| 
  Naga được phiên âm là Na-già, được đồng nhất với rồng/ long và trong 
từng tọa độ địa lý - lịch sử, nó lại tích hợp với những tín niệm bản xứ 
để trở thành những linh vật/ linh thần hàm chứa nhiều đặc điểm và tính 
chất phồn tạp khó có thể nói cho cùng. Ở bài viết này, chỉ đề cập đến 
những gì chính yếu nhất cốt để có hiểu biết ít nhiều về Naga trong văn 
hóa Phật giáo. Nghệ thuật tạo hình Naga   Tổng
 quát, trong Phật giáo Naga có hình dáng của một con rắn mang bành lớn, 
thường xuất hiện với một cái đầu hay nhiều đầu. Một vài con Naga có được
 quyền năng biến hóa thành người. Trong nghệ thuật Phật giáo, Naga thỉnh
 thoảng được miêu tả dưới dạng một con rắn ngóc những cái đầu lên cao 
phủ che Đức Phật và thường thấy ở tranh, tượng mô tả Đức Phật thiền định
 ngồi trên những cuộn quấn của vua Naga. Đây là một motif phổ biến trong
 nghệ thuật Phật giáo, đặc biệt xuất sắc là các pho tượng sa thạch của 
mỹ thuật Campuchia thế kỷ XI, XII.   Ở miền Bắc 
Thái Lan, Naga(1) là một quy ước kiến trúc phổ biến. Trong vai trò bảo 
hộ chánh điện thờ Phật, Naga được thể hiện dưới dạng Naga trượt trên 
diềm mái chùa; cuộn/quấn dưới mái hiên gie ra đến từ những rầm mái; bao 
quanh khung/cửa tò vò; trượt trên mặt tiền cột/trụ; và lượn sóng dọc 
theo lan can chánh điện phức hợp... Trong mỗi trường hợp, đầu Naga hay 
những cái đầu dựng đứng như che chở, miệng chúng mở to, thè lưỡi và 
những hàng răng sắc nhọn. Ngọn lửa bùng lên từ đầu, cách điệu hóa cao. 
Từ cổ thân hình Naga thường hay rũ xuống thành dải uốn cong đều đặn làm 
dịu bớt tính dữ tợn của con mắt tròn rực cháy và dãy vây lưng tua tủa.    Đồ án Naga - Makara   Naga
 có thể xuất hiện đơn lẻ hay trong dạng nhiều đầu. Những cái đầu, thường
 là số lẻ, những cái đầu hai bên hay nhỏ hơn cái đầu chính giữa vươn 
cao. Trong dạng nhiều đầu, những cái đầu thường đội mũ miện, tạo nền cho
 bố cục ba mặt. Thi thoảng Naga xuất hiện riêng lẻ, nhưng phổ biến hơn 
thường được miêu tả là đầu nó mọc ra từ miệng thủy quái Makara, như biểu
 thị sự kết hợp của hai loài bò sát huyền thoại nhằm tăng cường sự dũng 
mãnh để bảo hộ/ ngăn ngừa sự thâm nhập của các thế lực xấu ác vào chùa 
qua các khe hở, những lỗ trống.   Những đồ án kiến
 trúc nói trên không chỉ phổ biến ở Bắc Thái mà còn thể hiện rộng rãi 
trong các chùa tháp Phật giáo Nam tông ở các quốc gia khác.    Ngoài
 đồ án kết hợp với Makara(2), chúng ta còn thấy sự kết hợp giữa Naga và 
Garuda. Đồ án này có lẽ bắt nguồn từ mối thù truyền kiếp của Naga và 
Garuda, gốc từ thiên sử thi Mahabharata.    Naga 
là một linh vật á thần, gốc Hindu giáo có hình tướng mặt người thân rắn,
 với cổ bành của loài rắn hổ mang. Theo truyền thống Hindu giáo, Naga là
 con của Kadru, vợ của ẩn sĩ Kasyapa. Kadru đã sinh ra 1.000 quả trứng 
và nở ra 1.000 con rắn, nhằm mục đích tạo nên cộng đồng dân cư cho cõi 
Patala, tức cõi âm, dưới mặt đất - một cảnh giới tráng lệ gọi là 
Naga-loka đặt dưới sự thống trị của các Naga Chúa (Nagaraja: thường được
 gọi là Long vương trong ngữ cảnh văn hóa Trung Quốc): Ananta (còn được 
gọi là Sesha: con rắn “vô định” làm bệ nằm cho thần Vishnu ngủ giấc ngủ 
vũ trụ), Tashaka, Vasuki và nhiều con rắn dữ chứa đầy nọc độc. Chúng là 
anh em ruột, con của Kadru và ẩn sĩ Kasyapa.   Theo
 truyền thống Hindu giáo, bắt nguồn từ sử thi Mahabharata, kẻ thù truyền
 kiếp của loài Naga là loài chim Garuda (thường được gọi là chim cánh 
vàng/ kim sí điểu trong kinh văn Phật giáo). Thoạt đầu Naga và Garuda là
 anh em cùng cha khác mẹ của nhau. Cha của chúng là Kasyapa. Ông đã lấy 
hai chị em ruột là Kadru và Vinata làm vợ. Kadru mẹ của loài Naga có ý 
nguyện có nhiều con và đã sinh ra 1000 Naga. Trong khi đó, Vinata - mẹ 
của Garuda lại chỉ muốn có một vài đứa con, song chúng phải thật dũng 
mãnh. Vinata đẻ được hai trứng: một nở ra thành người đánh xe cho thần 
Mặt trời Surya và một trứng khác nở ra chim thần Garuda. Qua một cuộc 
đánh cược dại dột, Vinata trở thành nô lệ cho chị của mình là Kadru; 
theo đó, Garuda buộc phải tuân theo mệnh lệnh của các Naga. Mặc dù phục 
tùng loài Naga nhưng Garuda luôn nuôi mối thù hận và những đố kỵ đã tích
 tụ lại khiến Garuda không thể buông bỏ. Garuda đã cầu xin đám Naga cách
 thoát khỏi kiếp nô lệ cho mẹ mình. Đám Naga đã buộc Garuda đem thuốc 
trường sinh amrita cho chúng để đổi lấy sự tự do. Garuda đánh cắp thuốc 
trường sinh của chư thần mang về để đáp ứng điều kiện do các Naga đưa 
ra. Nhưng mưu mẹo đó bị chư thần phát giác. Thần Vishnu đã đuổi theo 
Garuda để đoạt lại thuốc trường sinh và Garuda trong lúc chạy trốn đã 
làm rơi một số giọt amrita trên đám cỏ kusha. Các Naga liền đổ xô ra 
liếm lấy thuốc trường sinh dính trên lá cỏ. Do đó, lưỡi chúng bị cạnh 
sắc của cỏ kusha chẻ làm đôi, dấu vết còn đến ngày nay... Và từ đó, 
Garuda vẫn coi loài Naga là kẻ thù và luôn tìm cách bắt chúng để ăn(3). 
Điều này là cơ sở tạo nên đồ án kết hợp Naga-Garuda phổ biến trong mỹ 
thuật Phật giáo.    Đồ án Naga   Phật
 giáo Kim cương thừa Tây Tạng thừa hưởng biểu trưng Naga từ di sản cổ 
của Ấn Độ được tích hợp vào Phật giáo thời sơ kỳ. Chúng là những linh 
vật hạ giới, dưới đất và dưới biển, đặc biệt là thủy giới của sông hồ, 
ao giếng và biển cả. Trong vũ trụ luận Phật giáo, chúng được chỉ định 
trú xứ là ở tầng cuối cùng của núi Meru/ Tudi; và kẻ thù truyền kiếp của
 nó là Garuda/ Kim sí điểu ở tầng trên, tức tầng thứ hai của ngọn núi 
trung tâm vũ trụ này. Chúng là lực lượng canh giữ các kho báu và kinh 
tạng ở cõi dưới. Bồ-tát Long Thọ (Nagarjuna) có lẽ là người đầu tiên 
nhận được tạng kinh được loài Naga bảo quản dưới thủy giới, đó là kinh 
Bát-nhã Ba-la-mật-đa.   Tám vua Naga (Nagaraja; 
Tạng ngữ: klu’i rgyal-po) là danh sách phổ biến trong truyền thống Phật 
giáo. Các Nagaraja (thường gọi là Long vương trong ngữ cảnh văn hóa Hán)
 được miêu tả như một bầy chen chúc dưới chân hoặc là vật trang sức của 
một số chư thần phẫn nộ.   Về hình tướng, Naga 
thường được thể hiện dưới dạng nửa người (từ hông trở lên) và nửa còn 
lại là dạng rắn cuộn. Hầu hết Naga có màu trắng; một mặt hai tay; hai 
bàn tay chắp lại thành kính hoặc làm cử chỉ dâng hiến châu báu. Chúng có
 một, ba, năm, bảy cái mào đầu hay bảy con rắn nhỏ ngóc lên như một cái 
mào trên đầu Naga và những con rắn này có màu sắc tương ứng với năm đẳng
 cấp của Naga (theo năm đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ truyền thống) hay 
tương ứng với tám Nagaraja. Motif rắn nhiều đầu có hình như vương miện 
của Naga Ấn Độ có nguồn gốc từ bảy hoặc chín cửa sông của sông Indus cổ 
xưa(4).   Phật giáo Đại thừa cũng tiếp nhận ý 
nghĩa những biểu trưng Naga nguyên mẫu. Song trong ngữ cảnh văn hóa Hán,
 Naga được đồng nhất với rồng/long; theo đó, Nagaraja được gọi phổ biến 
là Long vương. Hình tượng Long vương được thờ ở chùa phổ biến là đầu 
rồng, thân người với trang phục hoàng bào, đội mũ bình thiên.   Naga trong Phật thoại   Naga xuất hiện phổ biến trong nhiều Phật thoại và đa phần gắn liền với Đức Phật lịch sử.   1. Trước hết là chuyện Phật đản sinh   Theo
 kinh Maha sát đầu và đồ hình khắc trên đá về đề tài vườn Lộc Uyển (ở Ấn
 Độ) thì lúc Đức Phật giáng sinh, Trời Đế Thích, Phạm vương và Long 
vương dùng nước thơm tắm gội cho Phật. Đó là căn cứ khởi phát cho tập 
tục dùng nước thơm tắm gội cho tượng Phật đản sanh vào lễ Phật đản hàng 
năm - gọi là Quán Phật hội (hay Phật sanh hội, Dục Phật hội...) phổ biến
 trong hầu hết các cộng đồng tín đồ Phật giáo(5). Cũng có thuyết cho 
rằng, lúc Phật giáng sinh có chín con rồng hoặc con rồng chín đầu phun 
nước thơm tắm cho Đức Phật. Đây là cơ sở của các quần tượng Cửu Long hay
 các tranh vẽ Cửu Long phúng thủy(6).   
   Đồ án Cửu Long   2. Câu chuyện thứ hai là rắn thần Naga Mucalinda che chở cho Đức Phật   Truyện
 kể: Vào tuần thứ sáu, sau khi thành đạo, từ cây Ajapala Đức Phật sang 
cây Mucalinda và ngự tại đây một tuần lễ để chứng nghiệm quả vị giải 
thoát. Bỗng nhiên có một trận mưa to kéo đến. Trời sẫm tối dưới lớp mây 
đen nghịt và gió lạnh thổi vùn vụt suốt nhiều ngày.   Vào
 lúc ấy, mãng xà vương Mucalinda, từ ổ chui ra, uốn mình quấn quanh Đức 
Phật bảy vòng và khum đầu to che trên đầu Ngài. Nhờ vậy mà mưa to gió 
lớn không động đến thân Đức Phật. Đến cuối ngày thứ bảy, thấy trời quang
 mây tạnh trở lại, Mucalinda tháo mình trở ra và bỏ hình rắn, hiện thành
 một thanh niên, chắp tay đứng trước mặt Đức Phật. Đức Phật đọc bài kệ 
như sau: “Đối với hạng người tri túc, đối với người đã nghe và đã thấy 
chân lý thì sống ẩn dật là hạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, 
có thiện chí, người biết tự kiềm chế, thu thúc lục căn đối với tất cả 
chúng sanh là hạnh phúc. Không luyến ái, vượt lên khỏi dục vọng là hạnh 
phúc. Phá tan được thành kiến “ngã chấp”quả thật là hạnh phúc tối 
thượng.”(7).    Đồ án rắn thần Naga Mucalinda che chở cho Đức Phật   Cũng
 Phật thoại kể trên nhưng Phật giáo Miến Điện cho rằng vào tuần lễ thứ 
sáu, Đức Phật đã thiền định sau khi đắc đạo ở bờ hồ Mucalinda, cách cây 
bồ-đề không xa...(8). Nói chung, cùng cốt truyện, song tiểu tiết có sai 
biệt.    3. Câu chuyện về Naga bảo hộ các di vật Phật giáo   Ở
 Tây Tạng, Naga được biết đến dưới tên gọi Klu, giữ vai trò biểu trưng 
cho Phật giáo vùng Hy Mã Lạp Sơn và trong thần thoại Tây Tạng. Truyền 
thống tu viện Sera cho rằng khi Sakya Yeshe trên đường trở về sau chuyến
 viếng thăm Trung Hoa, ông đã để kinh Tengyur được nhà vua trao tặng rơi
 xuống nước khi lội qua sông. Đoàn người hộ tống đã tìm kiếm chúng trong
 vô vọng mà vẫn không tìm được kinh nên đành tiếp tục hành trình trở về 
Sera. Khi chư Tăng về đến, các nhà sư ở tu viện đã nói với họ rằng, 
trước khi họ trở về, có một ông lão cùng những người hầu đã viếng thăm 
Sera và tặng một bộ kinh Phật cho tu viện. Ông lão nói rằng hãy giao nó 
cho Sakya Yeshe. Người ta tin rằng ông lão là vua Naga, và khi những 
cuốn kinh được kiểm tra, nó vẫn còn ướt.   Câu 
chuyện cuộc đời truyền thống của Niguma, người vợ của Naropa, trong thời
 kỳ đầu của Phật giáo, vùng đất mênh mông nước này được cai trị bởi vua 
Naga. Vị vua Naga này vì thương cảm các môn đệ của Đức Phật, đã rút cạn 
nước cho mục đích xây dựng chùa chiền và tu viện Phật giáo. Vùng đất này
 được gọi là vùng đất diệu kỳ. Đó là nơi Niguma được sinh ra. Niguma 
hình thành nên 5 pháp Niguma. Một trong những học thuyết đó được xem như
 là kim chỉ nam của dòng tu Shangpa Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Câu 
chuyện này khá tương đồng với truyền thuyết khai nguyên của dân tộc 
Khmer. Ở đây, vua Naga đã hút cạn hồ nước để tạo nên xứ sở Cos Thlot cho
 con gái của mình là “Long Nữ” Niêng Neak, kết hôn với Preah Thong để 
thành lập vương quốc, tiền thân của nước Campuchia sau này. Dữ liệu này 
cho thấy đây là một motif phổ biến được tích hợp vào các sự kiện lịch sử
 cụ thể.   Vua Naga cũng hiện diện khi di vật tro 
cốt Đức Phật được phân phát. Trong kinh văn Phật giáo Ceylon, Naga 
thường xuất hiện: khi Đức Phật thực hiện một cuộc viếng thăm miền Bắc 
Ceylon để hòa giải các Naga trong cuộc chiến giữa họ; khi nhánh cây 
bồ-đề được chở theo đường biển đưa đến Ceylon, những Naga đều muốn giành
 nó cho mình, nhưng Naga vẫn bảo hộ cho tàu thuyền mang nhánh cây đó; 
khi một điện thờ lớn được xây dựng ở Ceylon để cất giữ những di vật của 
Đức Phật, Naga đã góp những di vật mà chúng sở hữu. Truyền thống Phật 
giáo Miến Điện thiết lập việc thờ cúng  Naga cùng với Đức Phật(9).   Chỗ
 ở của Nagaraja (gọi là Long vương hoặc Long thần) được gọi là Long cung
 hay Long hồ ở dưới đáy biển lớn, Long vương dùng thần lực hóa ra cung 
điện làm chỗ giữ gìn tài bảo, kinh điển khi Phật pháp ẩn mất.    Tượng Long Vương, chùa Phụng Sơn, TPHCM   4. Câu chuyện Naga chứng đắc và sự thành đạo của Đức Phật   Một
 Phật thoại khác về Naga theo The Chronicle of Gotama Buddha, Mingum 
Sayadaw(10) như sau: “Sau khi nhận thức ăn cúng dường là bát cháo sữa 
ghana do Sujata dâng cúng. Bồ-tát đã đưa ra quyết định trong khi giữ cái
 bát vàng: “Nếu ta thành đạo, ngày hôm nay, hãy để chiếc bát này trôi 
ngược dòng; nếu ta không thành đạo, ngày hôm nay, hãy để chiếc bát này 
trôi xuôi dòng”. Rồi ngài để chiếc bát xuống lòng sông Neranjara. Chiếc 
bát vàng rẽ nước đi thẳng đến giữa con sông và trôi ngược dòng với tốc 
độ nhanh như ngựa phi và mất hút vào một xoáy nước. Khi đến cung điện 
của vua Naga Kala, chiếc bát vàng rơi xuống va nhằm những chiếc bát được
 dùng bởi ba vị Phật quá khứ là Kakusanda, Konagamana và Kassapa vào 
ngày các vị Phật đó thành đạo, tạo nên âm thanh “kili, kili” và đến dừng
 lại dưới ba chiếc bát vàng đó.   Khi nghe âm 
thanh đó, vua Naga Kala thốt lên rằng: “Mới chỉ ngày hôm qua, một Đức 
Phật đã hiển hiện; thế mà ngày hôm nay, một Đức Phật nữa đã thành đạo”. 
Và Kala cất lên những câu xưng tụng. (Lưu ý: Đây là một kiếp đời kéo dài
 rất lâu, kể từ thời Đức Phật Kassapa ra đời đến lúc Đức Phật Thích Ca 
đắc đạo. Thời gian lâu dài là vậy, song đối với Kala Naga thì nó rất 
ngắn ngủi, chỉ như ngày hôm qua và ngày hôm nay mà thôi).   Phật
 thoại trên phổ biến trong các bích họa ở phần lớn các chùa Phật giáo 
Nam tông. Chùa Khmer ĐBSCL là một ví dụ. Trong các bích họa đó, bức 
tranh xuất sắc nhất là bức vẽ ở chùa Lu Đồng (Sóc Trăng).    5. Một Phật thoại phổ biến khác liên quan đến Naga Sagara (âm Hán: Sa-kiệt-la; nghĩa là “Vua Naga của biển mặn”.    Thực
 ra, Sagara được biết đến là nhờ người con gái của mình, tên gọi phổ 
biến là Long Nữ (Nagi) - thị giả bên cạnh Bồ-tát Quán Thế Âm. Đối lại, 
thị giả bên trái là Thiện Tài. Sự đắc đạo của Long Nữ hoàn toàn khác với
 Thiện Tài, phải trải qua biết bao gian khó, qua 53 lần tham vấn Phật 
pháp mới đắc đạo. Truyện kể rằng: Long Nữ rất thông minh, năm tròn 8 
tuổi, một hôm được nghe Văn Thù thuyết pháp ở Long cung, liền giác ngộ. 
Khi ấy, Long Nữ đến núi Linh Thứu bái yết Phật Thích Ca và thành tựu 
được Phật đạo với thân là con rắn Naga (rồng). Sự đắc đạo nhanh chóng 
này nảy sinh ra điều nghi hoặc đối với ngay cả Bồ-tát Văn Thù lẫn Bồ-tát
 Trí Tích và Xá Lợi Phất. Tuy nhiên, Long Nữ đã chứng minh sự đắc đạo 
của mình: Long Nữ dâng cúng Đức Phật một viên bảo châu và nhờ công đức 
này, Long Nữ lập tức biến thành thân nam, vãng sanh về thế giới Vô cấu ở
 phương Nam, thành Đẳng chánh giác, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thuyết 
pháp cho tất cả cõi trời, người, Bồ-tát, Thinh Văn, Thiên long bát bộ, 
nhân, phi nhân v.v... ở thế giới Ta-bà. Đây là Phật thoại được đề cập ở 
phẩm Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) trong kinh Pháp hoa. Phật giáo Tiểu thừa 
cho rằng thân nữ nhơ uế không thể thành Phật; còn Phật giáo Đại thừa chủ
 trương chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Do đó, Phật thoại Long Nữ
 thành Phật phản ánh sự phát triển của Phật giáo Đại thừa(11).   Naga - Từ truyền thống Hindu cho đến các tín niệm Phật giáo   Nói
 chung, các tình tiết thần kỳ về Naga thuộc truyền thống Hindu rất phong
 phú về số lượng lẫn nội dung. Không phải tất cả, song nhiều tình tiết 
đó đã hội nhập vào kinh văn Phật giáo với những biến đổi ít nhiều về đặc
 điểm và tính chất.   Chẳng hạn, trong truyền 
thống Hindu, Naga được coi là cư dân của cõi Patala, hiểu là cõi dưới, 
bao gồm cả âm phủ lẫn dưới nước, sông hồ, biển cả thì trong ngữ cảnh văn
 hóa Phật giáo Naga có đến 4 loại có mặt ở cả 3 cõi:   -
 Thủ thiên cung long: Loài Naga (rồng) cõi trời, gìn giữ cung điện cõi 
trời (không để cho mất hoặc không để cho các cung điện này rơi xuống).   -
 Hành vũ long: Tức loài Naga chuyên việc làm mưa (có tên gọi khác là 
rồng “hưng vân trí vũ”: kéo mây làm mưa, tức chủ việc mưa gió). Loài 
Naga này có hai loại: Naga lành/ thiện long tạo mưa thuận gió hòa, đem 
lại lợi ích cho người; và Naga dữ/ ác long gây mưa to, lụt lớn khiến cho
 con người khốn khổ.   - Địa long: Loài rồng ở sâu dưới đất sâu, làm hầm, khoét hang, làm cho đất lún mà thành sông, thành hồ, thành biển.   - Phục tạng long: Loài rồng giữ gìn kho báu của Chuyển luân thánh vương và của các nhà phước đức lớn(12).   Một
 đặc tính khác vốn phổ biến trong truyền thống Hindu là mối thù truyền 
kiếp của Naga và Garuda cũng được nhắc đến ở phẩm Long-Điểu trong kinh 
Trường A Hàm (và có thể kể thêm là ở các kinh Đại lâu thán, Khởi thế 
nhân bản, Khởi thế...) rằng: Naga/ rồng có 4 loại là noãn sanh, thai 
sanh, thấp sanh và hóa sanh. Chúng thường bị 4 loại đại bàng/ Garuda/ 
Chim cánh vàng noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh ăn nuốt(13).    Đồ án Naga   Nói
 chung, trong kinh văn Phật giáo, các motif Naga thuộc truyền thống 
Hindu được tiếp nhận và biến cải ở nhiều mức độ khác nhau. Trong đó, sự 
thống thuộc Naga vào Bát bộ chúng/ Thiên long bát bộ - các vị thần bảo 
hộ Phật pháp là có phần hoàn bị. Đức Phật đã dùng oai đức cảm hóa cả 8 
bộ chúng [Thiên (Deva/ Trời), Long (Naga/ Rồng), Dạ-xoa (Yaksa/ 
quỷ/chằn), Càn-thát-bà (Gandhava/ Hương thần/ Nhạc thần), Atula (Asura),
 Ca-lâu-la (Garuda/ Kim xí điểu), Khẩn-na-la (Kimnara/ Phi nhân/ Ca 
nhân), Ma hầu La-già (Mahoraga/ Đại mãng thần)] quy y trở thành quyến 
thuộc của Phật, ở cõi thọ dụng của chư Phật, hộ trì Phật và Phật 
pháp(14). Ở tập hợp Bát bộ này, chúng ta thấy có hai loại rắn khác biệt:
 Naga và Mahoraga.   Mahoraga trong truyền thống 
Hindu được hiểu là loài rắn lớn (Maha+uraga), tức “Đại mãng thần”, được 
đồng nhất với rắn chúa Sesha hay chỉ chung bất cứ loại rắn to lớn nào 
đó(15). Còn trong ngữ cảnh văn hóa Phật giáo, Mahoraga được xác định là 
“vị thần đầu người mình rắn, một trong Thiên long bát bộ” và được Hán 
dịch là “Đại mãng thần” (thần rắn lớn), song cũng gọi là “Đại hung 
hành”, “Đại phúc hành” hay “Đại hung phúc hành”, tức vị rắn thần có cả 
thuộc tính tốt/ phúc và xấu/ hung. Trong Duy-ma kinh lược sớ, Mahoraga 
là vị thần “không có chân, di chuyển bằng bụng. Vì lúc sanh tiền phá hủy
 giới cấm, tà siểm nhiều sân hận, ít bố thí, tham ưa rượu thịt nên đọa 
làm quỷ thần, trong thân thể có nhiều trùng độc rút rỉa, ăn thịt nên 
thống khổ vô cùng”(16). Trái lại, trong Huệ Lâm âm nghĩa, Mahoraga lại 
được coi là nhạc thần, có hình người đầu rắn và trong mạn-đà-la thai 
tạng giới có tôn trí 3 tôn vị Mahoraga, có một tôn vị thổi tiêu, khá gần
 tương đồng với nhạc thần - tức Càn-thát-bà, một trong Bát bộ chúng 
thường có mặt trong các cuộc pháp hội để nghe Phật thuyết kinh, thường 
đem hương hoa kỹ nhạc cúng dường.    Garudađang ngấu nghiến một con rắn và chân túm lấyđuôi của hai Naga (bên trái phía trên). Vua Naga bảy mào giữ viên ngọc trước ngực (bên phải, phía trên). Chi
 tiết mũ miện bảyđầu rắn của Nagarjuna(Bồ Tát Long Thọ) vị giảng sư 
vĩđại của thế kỷ thứ 2, người nhận kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa từ vua Naga
 (bên dưới).   Có phần khác với tính 
chất hai mặt nhập nhằng của Mahoraga, các Naga/ Long vương được phân làm
 hai loại rõ rệt: Một là loại thiện - gọi là “pháp hành long vương”: làm
 mưa thuận gió hòa, giúp cho ngũ cốc ở thế gian được tươi tốt; và hai là
 loại ác - gọi là “phi pháp hành long vương”: do tâm ác làm mưa to gió 
lớn khiến cho ngũ cốc bị hư hại (Phẩm Súc sanh/ kinh Chánh pháp niệm xứ,
 18). Hai loại Naga thiện và ác này có lẽ chỉ loại Naga có chức năng làm
 mưa gió - được gọi là “hành vũ long” hay “hưng vân trí vũ long”, một 
trong 4 loại Naga mà chúng ta đã nói ở trên; tuy nhiên, trong cái nhìn 
tổng quát, đây là sự khu biệt thiện/ ác cho loài Naga thuộc Thiên long 
bát bộ, tức 8 loại chúng sanh không phải loài người; tức chư thiên, chư 
long, chư thần, chư quỷ. Ở đây, chúng ta cũng lưu ý rằng Naga không chỉ 
thuộc “Thiên long bát bộ” mà còn thống thuộc “Bát bộ quỷ chúng” - tức 
tám loại quỷ do Tứ Thiên vương thống lãnh(17). Điều này cũng cho thấy 
tính chất không định tính rõ ràng của Naga trong kinh văn Phật giáo. Đối
 với loài chúng sinh này trong kinh tạng ghi rõ ràng Naga/ long, một 
trong Bát bộ chúng thường hiện đến nghe Phật giảng kinh Đại thừa. Cụ 
thể, khi Phật giảng kinh Diệu pháp liên hoa, có tám vị Long vương 
(Nagaraja) dắt theo quyến thuộc đến hầu để nghe kinh. Đó là các Long 
vương Nanda (Nan-đà), Upananda (Bạt-nan-đà), Sagara (Ta-già-la), Vasuki 
(Hòa-ta-kiết), Takchaka (Đức-xoa-na), Avravotapta (A-na-bà-đạt-đa), 
Manasvin (Ma-na-tư) và Utpala (Ưu-bát-la). Ngoài ra, trong Phật thoại kể
 về kỳ tích Phật đản sanh, có nhắc đến hai trong tám Nagaraja/ Long 
vương là Nanda và Utpala hiện đến phun nước tắm gội cho Ngài. Dị bản phổ
 biến trong tranh tượng là “Cửu long phúng thủy” hiểu: 1/Con rồng chín 
đầu; và 2/ Chín con rồng phun nước.   Mặc dù là 
loại chúng sanh hộ pháp và hướng thiện, thường hiện đến dự pháp hội để 
nghe Phật giảng kinh, song Naga không được coi là loại chúng sinh hội đủ
 phẩm chất như con người. Trong luật tạng, có tích kể về một con Naga/ 
rồng muốn mau tiến bộ trên đường tu học đã hóa thành một chàng trai 
tráng đến trước Tăng-già xin thọ giới xuất gia. Khi đã được thọ giới, 
Naga về tăng phòng ngủ lại hoàn hình thành Naga khiến chư Tăng hốt 
hoảng. Do vậy, chư Tăng nghị hội trục xuất vị Tăng sĩ gốc Naga này với 
lý do Naga chưa đủ sức tiến hóa để thọ giới Tỳ-kheo, tức phải sanh lên 
làm người, có đủ căn cơ tốt mới được làm Tỳ-kheo(18). Quan điểm này cũng
 được nêu trong phẩm Devadatta của kinh Pháp hoa: Một Nagi (Long Nữ), 8 
tuổi sau khi nghe Manjushi (Văn Thù) thuyết pháp đã biến thành người và 
phát tâm tu đạo đạt đến sự đắc đạo đã dẫn ở trên. Rõ ràng rằng, sự tích 
này đã xác định bất cứ loài chúng sanh nào có được chí nguyện tu đạo thì
 sẽ đạt được sự chuyển thân hầu đạt được quả vị giác ngộ. Phật thoại 
này, trong văn liệu Nam truyền có một kết thúc có hậu: Để sách tấn vị tu
 sĩ gốc Naga bị trục xuất khỏi Tăng-già, Đức Phật đã hứa với Naga rằng: 
Các trai trẻ xuất gia, trong giai đoạn bắt đầu từ lúc cạo đầu đến lúc 
được chư Tăng chính thức đồng ý được thọ giới được gọi là Naga. Ẩn dụ 
này là biểu tượng cho sự quá độ của một Tăng sĩ: từ một chàng trai trẻ 
kiến văn thấp thỏm, tuy có sự tiến bộ nhất định những vẫn là bậc tôn 
kính còn hạn chế(19). Nội dung đoạn kết của Phật thoại này đã trở thành 
thể chế của Phật giáo Thái Lan và Khmer. Đối với người Khmer, lễ xuất 
gia (Bon Bôm Bous: lễ đi tu) thường được tổ chức vào dịp Tết Chôl Chnnăm
 Thmây. Vào ngày ấy, gia đình nào muốn đưa con vào chùa tu làm lễ Bon 
Bôm Bous để người đi tu từ giã người thân và bạn bè. Kế đó, người ấy cạo
 đầu, thay quần bằng tấm xa-rông và thay áo bằng một chiếc khăn vải 
trắng. Từ đó, người này được gọi là Nêak (rắn/Naga) cho đến khi người 
này được chư Tăng chấp nhận cho thọ giới chính thức mới được mặc y cà 
sa. Ở Thái Lan, chú tiểu khi cạo đầu này cũng được gọi là Nak 
(Naga/rắn)(20).   Những dữ liệu trình bày trên đây
 cho chúng ta một bức tranh đa dạng về tín niệm Naga của Phật giáo. Ở 
đó, nổi bật lên hàng đầu là tín niệm, dù bất cứ loài chúng sanh nào, kể 
cả loài hung dữ và độc hại như Naga/rắn, nếu biết phát khởi thiện tâm và
 chí nguyện theo thiện đạo thì chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ.  * Huỳnh Thanh Bình (GNO)  Chú thích   (1)(19) Theo Buddhist sculpture of northern Thailand, Carol Stratton, Nxb.Buppha, 2004, tr.340.   (2)
 Xem Thủy quái Makara - Từ thần thoại Ấn Độ đến các tín niệm Phật giáo, 
phần các đồ án Makara, Giác Ngộ nguyệt san, số 201, 12-2012.   (3) (4) Theo The handbook of Tibetan Buddhist symbols, R. Beer, Shambhala xb, 2003, tr. 72-74.   (5) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Thích Minh Cảnh chủ biên, tr. 3788.   (6) Theo L’art du Bouddhisme, Dietrich Seckel, Albin Michel xb, 1964.   (7) Theo Đức Phật và Phật pháp, Narada Maha Thera, Phạm Kim Khánh dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2010.   (8)(9) Theo Folk elements in Burmese Buddhism, Dr. Htin Aung, 1959.    (10) Theo The Chronicle of Gotama Buddha, Mingum Sayadaw.   (11) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd, tr. 3781.   (12) Theo Phật học từ điển, Đoàn Trung Còn, Nxb.Tổng hợp TP.HCM, tr. 628-629.   (13) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd, tr. 2098.   (14) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd, tr. 539.   (15)
 Theo Classical Dictionary of Hindu mythology and religion, geography, 
history and literature, John Dowson, M.R.A.S, Rupa.Co xb, 2004, tr. 194.   (16) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd, tr. 4008.   (17) Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd, tr. 540   (18) Theo Phật học từ điển, sđd, tr. 629         - Kinh Tăng Hộ   (20) Theo Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, Nhiều tác giả, Nxb.Tổng hợp Hậu Giang, 1988.  |