Điều
này diễn ra ngay trong quan hệ văn hóa Việt Nam – Nhật Bản, mặc dù có
nhiều cuộc tiếp xúc trao đổi, nhưng vẫn chưa vào việc và quá ít sự kiện
văn hóa để người dân hai nước có thể hiểu nhau hơn. Đương nhiên, người
dân Việt Nam nói chung khó có điều kiện sang tận nước Nhật để thăm quan
các hoạt động văn hóa, mặc dù số người Việt sang Nhật du học và làm ăn
ngày càng tăng lên, nhưng phần đông trong số đó, đi đi về về, mà không
để lại thông tin gì.
Cũng như quan hệ với phương Tây, người Việt
khá đông đảo ở Mỹ, Pháp, Đức, Anh và nhiều nước Đông Âu, ngoài làm ăn,
đi học, chúng ta thấy rất ít những bài báo của họ giới thiệu về văn hóa
nghệ thuật những đất nước ấy, tuy nhiên số lượng bài viết, thông tin ảnh
chụp có thể nói hơn hẳn thông tin về nước Nhật. Hiện đã có một số thanh
niên và nghệ sỹ dịch thường xuyên tin tức nghệ thuật phương Tây đăng
trên các trang mạng Nhà nước và cá nhân.
Xu hướng một chiều vẫn
là chính. Nghĩa là người nước ngoài rất ít biết về văn hóa Việt Nam,
ngoài thông tin chính thức trong nước, mà phần lớn bằng tiếng Việt. Rất
ít các hoạt động văn hóa đưa ra nước ngoài bằng kinh phí của chính người
Việt. Hầu hết các triển lãm nghệ thuật (hội họa và sắp đặt) Việt Nam ra
ngoài bằng kinh phí của đối tác. Không chủ động về kinh phí, chúng ta
cũng không chủ động về nội dung văn hóa.
Tam quan Đông Đại tự |
Toba Mika là họa sỹ Nhật đến vẽ ở Việt Nam từ những năm
2000, đến năm 2003 và 2005, chị đã có triển lãm ở Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh và Huế. Chị không phải là họa sỹ nước ngoài đầu tiên hay duy nhất
đến vẽ tại nước ta, nhưng là họa sỹ Nhật hiếm hoi làm việc đó với tình
cảm rất sâu sắc về đất nước và con người Việt Nam. Cuộc triển lãm tháng
12 này ở Hà Nội được người Nhật chuẩn bị chu đáo, do một ủy ban tổ chức
tự nguyện, đứng đầu là nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản. Trước
tiên, trong tháng 10/2010, triển lãm được tổ chức tại chùa Dược Sư
(Yakushiji) thuộc TP Nara, nhân kỷ niệm 1.300 năm kinh đô cổ này, sự
kiện cũng quan trọng như Đại lễ 1.000 năm Thăng Long, sau đó những bức
tranh sẽ sang Hà Nội, phần lớn trong đó vẽ về Việt Nam.
Tôi được
mời sang Nhật trong chuyến này cùng với cô Giang, người đã học đại học
và tiến sỹ ở Nhật tới 7 năm, anh Hòa người nhiều năm làm cho các công ty
Nhật. Chúng tôi đi thăm quan Nara, dự triển lãm của Toba Mika, dự hội
thảo giao lưu văn hóa Việt – Nhật và thăm Kyoto. Đây chỉ là một thoáng
và một vùng nước Nhật nhưng với tôi là một ấn tượng sâu sắc.
Nara
được chọn làm kinh đô nước Nhật năm 710 và kéo đến năm 794, còn gọi là
thời Nại Lương (Nara). Thời kỳ đó cứ một vị hoàng đế qua đời thì người
ta lại tiến hành thiên đô, nên thường kinh đô tồn tại rất ngắn do di
chuyển liên tục. Trước thế kỷ 6, khi đạo Phật chưa du nhập Nhật Bản, đền
thờ Thần đạo (Shinto) là kiến trúc phổ biến với những cột chôn thẳng
xuống đất, sau đó các chùa thờ Phật đặt cột lên những thạch tảng và có
thể đưa đền thờ Thần đạo nép vào bên ngôi chùa.
Tháp ở chùa Dược Sư |
Tượng Phật chùa Dược Sư |
Chùa Nhật Bản ban đầu được các tăng lữ và thợ Triều Tiên
giúp đỡ, nó thường là một khu vực có hồi lang tứ phía gần như vuông,
qua cổng nhỏ, cổng chính, là tháp cao ba hoặc năm tầng, rồi thẳng trục
với chính điện, phía sau là các hậu đường, nhà chép kinh. Trong quá
trình phát triển, các tháp được đặt sang bên hông chính điện, và có thể
có hai tháp Đông – Tây đối xứng hai bên chính điện.
Ngôi chùa cổ
nhất được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới đầu tiên của Nhật
là chùa Horyuji (Pháp Long tự), do Thái tử Shotoku xây dựng năm 607,
năm 670 bị cháy và xây dựng lại, là kiểu mẫu chùa chiền thời Nại Lương,
có tháp bên hông chùa và hồi lang bao bọc. Kiến trúc Phật giáo ngay từ
đầu đã chú trọng một khung cảnh rộng rãi ngay ngắn, khoảng cách giữa các
công trình rất xa, nổi bật bởi chiều cao của tháp luôn được làm mái
kép, nên ba tầng mà trông như năm sáu tầng, và sự đồ sộ của chính điện
độc lập trên mặt bằng rộng. Cây cối cũng được trồng thưa thớt trong sân
chùa và được tỉa cẩn thận hằng ngày, nên tính súc tích và tương phản là
nét nổi bật, có lẽ ngay từ thời cổ xưa đó.
Đông Đại tự (Todaiji)
là trung tâm của Phật giáo Quốc gia thời Nara và tiêu biểu cho kiến trúc
Phật giáo của hệ thống tu viện tăng và ni lúc đó. Hoàng đế Shomu cho
lập ngôi chùa này, với 1.665.000 ngày công, huy động 10% dân chúng xây
dựng. Năm 752, hơn mười nghìn tăng sỹ và chức sắc từ Ba Tư đến Ấn Độ, và
Đông Á đến dự lễ khai nhãn tượng Phật cao 17m. Người Nhật đã cử người
sang nhà Đường, Trung Quốc, học hỏi lại cho nguyên bản những gì mà người
Triều Tiên truyền cho về nhiều kỹ thuật, nhất là nghệ thuật Phật giáo,
sau đó đến thế kỷ 9, họ ngừng các cuộc Di Đường sứ, do cho rằng văn hóa
nhà Đường đã suy vong.
Buổi tối, chúng tôi tạt vào một ngôi chùa
Tịnh Giáo, nơi cô Giang thăm phần vong linh gia đình một người bạn đặt
trong chùa. Sư trụ trì ra ân cần mời chúng tôi vào. Họ đang giảng kinh
cho vài tăng trẻ. Sư nói đã truyền ngôi trụ trì cho vị sư trung niên,
cũng là con rể của ông. Hóa ra ở Nhật, các vị sư tăng ni được lập gia
đình và phần lớn các ngôi chùa thuộc về các dòng họ và giáo phái, được
quản lý tư nhân rất chặt chẽ. Tôi viết cho nhà sư hai bức thư pháp là
Thỏ giác Quy mao (sừng thỏ, lông rùa) và Tùng phong Thủy nguyệt (gió
trên cành tùng, trăng dưới đáy nước) – ý của những chữ này là chớ nên
bám theo những điều hư ảo. Sư rất cảm động, tặng lại chúng tôi cuốn Từ
điển Tượng Phật Nhật Bản rất quý và hình Đức Phật thờ trong chùa. Nếu
nói rằng các sư mà lấy vợ sinh con chắc rất lạ với Phật giáo Việt Nam.
Nhưng tôi thấy họ rất nghiêm trang, có trình độ thâm tuệ, họ cho rằng,
người tu hành không biết nỗi sướng khổ ở đời thì giáo hóa cho ai, cho
nên cũng cần sống như người thường.
Chính điện chùa Dược Sư |
Thực ra trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản, các vị sư đã
ngầm lấy vợ, nên ngay từ thế kỷ 8 đã có những kiện cáo, sau khi vị sư
mất đi tài sản chia cho ai, cho đệ tử hay vợ con, thậm chí có vài ba bà
vợ. Đến năm 1872, một đạo luật chính thức được Chính phủ Minh Trị ban bố
cho phép tăng ni không nhất thiết ăn chay, có thể để tóc và lập gia
đình. Tất nhiên có những phản ứng xã hội rất ghê gớm không đồng tình với
đạo luật, nên đến năm sau 1873, thì sư ni mới được thực hiện những
quyền lợi đó. Trong các ngôi chùa lớn đều có khu biệt thự rất đẹp dành
cho các cao tăng có gia đình. Trong cuộc hội thảo giao lưu văn hóa Việt
Nhật, tôi thấy vợ sư trụ trì chùa Dược Sư mặc toàn đồ màu xanh, áo váy
xanh, mũ xanh, giày xanh, thậm chí nhẫn và hoa tai cũng xanh. Bà đi lại
như hoàng hậu trong chùa và tươi cười nói rằng thế mới ra chính mình.
Ở
Nara, chùa chiền là một trung tâm văn hóa, chắc ở Nhật nói chung cũng
như vậy. Thực ra trước thời Minh Trị, nó còn là một trung tâm quyền lực
chính trị. Trong chùa ngoài khu thờ tự, thiền viện, chung cư, vườn
thiền, còn có cả thư viện, bảo tàng, phòng hòa nhạc, phòng triển lãm
tranh (nếu cần) và hội trường tổ chức hội thảo học thuật. Vé vào chùa
không rẻ, chừng 800 Yên (JPY) vào chùa Dược Sư, nhưng số lượng khách
không ít, đi lại nườm nượp cả ngày. Người Nhật có sở thích là đi ngắm
tượng Phật đẹp, trước tiên coi đó là tác phẩm nghệ thuật. Nên nếu chùa
nào có tượng Phật độc đáo có thể đem đi triển lãm du ngoạn toàn quốc,
người ta vẫn hay làm như vậy và lấy tiền thu được trùng tu chùa.
Triển lãm của họa sỹ Toba Mika tại chùa Dược Sư |
Ở Nhật các công trình trùng tu được tiến hành rất lâu,
từng chi tiết đều có tổ nghiên cứu, bao giờ thống nhất mới đem ra làm,
riêng tòa cung điện ở Bình Thành Nara người ta đã mất 20 năm để phục
dựng. Chùa Hưng Phúc (Kofukuji) có pho tượng Atula ba đầu sáu tay thật
là một tác phẩm có linh hồn được người xem đông đảo hơn cả và pho tượng
này cũng được đem đi trưng bày trong nước. Họa sỹ Toba Mika từng đề xuất
với Bộ Văn hóa Nhật mượn pho tượng Phật bà Nghìn mắt nghìn tay chùa Bút
Tháp về trưng bày tại chùa Dược Sư. Vấn đề này nước ta chưa có tiền lệ,
nên chưa thể thực hiện, nhưng các sư tăng và người Nhật vẫn muốn nguyện
vọng đó trong một tương lai, cũng là dịp quảng bá cho văn hóa Việt Nam.
Kinh đô cổ Nara cũng như Kyoto sau này, phảng phất cái gì đó như
kinh thành Huế. Quy hoạch thành phố rất rõ ràng như thành Tràng An nhà
Đường, với những đường ô bàn cờ hai bên chính đạo, nhà cửa thì thấp bé
và đường đi rất hẹp, có lẽ cho lọt một cỗ xe ngựa, ngày nay thì một
chiếc ô tô 4 chỗ đi vừa. Đường phân ô bàn cờ này ở Nhật gọi Điều và
Phường, các địa danh hiện đại vẫn giữ nguyên tên theo các tuyến điều
phường như vậy, đôi khi là đánh số.
Họa sỹ Toba Mika và Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Nguyễn Phú Bình (thứ tư, từ trái sang) cùng những người bạn |
Văn hóa giao thông ở Nhật có thể nói không chê vào đâu,
những con phố nhỏ như vậy người ta vẫn cho đi hai chiều, khi một chiếc
xe thấy xe đối đầu lập tức đi giật lùi hoặc tấp vào một hiên nhà, chưa
bao giờ bị tắc. Ngoài đường ông bà già và trẻ con đi nhan nhản, xe cộ
lại phải đúng giờ từng phút, thế nên người ta vừa cẩn thận, nhường nhịn,
vừa khẩn trương. Các tuyến tàu cũng vậy, chắn soát vé tự động, và dường
như không đặt thanh gạt, nhưng không ai trốn vé, nếu đi quá tiền bạn
mua vé, người ta ra máy tính xem lại và trả thêm. Người lớn chính là tấm
gương của trẻ con, khi chúng cùng đi với bạn ra đường, nên không thể
nhăng nhít. Là người sống lâu năm ở Nhật, cô Giang có nhiều người bạn và
họ giúp đỡ chúng tôi tận tình. Người Nhật coi trọng tình bạn, vì đó là
mối giao thiệp hằng ngày cần thiết cho một xã hội thương mại hiện đại,
sự trung thành của tình bạn được đặt lên hàng đầu và khi đã có một người
bạn người ta gìn giữ tình cảm ấy suốt đời, cũng như nhiệt tình từng
giây phút.
Tôi cũng bất ngờ vì nội dung cuộc hội thảo không được
biết trước. Khi đến nơi đã có đủ quan chức và giới doanh nhân, họ là
những người quan tâm đến thương mại với Việt Nam và tài trợ cho nữ họa
sỹ. Tất cả đều ăn mặc rất trịnh trọng. Có ông Thống đốc Nara và Đại sứ
Việt Nam tại Nhật Bản, Nguyễn Phú Bình tới dự. Vài người Việt lọt vào
đây ngơ ngác như mấy con nai trước bầy sư tử. Chủ tọa gồm sư trụ trì
chùa Dược Sư, cô Toba Mika, cô Giang và vài người khác. Đặc biệt là sư
trụ trì phê bình rất thẳng thắn về các vấn đề văn hóa nghệ thuật với cô
Toba Mika, họ cũng hỏi tôi về cảm nhận của người Việt Nam về tranh của
cô. Tôi phát biểu rằng những năm 1941 -1943, giữa Nhật và Việt Nam đã có
hai cuộc trao đổi triển lãm hội họa hai bên, và thẳng từ đó đến Toba
Mika dường như là lần thứ hai. Dường như hai bên chỉ biết văn hóa của
nhau qua sách vở hạn chế, chứ rất ít thực tế, sự hiểu biết về văn hóa
của nhau sẽ tốt hơn việc làm ăn giữa Nhật và Việt Nam. Đó là một thực
tế, ví dụ như ba họa sỹ Utamaro, Hirosighe, Hokhusai rất nổi tiếng ở
Việt Nam, nhưng chúng ta có ai trông thấy một bản khắc gỗ thật nào của
họ.
Tháng 11 ngọt ngào, tranh bình phong khổ lớn - Toba Mika |
Toba Mika (sinh năm 1961) đến Việt Nam những năm 2000,
khi cô đã đi qua một loạt nước Nam Á và có vẻ bế tắc khi vẽ ở Nhật. Con
người và đất nước Việt Nam dường như dồn vào mắt cô đến tràn ngập những
hình ảnh về cuộc sống sôi động, nhiều trái ngược, nhiều lý thú, điều mà ở
một xã hội đã phát triển như Nhật Bản không còn nữa. Toba Mika đã thành
công khi vẽ ở Việt Nam và về Việt Nam, và đó cũng là điều nhiều người
Nhật nghi ngại rằng sao họa sỹ không đạt được cái đó ở Nhật. Tất nhiên
người Nhật có tầm cỡ thế giới không thắc mắc về một nghệ sỹ của mình tại
sao lại thành công với các đề tài nước ngoài. Nghệ thuật ở những mảnh
đất phát triển không thắc mắc về tính dân tộc một cách thái quá.
Năm
2003 và 2005, cô triển lãm tại Hà Nội, Huế và TP. Hồ Chí Minh, những
tranh in lụa khổ lớn, hầu hết là các phong cảnh sinh hoạt sông nước, đô
thị trong sự tương phản giàu nghèo, những tháp Chàm thâm nghiêm ở Mỹ
Sơn, những đường tàu đi vào phố ở Hà Nội. Không chỉ người dân mà nhiều
họa sỹ Việt Nam thích thú tác phẩm của Toba Mika cả ở những gì cô vẽ và
kỹ thuật in Katazome mới mẻ đối với người Việt Nam (nhưng thực ra lối in
này phát triển từ kỹ thuật của thời Đường ở Trung Quốc truyền sang Nhật
Bản).
Thông điệp từ Hà Nội - Toba Mika |
Nghệ thuật Việt Nam thường có xu hướng thơ mộng hóa hiện
thực, tránh những gay cấn. Đối với những họa sỹ trẻ xông xáo lại thường
bộc lộ sự châm biếm gay gắt, hay toàn nhìn thấy góc tăm tối. Toba Mika
không đi vào cả hai điều này. Cô chụp ảnh, xử lý trên đồ họa vi tính,
chuyển sang trổ khuôn, khắc và in trên lụa những cảnh vật đã được quan
sát rất kỹ sao cho bộc lộ rõ đời sống thực tại của người Việt. Sức ép
của gia tăng dân số và chênh lệch giàu nghèo được phản ánh trong cảnh
những ngôi nhà ổ chuột ven sông Sài Gòn bên cạnh những nhà cao tầng đang
vươn mãi. Những xóm chài rất nên thơ nhưng cũng rất tối tăm ven sông,
biển và một Hà Nội vừa cổ kính, vừa lộn xộn trong sự phát triển chóng
mặt và cái gì người ta cũng có khả năng thích ứng. Sự quan sát tinh tế
và óc phân tích của họa sỹ làm người Việt Nam ngạc nhiên, rồi mới đến vẻ
thơ mộng mà Toba Mika truyền cảm trên tranh in lụa, một vẻ thơ mộng đầy
chất Nhật Bản, từ rất xa xưa với các tranh bình phong khổ lớn.
Rất
ít họa sỹ nước ngoài vẽ ở Việt Nam được chú ý và giới thiệu trên nhiều
báo chí như Toba Mika. Đó là một cử chỉ đặc biệt của khán giả Việt Nam,
khi họ nhận thấy một người nước ngoài có con mắt rất trìu mến đối với
cảnh vật nước mình. Có thể nói tranh của Toba Mika cho chúng ta thấy
những mâu thuẫn trong sự đi lên hiện đại và những bất cập của đổi thay
trong xã hội kinh tế thị trường, những điều mà nước Nhật đã từng trải
qua và chắc chắn có những bài học cay đắng, mà chúng ta chưa từng được
nếm. Một lo lắng những cảnh vật đẹp đẽ tự nhiên sẽ mất đi như nước Nhật
từng có khi công nghiệp hóa.
Thông điệp - Toba Mika |
Tính cộng đồng và ý thức công dân cao đã làm cho nước
Nhật giải quyết tốt các phúc lợi xã hội và những công trình lớn có tính
quốc tế, và ở đây ý thức công dân rất lạ là lại được phát triển trên
tinh thần tôn quân Khổng giáo. Ngược lại, Khổng giáo lại là bước cản đến
với tinh thần công dân của người Việt, ý thức cộng đồng ngoài chiến
tranh là không cao, dẫn đến những thất thoát các phúc lợi và đầu tư xã
hội khi bước đầu vào kinh tế thị trường. Đây là những vướng mắc của hai
nền văn hóa và kinh tế khác nhau, dù có những tích cực trong thương mại
và đầu tư.
Sự ngay ngắn của xã hội công nghiệp Nhật Bản có thể
làm cho họa sỹ không cảm nhận được tính tự nhiên của đời sống nữa, và
ngay cả những chùa chiền cảnh vật xa xưa của Nhật cũng được chăm sóc tỉa
tót không thể thêm bớt. Các họa sỹ hiện đại mất cảm hứng trong thành
phố công nghiệp, lối sống công nghiệp là tình trạng chung dẫn đến sự
phát triển của nghệ thuật trừu tượng hay phản ứng với xã hội công
nghiệp. Hướng đến một đất nước còn đang trên con đường này là Việt Nam
cũng là hợp lý với Toba Mika. Tất nhiên hiện thực không có lỗi, nếu họa
sỹ không cảm nhận được hiện thực thì đấy là do anh ta, nhưng có lẽ Toba
Mika nhìn thấy những bất cập khác của sự hoàn chỉnh công nghiệp, con
người dễ biến thành một cái máy phục vụ cho công nghiệp chứ không phục
vụ cho chính nó. Người Việt Nam chưa đạt đến những mong ước phát triển
nên còn rất nhiều cơ hội và chệch choạc do tính cách nông dân của họ,
chất thơ vì thế không thiếu, cũng như ước vọng cũng không ít.
Tranh
của Toba Mika trong chùa Dược Sư được bày ở rất nhiều nơi. Ở một đền
thờ bên hông hành lang, ở hai bên chính điện thờ Phật, hai bên hậu đường
và tập trung trong các tủ kính lớn của phòng triển lãm. Một ngôi chùa
cổ trang nghiêm cho phép họa sỹ làm điều đó là rất đặc biệt, người xem
cũng là những Phật tử họ tự thấy họa sỹ này có tư thế ra sao trong nền
văn hóa trọng Phật giáo của Nhật Bản. Tất cả những bức tranh được in khổ
lớn và bồi thành những tấm bình phong đơn hay nhiều tấm kiểu bình phong
trang trí và tường trong kiến trúc Nhật cổ truyền. Các sắc độ được in
tinh nhã, màu sắc xanh và hồng chuyển rất nhiều sắc độ, cảnh vật chồng
tầng chìm nổi trong không gian đôi khi hư ảo, sương khói và không rõ các
biên giới cảnh vật.
Những ngày ở Nara tôi không quên đi dạo các
phố cổ và đồng quê. Tôi nhận thấy diện tích bằng huyện ở nước ta, có số
ruộng chỉ bằng một xã, nghĩa là đồng ruộng ở Nhật rất ít và nhỏ bé,
không hề có chỗ nào được gọi là thẳng cánh cò bay. Thế nhưng chỉ trồng
một vụ, năng suất lúa khá cao và được tiêu chuẩn hóa tới mức, đổ gạo vào
nồi, với một lượng nước nhất định, tất cả gạo các nơi đều chín như
nhau. Người ta cho biết nông sản không đáp ứng được tiểu chuẩn kỹ thuật
và tiêu dùng không được đưa ra thị trường.
Do đang làm cuốn sách
về đời sống tiền công nghiệp ở Việt Nam, tôi tìm đến Bảo tàng Dân tộc
học Nara, tìm tài liệu so sánh. Bảo tàng này do những người nông dân
Nara tự lập ra và những người làm nghiên cứu ở đây tiếp chúng tôi rất
trọng thị, cho tôi nhiều tài liệu và tự do chụp ảnh trong bảo tàng. Hóa
ra khoa nghiên cứu này ở Nhật đã phát triển tới chi tiết. Ví dụ một nông
cụ được nghiên cứu trên các mặt: sự phát triển của chủng loại, sự phát
triển theo địa hình canh tác, theo thời đại và phối hợp với các nông cụ
khác. Đó là cái mà khoa nghiên cứu văn minh về nền nông nghiệp có thể
lâu đời hơn nông nghiệp nước Nhật như nước ta lại chưa làm tý gì.
Một
thoáng Kyoto cũng có nhiều gợi ý. Tại đây tôi gặp cô Kitayama Natsuki,
một cô gái Nhật từng học ở nước ta và thạo tiếng Việt, cô đang làm những
chương trình giúp đỡ trẻ em Việt Nam sinh sống tại Nhật quan tâm hơn về
văn hóa Việt Nam, và những bất cập trong một gia đình Việt kiều, mẹ nói
tiếng Việt, bố nói tiếng Anh, con nói tiếng Nhật và kết quả chẳng ai
nói chuyện với ai. Khu vực Lam Sơn (Arashiyama) phía Tây Kyoto sát vào
núi men theo một con sông, qua chiếc cầu Độ Nguyệt (Bến Trăng) hình như
đã được Hiroshige vẽ trong những bức cảnh từ Nara đến Kyoto rất thơ
mộng. Một thị trấn nhỏ lẩn trong rừng cây với nhiều am quán, biệt thự
của giới quý tộc cổ, nếu bạn bước chân vào và đi về thì gia nhân vẫn ra
ngoài đường tiễn bạn và đứng chào cho đến khi bạn khuất bóng.
Chúng
tôi thăm nhà của một thi nhân từ nhiều thế kỷ trước, ngôi nhà lợp bằng
rơm dày đến một thước, cổng thì lợp bằng vỏ cây thông, cảnh vật u tịch
như chỉ để làm thơ và rửa bụi trần. Vào một ngôi chùa mà hơn chục món ăn
đều làm bằng đậu phụ với bà chủ luôn biết trước ý khách và đi lại thoăn
thoắt trong chiếc Kimono chật. Nước Nhật luôn có song song những điều
mới nhất của nhân loại và những gì cổ kính mà chỉ họ mới có. Tôi nghe
nói nhiều cô gái Nhật không lấy chồng mà chỉ quan hệ tình dục một lần
trong cả đời cho biết. Tôi nghe nói chữ Nhật rất phức tạp, nào là kiểu
chữ Hán đọc theo âm Hán và âm Nhật khác nhau, lại có chữ Nhật cải biên
từ chữ Hán, chữ Nhật thuần túy gần giống chữ Phạn, thuộc được những loại
này đã chết người, lại phải dùng cho đúng Kính ngữ (tôn trọng người
trên) và Khiêm ngữ (nói về bản thân mình) mới có thể đi làm được ở các
công ty nội địa, ngoài những tác phong và trình độ chuyên môn khác. Một
nước Nhật rất khe khắt, một nước Nhật rất cổ kính và một nước Nhật rất
hiện đại, con người ở đó căng thẳng, mệt mỏi, tranh thủ ngủ trên tàu,
khi ra nước ngoài lâu thì về rất khó hòa hợp… rất hay và rất dở. Chưa
dám kết luận gì, chắc nên đến đây lần nữa.
Bài, ảnh: Phan Cẩm Thượng (Tia Sáng)