều đến sự sung túc.
Trong kinh Trường
bộ quyển I, bài kinh số 5, khi được Bà-la-môn Kutadanta hỏi về cách thức tế
tự và các tế vật, Phật đã trả lời gián tiếp bằng câu chuyện tế tự của vua
Mahàvijita. Trong đó, vị Bà-la-môn chủ tế đã vạch định cho vua Mahàvijita các
điều kiện thiết yếu để ông có thể gặt được cái quả hạnh phúc an lạc dài lâu
trong tương lai:
1/ Mời tất cả
những vị Sát-đế-lị, chư hầu các tỉnh thành, các đại thần cùng quyến thuộc, các
gia chủ phú hào (Phật gọi chung là bốn đại chúng) tham dự, như việc chứng thành
cho buổi lễ tế đàn được thành tựu.
2/ Vua Mahàvijita cần có 8 đức:
- Thiện sinh từ
mẫu hệ lẫn phụ hệ.
- Huyết thống
thanh tịnh đến bảy đời tổ phụ, không một lời dèm pha nào đối với vấn đề huyết
thống.
- Sắc diện và
phong thái phải thanh cao tuấn nhã.
- Tài bảo sung
túc, thương khố sung mãn.
- Có uy lực,
đầy đủ bốn loại quân chủng chinh phục địch quân.
- Có tín tâm,
từ tâm, chuyên làm công đức cho Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ bần cùng…
- Bác học trong
mọi vấn đề.
- Có thể suy tư
tinh thông các việc từ quá khứ cho đến vị lai.
3/ Vị Bà-la-môn
làm chủ tế đàn phải có đầy đủ năm đức:
- Thiện sinh từ mẫu hệ lẫn phụ hệ.
- Huyết thống
thanh tịnh đến bảy đời tổ phụ, không một lời dèm pha nào đối với vấn đề huyết
thống.
- Là nhà phúng
tụng, trì chú, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú
giải và lịch sử truyền thống.
- Có biệt tài
về thuận thế (tự nhiên học) và xem tướng bậc đại nhân.
- Là nhà bác
học tinh thông, sáng suốt với đầy đủ giới hạnh và đức độ cao dày.
4/ Trước khi tế
lễ, vị Bà-la-môn chủ tế cần căn dặn vua Mahàvijita ba pháp “không nên”:
- Trước khi lễ
tế đàn xảy ra, không nên hối tiếc “phần lớn tài sản ta đã tiêu hao…”.
- Trong khi
đang làm lễ tế đàn, không nên hối tiếc “phần lớn tài sản ta đã tiêu hao…”.
- Sau khi làm
lễ tế đàn, không nên hối tiếc “phần lớn tài sản ta đã tiêu hao…”.
Nói chung,
không khởi tâm hối tiếc đối với việc tế đàn dù với bất kỳ lý do gì.
Vì sao không nên hối tiếc đã được Phật nói trong
phẩm Địa chủ, kinh Tăng nhất A-hàm quyển I. Nhân duyên cúng dường bố thí
tuy đưa đến cái quả sung túc cho thí chủ, nhưng bố thí rồi mà khởi tâm hối tiếc
thì dù được quả báo sung túc vượt bực, cũng không hưởng được quả ấy, cũng không
được vui trong ngũ dục(3).
5/ Vị Bà-la-môn khuyến khích vua lập tế đàn với nội
tâm hoan hỷ an vui. Dù việc bất như ý nào xảy ra, nhà vua vẫn nên giữ nội tâm
hoan hỷ.
6/ Trong lễ tế
đàn, không có trâu, bò, dê, cừu, gà, heo bị giết. Cũng không có loại sinh vật
nào bị sát thương. Không có cây cối bị chặt để làm trụ cột tế lễ. Không có cỏ
cát tường bị cắt để rải chung quanh. Các kẻ gia bộc, làm thuê không bị dọa nạt
đánh đập khiến cho sợ hãi, khổ nhọc. Tế đàn được hoàn tất chỉ với dầu, sinh
thô, thục tô, mật và đường miếng.
Không có thú
vật v.v..., vì đánh đập và sát sanh là nhân đưa đến bệnh tật, nạn tai và yểu
tử. Cho nên, muốn có sức khỏe thì không nên giết hại súc vật để tế đàn. Chỉ cần
không sát sinh v.v… thì không cần có trụ tế đàn hay cỏ cát tường rải quanh, cát
tường vẫn đến. Đó là lý do vì sao trong việc tế lễ, Đức Phật dạy không có thịt
súc vật dâng cúng, cũng không có sự dọa nạt đánh đập. Bởi từ tâm là nhân giúp
thoát được mọi nạn tai.
Làm được một tế
đàn như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ được hạnh phúc an lạc dài lâu. Song
với những điều thiết yếu cần có của một lễ tế đàn như thế không phải ai cũng
làm được. Vì thế, Kutadanta hỏi tiếp:
- Thưa Tôn giả
Gotama, có tế đàn nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi
ích hơn cách tế đàn như thế?
- Đó là bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận
lợi, cúng dường cho các vị xuất gia có giới đức.
Quả báo bố thí
lệ thuộc vào ba thứ là tâm người bố thí, phẩm vật bố thí và giới hạnh người
được bố thí. Bố thí thường xuyên, là đủ duyên liền bố thí, không đợi phải lập
đàn tràng. Người cần liền bố thí. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Đó
là ruộng phước tốt, tâm người bố thí cũng tốt. Cúng dường cho các vị xuất gia
có giới đức cũng là ruộng phước tốt, là gieo nhân với Tam bảo để được sự hộ trì
của Tam bảo.
Kutadanta lại
hỏi tiếp:
- Thưa Tôn giả,
có tế đàn nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn
là bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, cúng dường cho các vị xuất gia
có giới đức?
- Đó là xây dựng tinh xá cho Tăng chúng tu tập.
- Thưa Tôn giả,
có tế đàn nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn
là xây dựng tinh xá cho Tăng chúng tu tập?
- Đó là thành
tâm quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Này Bà-la-môn! Tế đàn này ít phiền hại
mà lại được quả báo lợi ích nhiều hơn các cách tế đàn trên.
- Thưa Tôn giả,
có tế đàn nào ít phức tạp, ít nhiễu hại mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn là
quy y Tam bảo?
- Đó là thành
tâm giữ gìn 5 việc không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm
và không uống rượu. Giữ được 5 việc đó là tế
đàn mang lại hạnh phúc và an lạc dài lâu cho con người.
Tùy mức độ giữ
gìn mà ta có được hạnh phúc và an lạc nhiều hay ít, dài hay ngắn. Đây là tế đàn
mà tất cả ai cũng có thể thực hiện cho chính
bản thân, kể cả những người không thuộc đạo Phật, để có được hạnh phúc và an
lạc dài lâu.
Điên trần truồng
Luận Đại trí
độ kể rằng:
Ở Nam Thiên
Trúc có vị pháp sư giảng về ngũ giới. Trong đó có nhiều ngoại đạo đến nghe.
Nghe xong quốc vương nước đó vấn nạn pháp sư:
- Nếu đúng như
lời ngài nói, người uống rượu cũng như kẻ cho rượu đều phải chịu quả báo điên
khùng, thì đáng ra đời này người điên phải nhiều hơn người tỉnh, sao người điên
ít mà người tỉnh lại nhiều?
Hàng ngoại đạo
vẫy tay tán đồng:
- Đúng! Đúng!
Người tỉnh nhiều hơn người điên. Vua thật là người lợi trí. Lời vấn nạn thâm thúy thay! Nhất định gã trọc đầu ngồi tòa cao kia
không thể nào trả lời.
Pháp sư không
trả lời mà lấy tay chỉ hàng ngoại đạo rồi nói qua chuyện khác. Vua liền hiểu.
Hàng ngoại đạo
xầm xì:
- Lời vấn nạn
quá thâm thúy đâu thể trả lời. Xấu hổ nên
đưa tay chỉ chỉ rồi nói qua chuyện khác.
Vua nói với các
ngoại đạo:
- Pháp sư lấy
tay chỉ chỉ là đã nói xong. Vì muốn bảo vệ các ngươi nên không trả lời mà lấy
tay chỉ chỉ, là muốn nói lũ điên chính là các ngươi. Điên không phải ít. Các
ngươi lấy tro bôi người, trần truồng không biết hổ thẹn. Dùng đầu lâu của người
đựng phân mà ăn. Mùa đông thì nhảy vào nước, mùa hạ lại hơ lửa. Các việc làm phi đạo như thế đều là hình thức của điên khùng.
Lại vùi mình trong cát mà cho là tiêu hết tội lỗi. Những việc cưỡng nhân trái
duyên như thế mà cho là nhân duyên của nhau, không phải điên là gì?
Nói chung,
những suy nghĩ và hành động nào trái với chánh kiến, gây tạo nhân quả không phù
hợp với những gì kinh Thập thiện đã nói, đều là hình thức của điên
cuồng. Phật nói điên đảo. Tổ Long Thọ nói “điên trần truồng”. Nói điên, vì nó
trái với quy luật bình thường.
Thế gian này,
có những cái điên lộ hẳn ra ngoài, được mời ngay vào nhà thương điên thì dễ
thấy rồi. Nhưng cái gọi là “điên trần truồng” đây thì ít ai thấy mà gần như ai
cũng có, chỉ là ít hay nhiều, cạn hay sâu mà thôi.
Không tin vào
lý nhân quả, giết người hàng loạt để lên Niết- bàn, giết hại sinh vật làm lễ tế
tự với mong cầu được sức khỏe, muốn giàu có phải tranh giành chụp giựt, tham
nhũng, thỉnh bùa, chú ngải v.v… đều là hình thức của điên trần truồng.
Uống rượu là
một trong những cái nhân đưa đến tà kiến. Từ tà kiến mà có hoạn nạn, tai ương,
nhưng hiện nay ít ai tin điều đó. Đáng nói là dù rượu đưa đến khá nhiều thảm
họa trước mắt, nó vẫn được đa phần mọi giới ca tụng và xem như một thú tiêu
khiển không thể thiếu trong các buổi trà tiệc. Thế giới ngày càng đảo điên một
phần là đó.
Xuân của bậc đạo nhân
Dù may mắn hay
bất hạnh thì xuân về, không phải chỉ mang sự sống và niềm vui đến muôn loài.
Niềm vui của loài này có khi là nỗi đau của loài khác. Sự sống của loài này có
khi là sự chết chóc của loài khác. Ta hồ hởi đón xuân với những vật phẩm tốt
lành nhưng lũ súc vật thì không. Một nỗi sợ hãi và chấm dứt thân mạng khá đau
khổ. Niềm vui của ta hình thành một phần từ nỗi đau của kẻ khác, nên cái quả mà
ta có được là một thế giới Sa-bà phân ranh, không ngừng chiến tranh, thù hận,
nạn tai và chết chóc. Không như xuân của những kẻ miền núi vô sự:
Ở núi, việc không, cửa đóng gài
Độc tọa tâm cùng, dứt thấy nghe
Màn giấy tùng mai trăng rọi sáng
Nhân gian chỉ đó một càn khôn.
(Sơn Cư Bách Vịnh)
Ở núi không
người thì xuân về đâu phải tiếp khách mà cửa không đóng, việc cho nhiều? Một
mình một chợ thư thả đất trời như chốn không người. Người nhàn cảnh nhàn, người
như cảnh như. Vật ngã đều quên, bỉ thử vắng bóng. Tâm không cảnh không thì thấy
nghe không tồn tại. Chỉ như trăng sáng chiếu khắp đất trời. Vạn vật đều tỏ như
trăng soi bóng nước. Trạm nhiên chưa từng vắng thiếu.
Hòa thượng
Thường Chiếu bình: “Bậc siêu thoát trí hạnh viên dung, thấy nghe không phân
biệt. Xoay thấy nghe trở về tâm. Đây là bậc đại trí đại hạnh. Cảnh giới của Văn
Thù, Phổ Hiền toàn bày đầy đủ. Điền địa này siêu tuyệt, ít người vãng lai, vượt
khỏi nhị biên, siêu thoát thể nhập. Người đến được đất này thường ngồi trên
lưng voi hoặc cỡi sư tử dạo khắp đó đây, tùy duyên hóa độ làm lợi ích chúng
sinh...", rồi nói kệ rằng(4):
Trên ngọn Diệu Phong rong tự tại
Xem xét mười
phương
chúng khổ đau
Khởi từ phương tiện tùy ứng hóa
Đưa chúng đồng lên bờ Niết-bàn.
Mới hay, núi
cao một mình không ngoài núi tâm vô sự. Tâm không cảnh không thì ngay chốn
thành thị đồng bằng vẫn là trên đỉnh Diệu Phong thong dong tự tại. Từ tâm khai
phát thì không vì cái vui của mình mà động đến nỗi đau muôn loài. Không vì sở
thích của mình mà phá bỏ cái vui của muôn người. Xuân xuân từ đó khắp nơi. Xuân
xuân từ đó mọi thời. Đây là tế đàn mà phần thiết lập tế đàn ít phức tạp phiền
nhiễu nhưng quả báo lợi ích thì không gì bằng, như Đức Phật đã nói với
Kutadanta:
- Này
Kutadanta! Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh biến tri, Minh hạnh
túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn
sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi tự chứng ngộ với thượng trí thế giới này,
với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, tất cả thế giới, với Sa-môn,
Bà-la-môn, Thiên, Nhân, lại tuyên thuyết điều đã chứng ngộ. Như Lai thuyết pháp
sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Như Lai truyền dạy phạm hạnh
hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Nếu có người nào nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp,
người ấy sinh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, vị này suy
nghĩ về đời sống từ bỏ dục lạc ở gia đình. Một thời gian sau, người ấy từ bỏ
tất cả, sống đời sống không gia đình. Khi đã xuất gia, vị ấy sống chế ngự với
sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm
trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập giới học. Thân nghiệp, ngữ nghiệp
thanh tịnh. Sinh hoạt trong sạch. Giới hạnh đầy đủ. Thủ hộ các căn. Chánh niệm
tỉnh giác. Biết tri túc... Đó là tế đàn ít phiền nhiễu nhất mà lợi ích thì lớn
lao nhất.
Hay và không hay - Giữ
và bỏ
Tập tục truyền
lại không phải cái gì cũng hay. Có cái hay mà có cái không hay. Làm lễ tạ ơn
trời Phật thần linh vì lòng biết ơn là hay, nhưng sát sinh hại vật làm lễ dâng
cúng thì không hay. Làm lễ tạ ơn Trời Phật là hay nhưng giao phó tính mạng của
mình vào tay Trời Phật thì không hay. Vấy máu súc vật cùng khắp là không hay
nhưng giữ tâm hoan hỷ, không để phiền não hiện hình vào những ngày đầu năm là
hay. Sửa soạn nhà cửa, thức ăn dự trữ đầy đủ là hay, nhưng phải đi vay nợ để
tạo sự sung túc tạm bợ vì mê tín dị đoan thì không hay v.v...
Hay, nối tiếp
giữ gìn thì dễ, vì nó thuận với thói quen và tập tục của mọi người. Nhưng với
cái không hay thì từ bỏ không phải dễ. Bởi cưỡng lại thói quen tạo ra sự bất an
cho chính mình. Đi trái lại tập tục của tập thể đông đảo cũng tạo ra sự bất an
không nhỏ. Do đó chúng ta dễ bị các tập tục xấu trói buộc khiến phải gặt quả
xấu trong tương lai. Cho nên, muốn bỏ những tập tục xấu, đòi hỏi chúng ta phải
có niềm tin vững mạnh vào những gì Như Lai đã nói. Có trí tuệ để học hiểu và
nhìn nhận vấn đề cho chính xác. Tránh tình trạng đi từ cực này sang cực kia,
dứt bỏ luôn cả những điều tốt đẹp, rơi vào chấp không nhân quả. Và cuối cùng,
cần có định lực và can đảm để dứt bỏ những gì cần dứt bỏ. Tự mình dứt bỏ và
động viên người khác dứt bỏ để cuộc sống được an vui thật sự.
Sang năm mới,
nguyện cho tất cả chúng sinh có được niềm tin sâu sắc đối với giáo pháp của Như
Lai. Tự lợi và lợi tha rộng rãi để thế giới được an bình, nơi nơi được ấm no,
đao binh và nạn tai chấm dứt.
Chú thích
(1) Phần lễ tết của các bộ tộc đều được lấy
ra từ cuốn Nếp cũ của nhà văn Toan Ánh.
(2) Sau cái chết của ông, có nhiều việc không
hay xảy ra trong làng, nên dân làng cho rằng ông chết vào giờ linh mà lập miễu
thờ tự.
(3) Đây đang nói đến phước báu Nhân Thiên nên
có việc vui trong ngũ dục.
(4) Sơn cư bách vịnh, HT.Thích Nhật
Quang chú dịch.