MỤC LỤC
Lời giới thiệu của người dịch
Vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ VIII tại đại học Na-lan-đà có một nhà sư
khác thường tên là Santideva, tác giả của một tập thơ được xem là một trong
những tác phẩm thượng thặng và sâu sắc nhất đã được trước tác trên dòng lịch sử
phát triển của Phật Giáo.
Santideva là pháp danh do các vị thầy ở đại học Na-lan-đà ban cho ông -
tiếng Phạn santi có nghĩa là an bình,
deva có nghĩa là thiên nhân – tiếng Hán
dịch là Tịch Thiên. Tập thơ của ông mang tựa đề là Bodhicaryâvatâra, Bodhi
có nghĩa là Giác Ngộ, caryâ là sự
luyện tập, vatâra là con đường bước
vào, tiếng Hán dịch là "Nhập Bồ-đề
hành luận", mà chúng ta có thể tạm dịch là "Hành trình đến Giác Ngộ".
Con người và tác
phẩm của Tịch Thiên mang đầy huyền thoại. Không có một tư liệu lịch sử chính
xác nào về tiểu sử của ông. Người ta chỉ biết rằng ông sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII hay đầu thế kỷ thứ VIII, và ngày mất
thì cũng không ai biết. Tục truyền ông là con của vua Kalyânavaraman. Ngày
còn nhỏ được một nhà tu khổ hạnh truyền
cho giáo pháp của Bồ-tát Văn Thù
(Mansjurhi), theo đó ông tu tập rất chuyên cần và đã đạt được Giác Ngộ. Khi vua
cha qua đời, ông nhất định không lên
ngôi kế vị và bỏ trốn vào Tu viện Đại học Na-lan-đà xin thụ giới tỳ-kheo. Đêm
đêm ông thức một mình và soạn được hai tập sách: Giản yếu về Giáo Huấn (Siksâmuccaya)
và Giản yếu về Kinh Điển (Sutrasâmuccaya). Tập thứ hai bằng tiếng
Phạn đã thất truyền, ngày nay chỉ còn lại bản dịch tiếng Hán. Cả tu viện không
ai hay biết gì về việc ông soạn thảo hai tập sách này, chẳng qua là vì ban ngày
ông ngủ li bì và chỉ thích viết lách một mình trong đêm tối. Cũng chính vì thế mà các vị thầy và cả các
bạn đồng tu đều xem ông là người lười biếng và ngu đần và gán cho ông biệt danh
là bhushuku, có nghĩa là "người chỉ biết ăn, ngủ và bài tiết".
Những người trong
tu viện có ý định muốn tống khứ ông nên đồng tình dựng lên một đàn thuyết giảng
còn gọi là ngai thuyết giảng, nhưng lại dựng rất cao và rất khó trèo lên. Theo
thông lệ, tước vị và uy tín của người thuyết giảng càng cao thì ngai thuyết
giảng cũng phải được dựng với chiều cao tương xứng. Sau khi đàn được dựng xong,
các người trong tu viện mời ông lên ngồi để thuyết giảng. Chưa dứt lời mời thì mọi
người hết sức kinh ngạc khi thấy ông đã ngồi chễm chệ trên ngai. Ông liền mở
lời hỏi cử tọa muốn ông giảng về một bài kinh quen thuộc hay mới lạ. Cử tọa yêu
cầu ông giảng những gì mới lạ xem sao. Ông bèn cất lời đọc lên tập thơ Hành trình đến Giác Ngộ (Bodhicaryâvatâra) mà mười ba thế kỷ sau
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã đem ra giảng lại cho những người Tây Phương hôm nay.
Khi Tịch Thiên
giảng đến chương IX và đúng vào lúc ông vừa thốt lên: "Khi không còn một thể dạng hiện-thực hay phi-hiện-thực nào hiện
ra trong tâm thức…", chưa kịp dứt câu thì mọi người bỗng thấy ông bay
vọt lên không trung và đứng lơ lửng bên cạnh Bồ-tát Văn Thù. Câu giảng trên đây
thuộc vào tiết 34 trong chương IX, và cũng là chương mà Đức Đạt-Lai Lạt-Ma sẽ
bình giảng cho chúng ta trong quyển sách này.
Mặc dù trên đàn
thuyết giảng lúc ấy đã trống không thế nhưng người ta vẫn tiếp tục nghe văng
vẳng tiếng của Tịch Thiên thuyết giảng cho đến hết chương X là chương cuối cùng
của tập thơ.
Sau đó vì muốn ghi
lại bài giảng của ông, nên mọi người trong tu viện Na-lan-đà đã họp nhau lại và
chia thành hai nhóm để cùng chép ra giấy những gì mà họ đã nhớ được. Nhóm thứ
nhất đưa ra một bản gồm 700 câu thơ, nhóm thứ hai thì lại chép thành một bản
gồm 1000 câu. Tu viện gửi người đi tìm ông khắp nơi. Họ tìm được ông và ngỏ ý
mời trở về chùa, thế nhưng ông nhất quyết khước từ và chỉ nhận duyệt xét lại
hai bản thảo. Ông cho rằng bản gồm 1000 câu gần với lời giảng của ông hơn. Sau
khi sửa chữa xong và chỉ chỗ cất dấu hai tập sách khác của ông trong chùa thì
ông lại lên đường tiếp tục cuộc sống của một người du-già phiêu bạt.
Kể từ đó không còn
ai biết ông ở đâu nữa. Lúc đầu người ta còn đồn rằng ông vẫn thường hay xuất
hiện khắp nơi để đấu lý với các vị thầy ngoài Phật Giáo và thực hiện nhiều phép
mầu để cứu giúp người hoạn nạn, thế nhưng dần dà về sau tiếng đồn cũng thưa dần
và không còn nghe ai nhắc đến ông nữa.
Nếu các sự kiện lịch sử có thể mang những sự thật nào đó thì huyền thoại
cũng có những sự thật của nó. Sự thật của một sự kiện lịch sử dù có thể chứng
nghiệm được đi nữa nhưng với thời gian cũng sẽ bị phai mờ đi và biết đâu một
ngày nào đó cũng sẽ rơi vào hố sâu của quên lãng, đấy là chưa nói đến trường
hợp mà sự thật của ngày hôm qua cũng có thể không còn là sự thật của ngày hôm
nay.
Sự thật của huyền thoại tuy khó để biện minh bởi vì sự thật ấy chỉ có thể
hiện hữu và sinh động trong trái tim của con người, thế nhưng thật cũng lạ là đôi
khi sự thật của huyền thoại lại có thể trường tồn qua không gian và thời gian. Những
bước chân âm thầm của một nhà sư phiêu bạt không hề lưu lại một mốc thời gian
nào trong lịch sử thế nhưng hình như vẫn còn vang động trong con tim của chúng
ta hôm nay. Những vần thơ tuyệt đẹp của ông vọng lại từ một đàn thuyết giảng
trống không ở đại học Na-lan-đà mười ba thế kỷ trước đã tan biến trong không
gian, thế nhưng dường như vẫn còn văng vẳng bên tai chúng ta mãi tận hôm nay.
Tập Hành trình đến Giác Ngộ gồm có tất cả là
mười chương và quyển sách này thì chỉ đặc biệt ghi chép lại những lời bình giải
của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về chương IX, và cũng là chương khúc triết và sâu sắc
nhất trong tác phẩm của Tịch Thiên.
Một bản dịch đầu
tiên của quyển sách này đã được nhà xuất bản Phương Đông ấn hành vào năm 2008. Trong
lần tái bản này phiên bản cũ đã được đọc lại và sửa chữa toàn bộ, thế nhưng người
dịch cũng không dám tự cho rằng mình có thể nắm bắt được hết những gì thâm sâu
và cao siêu trong các tiết thơ của Tịch Thiên và những lời giảng của Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma. Chẳng qua cũng vì tâm nguyện muốn được chia sẻ với người đọc một vài
hiểu biết nhỏ nhoi đã lĩnh hội được, nên người dịch đã liều lĩnh chuyển ngữ một
tác phẩm vượt xa hơn tầm với của mình. Dù lời dịch còn vụng về và sự hiểu biết
nông cạn của mình có thể làm sai lạc ý nghĩa sâu sắc trong nguyên tác của Tịch
Thiên cùng những lời thuyết giảng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, thế nhưng người dịch cũng
xin chắp tay hồi hướng công lao nhỏ nhoi này để cầu xin cho thế giới vô thường
của chúng ta vơi bớt hận thù và được hạnh phúc hơn, và cho hành tinh nhỏ bé này
một ngày nào đó sẽ trở thành mảnh đất của Trí Tuệ vô biên.
Người dịch cũng xin mạn phép ghép thêm một vài
lời ghi chú thẳng trong bản dịch hoặc đặt bên dưới các trang sách với hy vọng
giúp phần dịch thuật được sáng tỏ hơn. Những lời chú thích ghi thẳng trong bản
dịch được trình bày bằng chữ nghiêng và đặt trong hai dấu ngoặc.
Hoang Phong
10-04-2013
Lời tựa
của Thupten Jinpa (1)
Tác phẩm Hành trình đến Giác Ngộ của Tịch Thiên
do Đức Đạt-Lai Lạt-Ma bình giảng trong quyển sách này sẽ cho chúng ta thấy một
cách thật rõ rệt rằng toàn bộ giáo huấn của Đức Phật đều chỉ hướng vào một chủ
đích duy nhất là khuyên chúng ta phải nên trau dồi trí tuệ. Tuy chỉ là một lời
khuyên thế nhưng thật ra đấy lại là một thông điệp thiêng liêng nói lên cả một
sự hiểu biết thật thâm sâu, biểu trưng cho cốt lõi của toàn bộ tín ngưỡng Phật
Giáo. Mặc dù một số môn đệ sau này của Đức Phật có đưa ra một vài phương pháp tu
tập mang ít nhiều biến dạng, thế nhưng chúng ta cũng đừng quên là Đức Phật đã từng
dạy rằng việc tu tập bằng cách hành xác, cầu xin hay thực thi các nghi lễ cầu kỳ
không thể nào mang lại được Giác Ngộ hoàn hảo, mà phải phát huy và triển khai tâm
thức của chính mình. Chỉ khi nào ý thức được sự vướng mắc trong cõi luân hồi là
do vô minh tự tại nơi sự hiện hữu của chúng ta gây ra thì khi đó chúng ta mới
có thể nhận thấy được mục đích của mọi việc tu tập là phải xóa bỏ vô minh, và cũng
chỉ khi đó thì chúng ta mới ý thức được vai trò chủ yếu của trí tuệ.
Tác phẩm của Tịch
Thiên được trước tác vào khoảng thế kỷ thứ VIII và không lâu sau đó đã trở
thành một tài liệu học tập quan trọng nhằm giúp người bồ-tát đặt những bước chân
vững chắc trên con đường thật dài để đạt
được Phật Tính và sự Giác Ngộ hoàn hảo. Các chương I đến IV nêu lên các chủ đề như
sự Tỉnh Thức, Sám Hối, Ý Thức về sự Giác Ngộ và các cách Ứng Dụng về sự Ý Thức ấy,
nói chung đấy là các khía cạnh khác nhau của Bồ-đề-tâm (Bodhicitta). Năm chương
tiếp theo từ chương IV đến chương IX nêu lên các đức tính như sự Tinh Tấn, Nhẫn
Nhục, Kiên Trì, Thiền Định và sự Hiểu Biết Siêu Nhiên, đấy là bốn phẩm tính sau
cùng trong số Sáu Điều Hoàn Thiện (Lục Ba-la-mật). Toàn bộ chương X và cũng là chương kết của
tập thơ đã miêu tả thật xúc động lòng từ bi của người bồ-tát.
Ngay sau khi được phổ biến, tập Hành trình đến Giác Ngộ đã chinh phục
được quảng đại quần chúng trên đất Ấn và cả ở Tây Tạng. Bản dịch sang tiếng Tây
Tạng đã được thực hiện rất sớm từ thế kỷ thứ IX (và cũng đã được dịch sang tiếng Hán vào năm
985). Suốt trong nhiều thế kỷ sau đó tác phẩm này của Tịch Thiên đã trở thành một
"tập sách căn bản" ảnh hưởng sâu đậm đến hầu hết các tông phái lớn. Các
vị thầy lừng danh ở Ấn cũng như ở Tây Tạng thời bấy giờ đã không ngừng đưa ra những
lời bình giải thật sâu sắc.
Ảnh hưởng của tập sách đã vượt qua thời gian. Ngày nay khi thuyết giảng thì
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma vẫn thường trích dẫn nhiều đoạn trong tập thơ trường thiên
này. Ngài thường nói với mọi người rằng bốn câu thơ sau đây luôn mang lại cho
Ngài một nguồn hứng khởi vô biên và một nghị lực lớn lao:
Khi nào không gian còn tỏa rộng,
Khi nào chúng sinh vẫn còn đấy,
Thì tôi sẽ còn nguyện cầu được còn đây,
Để làm tan biến những khổ đau của thế gian này.
Những lời thuyết giảng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về chương IX trong tác phẩm
của Tịch Thiên được dựa vào hai cách bình giải quan trọng thuộc thế kỷ thứ XIX
đại diện cho hai học phái khác nhau. Cách bình giải thứ nhất thuộc trường phái
Ninh-mã (Nyingmapa) do Khentchen Kunzang Palden (2) nêu lên trong tập luận "Hương vị tuyệt vời trong những lời thuyết
giảng của Manjushri". Cách bình
giải thứ hai thuộc trường phái Cách-lỗ (Guélougpa) do Minyak Kunzang Seunam (3)
đưa ra trong tập luận "Ngọn đuốc
sáng ngời". Ngoài việc phân tích và bình giải trước tác của Tịch Thiên,
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma còn ghép thêm nhiều suy tư riêng của Ngài về Con Đường Đao Pháp
nói chung. Nhằm để tránh mọi sự lẫn lộn với các lời bình giải nên các suy tư này
của Ngài sẽ được trình bày riêng trong các phân đoạn mang tựa đề là "Sự hiểu biết siêu nhiên", và
đấy cũng là cách giúp người đọc theo dõi văn bản gốc của Tịch Thiên dễ dàng
hơn. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma sử dụng cả hai cách bình giải xưa của hai nhà sư Tây
Tạng trên đây, thế nhưng đồng thời Ngài cũng đưa ra các cách bình giải riêng
của Ngài nhằm giúp chúng ta có thể hiểu sâu hơn nữa một trong những tác phẩm giáo
huấn và triết học quan trọng nhất của Đại Thừa Phật Giáo.
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đưa ra những lời bình giải trên đây trong các buổi
thuyết giảng tại viện Vajra Yogini ở Pháp do "Hiệp Hội những người Phật
Giáo Tây Tạng tại Pháp" tổ chức vào tháng 11 năm 1993. Các buổi giảng này chỉ
là một phần của một chương trình thuyết giảng chung của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tại quốc
gia này. Các buổi thuyết giảng đầu tiên đã được tổ chức trước đó từ tháng 8 năm
1991 trong vùng Dordogne, nhằm giải thích tám chương đầu của tập Hành trình đến Giác Ngộ. Quyển sách này ghi
lại những lời bình giải của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, tuy thật thâm sâu và trong sáng
nhưng không kém phần xúc động và không vượt quá xa tầm với của tất cả mọi người,
về một trong những tác phẩm cổ điển có thể nói là tuyệt vời nhất của Phật Giáo.
Thupten Jinpa
Montréal, 2004
1
Dẫn nhập
Phát huy lòng quyết tâm tinh
khiết
Suốt trong quyển
sách này, với tư cách một người thầy tinh thần và vì lợi ích của chính quý vị
là những người đọc quyển sách này, tôi sẽ cố gắng phát huy trong tôi lòng quyết
tâm tinh khiết nhất mà tôi có thể thực hiện được. Về phần quý vị cũng thế, hãy
đến với những lời giảng huấn này với tất cả thiện cảm và một tâm ý tích cực.
Thiết nghĩ đấy là những gì thật cần thiết.
Đối với các độc giả
là Phật tử trung kiên luôn mang hoài bão đạt được sự Giác Ngộ tối thượng, thì
điều hết sức hệ trọng là phải cố gắng tự biến cải lấy mình để trở thành những
con người thiện cảm và nhiệt tình. Điều ấy sẽ mang lại ý nghĩa cho những cố
gắng của quý vị và giúp quý vị tích lũy được những điều xứng đáng hầu tạo ra
một sức mạnh tích cực chung quanh quý vị. Vì thế trong lúc chuẩn bị để đọc
quyển sách này, xin quý vị hãy hướng về Tam Bảo (Đức Phật, Đạo
Pháp và Tăng Đoàn) để
biểu lộ một lần nữa lòng quyết tâm thương người của quý vị và tâm nguyện của
quý vị mong sao đạt được sự Giác Ngộ hoàn hảo hầu giúp mình có thể mang lại sự
an lành cho tất cả chúng sinh. Tu tập Phật Giáo mà không quy y thì sẽ không hội
đủ được ý nghĩa của nó. Không phát động lòng thương người hầu giúp mình đạt
được thể dạng của Phật để mang lại an vui cho chúng sinh thì dù có cố gắng cách
mấy đi nữa, quý vị cũng sẽ không thể nào xứng đáng là một môn đệ Đại Thừa.
Nếu có độc giả nào
không phải là người Phật Giáo thuần thành thì cũng nên quan tâm hơn đến Phật
Giáo. Nếu quý vị là người theo một tôn giáo khác, như Thiên Chúa Giáo chẳng hạn
thì điều đó cũng không phải là một lý do ngăn cấm mình cảm thấy rằng một vài
khía cạnh lợi ích nào đó trong các phương pháp và các phép luyện tập của Phật
Giáo (ý nói đến việc thiền định) có thể giúp biến cải được tâm linh mình.
Nếu đấy là trường hợp của quý vị thì cũng xin quý vị nên cố gắng giữ một thái
độ cởi mở và một mối quan tâm tích cực hơn khi đọc quyển sách này. Nếu xét thấy
có một vài phương pháp hay phép luyện tập nào có thể ghép thêm vào nếp sống tâm
linh của mình thì thiết nghĩ quý vị cũng không nên e ngại mà mang ra áp dụng.
Tóm lại nếu không thực hiện được những điều tối thiểu trên đây thì tốt nhất là
xin quý vị đừng bận tâm mà hãy xếp quyển sách này lại.
Riêng về phần tôi thì tôi cũng đơn giản chỉ là một nhà sư Phật Giáo với một
lòng kính phục và ngưỡng mộ sâu xa đối với những lời giáo huấn của Đức Phật,
cũng như đối với tất cả những ai biết hành xử với lòng từ bi và thấu hiểu được
bản chất sâu xa của hiện thực là gì. Mặc dù với tư cách một người đại diện đứng
ra để nói lên những lời giáo huấn tâm linh vô cùng phong phú đó, thế nhưng
không phải vì thế mà tôi dám phát lộ một mảy may kiêu hãnh nào. Dầu sao đi nữa
thì ít nhất tôi cũng phải cố gắng làm những gì có thể làm được để đảm nhận
trọng trách của lịch sử đặt lên vai tôi trong công tác chia sẻ với đông đảo mọi
người những lời bình giải cá nhân của tôi về những lời giáo huấn trên đây.
Tất nhiên là trong số quý vị
cũng có nhiều người mang hoài bão mong muốn biến cải được tâm linh của mình. Vì
thế người đứng ra thuyết giảng cũng cần phải thấu triệt các chủ đề mà mình sẽ
thuyết giảng, thế nhưng đối với riêng tôi thì tôi cũng không dám tự phụ cho
rằng mình có thể hiểu biết đầy đủ và trọn vẹn các chủ đề mà chúng ta sẽ bàn
thảo với nhau hôm nay. Dầu sao đi nữa thì tác phẩm mà chúng ta cùng nhau nghiên
cứu nhất thiết sẽ liên hệ đến chủ thuyết Tánh Không, một chủ thuyết mà tôi
ngưỡng mộ thật sâu xa, và có thể nói đấy là cả một sự ràng buộc tình cảm nữa.
Thật thế mỗi khi có chút thì giờ rảnh rỗi thì tôi suy tư ngay về chủ thuyết đó.
Theo kinh nghiệm hạn hẹp của tôi - hay ít ra thì tôi cũng tự cho phép mình tin
là đã đạt được những kinh nghiệm ấy - thì chủ thuyết Tánh Không là một triết
thuyết vô cùng sinh động. Thật vậy một khi thấu triệt được triết thuyết ấy thì
nhất định nó cũng sẽ mang lại cho chúng ta thật nhiều hiệu quả. Có thể đây cũng
là điều duy nhất mà tôi tự cho phép nghĩ rằng tôi có thể hiểu được hầu giúp
mình căn cứ vào đấy để thuyết giảng về tác phẩm của Tịch Thiên.
Lý
trí và đức tin
Nếu quý
vị thật sự muốn tìm hiểu Phật Giáo và quyết tâm bước vào con đường tu tập tâm
linh hầu giúp mình thừa hưởng được cái kho tàng phong phú tàng ẩn trong những
lời giáo huấn của Đức Phật, hoặc nếu quý vị chỉ mới bắt đầu chú ý đến tín
ngưỡng này, thì trong cả hai trường hợp cũng xin quý vị đừng để cho mình bị
choáng ngợp vì đức tin đơn thuần - không nên xem đức tin là "vốn
liếng" duy nhất. Nếu cứ để cho mình hoàn toàn bị chi phối bởi đức tin thì
quý vị sẽ có thể gặp phải nguy cơ đánh mất hết khả năng lý luận của mình. Đối
tượng của đức tin và lòng mộ đạo phải được xác nhận bằng kinh nghiệm bản thân,
tức là có nghĩa bằng các khả năng lý luận. Chỉ khi nào sự suy xét của quý vị
mang lại những hiểu biết có thể chứng nghiệm được một cách minh bạch thì khi ấy
đức tin của quý vị mới có thể gọi là vẹn toàn được. Khi nào đức tin hay sự tin
tưởng được phát huy dựa vào lý trí thì chỉ khi đó nó mới có thể trở nên vững
bền và mang lại hiệu quả. Thật vậy nếu không sử dụng đến lý trí thì cũng chẳng
còn biết phải dựa vào một cơ sở nào khác vững chắc hơn để có thể phát động lòng
tin nơi những lời giáo huấn của Đức Phật.
Thật hết sức quan trọng là chúng
ta phải luôn cố gắng học hỏi thêm hầu mở rộng sự hiểu biết cá nhân của mình về
những lời giảng huấn của Đức Phật. Long Thụ (4), một vị đại sư người Ấn thuộc
thế kỷ thứ II đã nói rằng đức tin và trí thông minh cả hai đều là những yếu tố
tối cần trong việc phát huy sức mạnh tâm linh, tuy đức tin phải giữ một vai trò
trội hơn. Thế nhưng đồng thời thì Long Thụ cũng lại xác nhận thật rõ ràng rằng
đức tin chỉ có thể hội đủ khả năng hướng dẫn sự thăng tiến tâm linh nếu được hỗ
trợ bởi trí thông minh, vì chính trí thông minh sẽ mang lại cho chúng ta khả
năng nhận biết được con đường đúng đắn hầu giúp mình phát huy được sự hiểu biết
sâu xa. Dầu sao đi nữa thì cũng không thể giới hạn sự quán thấy ở cấp bậc hiểu
biết mang tính cách trí thức được; bởi vì sự quán thấy nhất thiết phải thâm
nhập vào con tim và cả tâm trí mình hầu tạo ra những tác động có thể ảnh hưởng
đến cách hành xử của chính mình. Nói một cách khác là nếu chỉ biết nghiên cứu
Phật Giáo trên mặt trí thức đơn thuần thì chúng ta cũng sẽ chẳng mang lại được
cho mình một biến cải nào trong cách hành xử cũng như phong cách sống của chính
mình.
Văn bản cội nguồn
Phật Giáo
Tây Tạng gọi các kinh điển su-tra và tan-tra ghi chép những lời thuyết giảng
của Đức Phật là các "văn bản cội nguồn". Ngoài số văn bản này ra còn
có cả một kho tàng kinh sách mênh mông gọi là Tengyour gồm các tập luận do các
học giả lỗi lạc người Ấn trước tác và hàng ngàn tập bình giải do các đại sư Tây
Tạng thuộc bốn trường phái Phật Giáo biên soạn. Tài liệu mà chúng ta sẽ mang ra
bàn thảo là chương IX của một tác phẩm mang tựa đề Hành trình đến Giác Ngộ (Bodhicaryâvatâra)
do một vị đại sư người Ấn là Tịch Thiên trước tác vào thế kỷ thứ VIII. Tựa của
chương IX này là Sự hiểu biết siêu nhiên.
Tôi được thụ giáo
về tác phẩm này qua ngài Khounou Rinpoché - Tenzin Gyalsen, một vị thầy tâm
linh và cũng là một vị đại thiền sư đã quá vãng. Vị này tu tập bằng cách phát
huy tâm linh tỉnh thức dựa vào trước tác của Tịch Thiên, và chính vị này cũng
đã được thụ giáo với một vị đại sư lừng danh khác là Djé Patrul Rinpoché.
Tôi sẽ thuyết giảng về tập Hành trình
đến Giác Ngộ dựa vào hai cách bình giải trong các kinh sách Tangyour trên
đây. Cách thứ nhất do Khentchen Kunzang Palden bình giải bằng cách sử dụng các
thuật ngữ đặc thù của học phái Ninh-mã (Nyingmapa) và cách thứ hai là do Myniak
Kunzang Seunam bình giải. Tuy vị này là học trò của Patrul Rinpoché nhưng lại
đứng về phía học phái Cách-lỗ (Guélougpa) (5) và đã bình giải bằng cách sử dụng
các thuật ngữ chuyên biệt của học phái này. Trong phần thuyết trình dưới đây
tôi cũng sẽ nêu rõ sự khác biệt giữa cách bình giải của hai vị học giả trên
đây.
2
Bối cảnh Phật Giáo
Khung
cảnh lịch sử
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tức là vị Phật lịch sử
sống ở Ấn độ vào khoảng hơn 2500 năm về trước. Ngài giảng dạy về các phương
pháp và các phép luyện tập nhằm giúp người nghe biến cải tâm linh của họ tùy
theo năng khiếu, xu hướng và tâm linh của chính mình.
Từ những lời giảng huấn đó một tín ngưỡng thật phong
phú mang nhiều nét triết học đã được hình thành và đã được các dòng đại sư
người Ấn - trong số họ có thể kể ra Long Thụ và Vô Trước (6) - tiếp tục bảo trì
và khai triển thêm. Tín ngưỡng này đã đạt đến mức phát triển thật cao trên đất
Ấn trước khi được truyền bá sang các quốc gia khác ở Á Châu. Ở Tây Tạng thì
Phật Giáo chỉ bắt đầu phát triển từ thế kỷ thứ VII và thứ VIII. Nhiều nhân vật
lịch sử đã góp phần vào công trình này, trong số đó có thể kể ra Shantarakshita
(7), Padmasambhava (8) và một quốc vương thời bấy giờ là Trisongdetsen (9). Kể
từ đó Phật Giáo phát triển cực kỳ nhanh chóng tại Tây Tạng. Tương tự như trên
đất Ấn, nhiều dòng đại sư Tây Tạng đã tích cực quảng bá giáo huấn của Đức Phật
trên toàn lãnh thổ. Suốt trên dòng lịch sử của xứ Tây Tạng bốn học phái chính
đã được hình thành khá biệt lập với nhau, lý do là vì lãnh thổ Tây Tạng quá
hiểm trở và rộng lớn. Sự khác biệt giữa các trường phái thật ra chỉ thuộc vào
lãnh vực thuật ngữ và những cách xác định khác nhau về tầm quan trọng của các
khái niệm chính yếu trong giáo lý cũng như các phương pháp và kỹ thuật luyện
tập về thiền định.
Học phái lâu đời nhất là Ninh-mã phái (Nyingmapa) còn gọi là học phái của
các "Người Xưa". Học phái này do Liên-hoa-sinh (Padmasambhava) (10)
thành lập (thế kỷ thứ VIII). Sau đó và kể từ thời đại của nhà dịch
thuật kinh sách nổi tiếng của Tây Tạng là Rinchen Zangpo (958-1055) người ta
lại thấy xuất hiện thêm ba học phái mới là Ca-nhĩ-cư phái (Kagyupa) (thế kỷ XI), Tát-ca
phái (Sakyapa) (thế kỷ XI) và Cách-lỗ phái (Guélougpa) (thế kỷ XIV). Tất cả
ba học phái này được gọi chung là "tân học phái". Trong tất cả bốn
học phái đây trên, mỗi học phái đều có thể được xem như một tông phái Phật Giáo
toàn vẹn, bởi vì mỗi học phái chẳng những đã phản ảnh trung thực được phần tinh
anh trong giáo lý nguyên thủy của Phật Giáo Theravada mà còn bao hàm toàn bộ
giáo lý của Đại Thừa và Kim Cương Thừa.
Con
đường tu tập Phật Giáo
Thiết
nghĩ có lẽ cũng nên trình bày thêm một vài nét đại cương về các đường hướng tu
tập khác nhau cho những người mới bắt đầu tu học hoặc chưa hề biết gì về Phật
Giáo.
Đã là con người thì
tất cả chúng ta đều hàm chứa tri thức và các khả năng giác cảm như nhau, và tất
cả cũng đều mong cầu đạt được hạnh phúc và tránh khỏi khổ đau. Tất cả mọi người
đều bình đẳng với nhau trên phương diện đó. Thật vậy, dù bằng cách này hay cách
khác và dù có đạt được kết quả hay không thì mọi lãnh vực sinh hoạt của con
người cũng đều hướng vào chủ đích thực hiện ước vọng căn bản trên đây. Phải
chăng đấy cũng là trường hợp của các quý vị nào trong số chúng ta hôm nay đang
ước mong tìm thấy một lối thoát tâm linh cho mình, dù đấy là niết bàn hay sự
cứu rỗi, và dù cho mình có tin hay không tin vào sự tái sinh cũng vậy. Thật hết
sức hiển nhiên là tất cả mọi cảm nhận đau đớn hay thích thú, sung sướng hay bất
hạnh đều phát sinh từ cách hành xử của chúng ta, tức là từ tư duy và xúc cảm
của chính mình. Thật vậy, có thể nói rằng tất cả những thứ ấy đều là những sản
phẩm do tâm thức tạo ra. Tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều chủ trương
một con đường tu tập tâm linh hướng vào chủ đích biến cải con tim và tâm thức
của mỗi người. Thế nhưng chỉ có giáo huấn
Phật Giáo là chủ trương cho rằng toàn bộ con đường tu tập tâm linh đều xoay
quanh một nguyên tắc duy nhất: đấy là sự sai lầm căn bản giữa sự cảm nhận của
chúng ta về hiện thực và bản chất đích thật của chính nó (chúng ta cho rằng tất cả những gì cảm nhận được từ
giác cảm và tâm thức của mình là hiện thực, thế nhưng bản chất đích thật của
hiện thực lại hoàn toàn khác hẳn với những thứ ấy, và đấy cũng chính là nguyên
nhân sâu xa nhất mang lại khổ đau cho con người). Sự sai lệch đó bám sâu vào
sự hiện hữu của chúng ta khiến cho tâm trí chúng ta lâm vào tình trạng hoang
mang và tạo ra đủ mọi thứ xúc cảm bấn loạn, kể cả những niềm thất vọng và chán
chường: nói một cách vắn tắt đấy là khổ đau. Trong cuộc sống thường nhật, bất
cứ lúc nào chúng ta cũng có thể rơi vào cảnh huống thất vọng và ảo mộng vỡ tan (vì bản chất của hiện thực là vô thường). Một trong những liều
thuốc hoá giải hiệu nghiệm nhất để chống lại tình trạng đó là phải phát huy sự
hiểu biết, nói cách khác là phải hành xử thật đúng đắn, tức là phải phát huy sự
quán thấy và mở rộng tầm nhìn của mình hầu tạo ra một mối dây thân thiện hơn
với thế giới chung quanh (có nghĩa
là đến gần hơn với hiện thực, quán thấy được các quy luật tương liên và vô
thường của mọi hiện tượng hầu giúp mình hòa nhập với sự chuyển động của hiện
thực được dễ dàng hơn). Đấy là cách mang lại cho chúng ta nhiều khả năng hơn để
đối phó với nghịch cảnh và tránh cho mình khỏi phải thường xuyên rơi vào những
cảnh huống bất toại nguyện và ảo mộng tan vỡ.
Trên phương diện tâm linh cũng thế, thật hết sức hệ
trọng là phải mở rộng tầm nhìn hầu giúp mình cảm nhận bản thể đích thật của
hiện thực chính xác hơn. Nhờ đó mà sự sai lầm căn bản - còn gọi là vô minh -
từng ăn sâu vào sự cảm nhận của chúng ta về thế giới và cả sự hiện hữu của
chính mình, mới có thể xóa bỏ được. Chính vì thế nên Phật Giáo đã nêu lên khái
niệm về bản chất của hai sự thật và xem đấy như là cấu trúc cơ bản của thực
tại. Các cấp bậc thăng tiến - còn gọi là các địa giới (khái niệm "thập địa" của người Bồ-tát,
tiếng Phạn là dasabhumi) - trên đường tu tập tâm linh đều được xác định căn cứ
vào trình độ hiểu biết về bản chất sâu kín ấy của thực tại (tức là các mức độ hay cấp bậc quán thấy khác nhau
về bản chất của hai sự thật). Tất cả chúng ta đều có thể đạt được các cấp bậc
thăng tiến trên đây nhờ vào thể dạng sâu xa của sự hiểu biết (tức là trí tuệ). Do đó khi quyết tâm bước vào
con đường hướng về thể dạng Giác Ngộ thì nhất thiết chúng ta cũng phải phát
động một sự quán thấy đúng đắn về bản thể sâu kín của hiện thực. Nếu không làm được
điều đó thì nhất định chúng ta cũng sẽ không bao giờ hội đủ khả năng để mang
lại cho mình một sự thực hiện tâm linh cao độ, và công trình tu tập của mình
thì cũng sẽ là phù du mà thôi.
Quy luật nhân
quả và bốn sự thật cao quý
Sau khi đạt được Giác
Ngộ hoàn hảo Đức Phật liền đưa ra bài thuyết giảng đầu tiên nêu lên bốn sự thật
cao quý: sự thật về khổ đau; sự thật về nguyên nhân mang lại khổ đau; sự thật
về sự chấm dứt khổ đau và sự thật về con đường đưa đến sự chấm dứt đó.
Giáo lý về bốn sự thật cao quý trên đây được lồng
trong một nguyên lý chung là quy luật nhân quả. Dựa vào quy luật này chúng ta
có thể phân loại bốn sự thật trên đây thành hai cặp, mỗi cặp gồm một nguyên
nhân và một hậu quả. Cặp thứ nhất nêu lên những gì mà chúng ta không mong muốn
và hậu quả của nó là sự cảm nhận khổ đau. Cặp thứ hai liên quan đến hạnh phúc
và sự thanh thản (trong cặp thứ
hai: sự chấm đứt khổ đau là hậu quả - sẽ mang lại hạnh phúc, con đường đưa đến
sự chấm dứt khổ đau là nguyên nhân - sẽ khiến cho khổ đau phải chấm dứt). Nói một cách khác thì
sự thật thứ nhất - tức là sự thật về khổ đau - là hậu quả mang lại từ nguyên
nhân là sự thật thứ hai; cũng tương tự như thế, sự thật thứ ba tức là sự chấm
dứt của khổ đau - một thể dạng giải thoát không còn vướng mắc trong khổ đau -
là hậu quả mang lại từ sự thật thứ tư là con đường mang lại sự giải thoát. Làm
cho khổ đau phải chấm dứt chính là mục đích của việc tu tập tâm linh nhằm mang
lại hạnh phúc và sự tự do đích thật. Những lời giáo huấn trên đây biểu trưng
cho một sự hiểu biết vô cùng thâm sâu về bản chất của hiện thực.
Ba loại khổ
đau
Sự thật về khổ đau không nhất thiết chỉ là những thứ khổ đau có thể trông thấy được hay
là những sự cảm nhận gây ra sự khó chịu, chẳng hạn như các thứ đau đớn
trên thân xác. Đối với các loại khổ đau này thì hàng thú vật cũng cảm nhận được
và đồng thời chúng cũng ý thức được là chúng không muốn phải nhận chịu những
thứ ấy. Thể loại khổ đau thứ hai gọi là khổ
đau phát sinh từ sự đổi thay. Thế nhưng thông thường thì chúng ta lại cứ
xem loại khổ đau này như là một sự thích thú. Phải chăng trong cuộc sống thường
nhật chúng ta vẫn thường nhận thấy tính cách phù du của những sự thích thú hay
chăng? Sớm muộn chúng cũng sẽ mang lại sự bất toại nguyện. Phù du và bất toại
nguyện chính là các nguyên nhân sâu kín đưa đến thể loại khổ đau thứ hai trên
đây.
Loại khổ đau thứ ba gọi là loại khổ
đau thường xuyên và cùng khắp, loại khổ đau này chỉ có thể nhận biết được
bằng cách suy tư sâu xa. Chúng ta cưu mang đủ mọi thứ thành kiến, thiển cận, sợ
sệt và ước mơ. Các thứ tư duy và xúc cảm ấy tất nhiên sẽ mang lại một số thể
dạng tâm thần nào đó và các thể dạng này tất sẽ phải phát lộ ra bằng hành động.
Hầu hết các hành động này đều mang bản chất tàn phá khiến cho những sự lầm lẫn
tâm thần của chúng ta càng trở nên trầm trọng hơn và sau cùng sẽ đưa đến mọi
thứ lo âu và sợ hãi. Các loại tư duy và xúc cảm chính là nguồn gốc của đau
buồn, và chúng sẽ phát lộ qua hành động trên thân xác, hoặc qua ngôn từ hay tâm
ý. Tuy nhiên tất cả các tư duy và xúc cảm ấy không nhất thiết là phải được
khích động bởi các thể dạng tâm thần tích cực hay tiêu cực, mà thông thường hơn
chỉ phát sinh từ những thể dạng vô tình hay trung hòa (trong cuộc sống thường nhật, tư duy và xúc cảm của chúng ta thường chỉ là
hậu quả phát sinh từ những hành động, ngôn từ và tâm ý mang tính cách máy móc
và quy ước. Tuy chúng có thể mang lại đau buồn thế nhưng không gây ra những tai
hại lớn lao). Các hành
động này (tức là các hành động phát sinh từ sự
vô tình và các xúc cảm trung hòa) không quan trọng lắm vì chỉ tạo ra những ảnh hưởng nhỏ. Trái lại các hành
động phát sinh từ những sự khích động và xúc cảm mãnh liệt - dù là tích cực hay
tiêu cực - sẽ để lại những vết hằn thật sâu đậm trong tâm thức và ảnh hưởng đến
cả cách hành xử của chúng ta (chẳng hạn như tham lam, đau
buồn vì mất mát của cải, hận thù chính trị, đam mê tính dục..., hoặc ngược lại
là lòng từ bi vô biên, sự rộng lượng, quyết tâm hy sinh đời mình vì một lý
tưởng cao đẹp..., là những thứ xúc cảm rất mạnh). Nhất là đối với các hành động tiêu cực thì các
vết hằn do chúng lưu lại trên thân xác và trong tâm thức thường rất sâu đậm.
Các kinh nghiệm thường nhật cũng cho thấy sự tương quan chặt chẽ giữa nguyên
nhân và hậu quả: thí dụ như tư duy và xúc cảm của mình tất sẽ phát lộ qua phong
cách hành xử của chính mình. Các quá trình tư duy và xúc cảm mang lại một thái
độ tiêu cực sẽ lôi kéo theo với chúng các tư duy khác và xúc cảm khác làm
nguyên nhân đưa đến những thứ đau buồn khác. Các quá trình ấy tự động diễn tiến
và lôi kéo nhau bất tận, không cần đến một sự cố gắng đặc biệt nào của chúng ta
cả. Thể loại khổ đau thứ ba ấy luôn kết chặt với sự hiện hữu của chúng ta, một
sự hiện hữu trói buộc vướng mắc trong quá trình lôi kéo bất tận của các thể
dạng bất toại nguyện. Phật Giáo cho rằng khổ đau thuộc thể loại thứ ba trên đây
có thể loại bỏ (đau đớn trên thân xác có thể làm cho
vơi bớt bằng cách xoa bóp, bôi dầu hay chữa chạy được, đau buồn trong tâm thức
cũng có thể nguôi ngoai không cần đến một sự tu tập nào. Tuy nhiên vẫn còn
những thứ khổ đau khác mang tính cách nội tại, nằm sâu trong từng tế bào và
trong mỗi tư duy của chúng ta, chẳng hạn như những sự bất toại nguyện thường
xuyên và sâu kín, kể cả sự sinh và cái chết. Đối với thể loại khổ đau này thì
chỉ có trí tuệ mới hóa giải được mà thôi, và trí tuệ thì chỉ có thể phát huy
được bằng sự tu tập. Đấy cũng chính là quan điểm và mục đích của Phật Giáo).
Tiềm năng mang lại sự giải thoát
Chúng ta có thể tự
hỏi như sau: "Có thể thật sự thay đổi được bản chất của sự hiện hữu này
của chúng ta hay không, trong khi mà các cấu hợp thể xác và tâm thần tạo ra sự
hiện hữu ấy đã bị ô nhiễm (có nghĩa là thân xác đang phải
chịu khổ đau, già nua và bệnh tật, và tâm thức thì đang rơi vào tình trạng vô
minh không nhìn thấy được bản chất đích thật của hiện thực)? Có thể thật sự thoát khỏi sự hiện hữu
trói buộc phát sinh từ nguyên nhân và điều kiện này hay không?" Nếu đã nêu
lên vấn đề chấm dứt khổ đau thì tất nhiên Phật Giáo cũng đã phải có sẵn một
giải pháp: đấy là cách phải loại bỏ hoàn toàn các thể dạng tâm thần tiêu cực
hầu giúp mình hóa giải mọi khổ đau. Nếu là những người tu tập trung kiên thì
chúng ta lúc nào cũng phải suy tư thật sâu xa về vấn đề này.
Tuy rằng ngay từ vòng quay thứ nhất của bánh xe Đạo Pháp Đức Phật cũng đã
nói đến sự chấm dứt khổ đau, thế nhưng phải chờ đến vòng quay thứ hai và thứ ba
thì bản chất của sự chấm dứt khổ đau và sự giải thoát đích thật mới được nêu
lên thật đầy đủ qua giáo huấn của Đại Thừa. Khi khởi động vòng quay thứ hai và nhất là qua bộ kinh
Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita-sutra) tức là bộ kinh đề
cập đến sự hoàn thiện trí tuệ thì Đức
Phật mới bắt đầu nêu lên thể dạng tinh khiết và nguyên sinh của tâm thức. Dựa
vào khái niệm này chúng ta cũng sẽ hiểu rằng mọi thứ xúc cảm và tư duy bấn loạn
không phải ngẫu nhiên mà có (có nghĩa
là được phát sinh từ một số điều kiện nào đó. Bản chất nguyên sinh của tâm thức
không hề hàm chứa những thứ tư duy và xúc cảm mang tính cách bất loạn ấy), có nghĩa là chúng
không phải là các thành phần cố hữu thuộc vào bản thể đích thật của tâm thức,
và do đó có thể loại bỏ chúng được.
Là những người tu
tập trung kiên chúng ta phải luôn suy tư và tìm hiểu các chủ đề
như: "Các thể dạng tâm thức làm nguyên nhân mang lại mọi thứ đau buồn
- nhất là các thứ cảm nhận sai lầm và thể dạng vô minh ẩn nấp phía sau những
cảm nhận sai lầm ấy nhằm thúc đẩy chúng ta bám víu vào ý nghĩ cho rằng mọi hiện
tượng hiện hữu một cách tự tại - có phải thật sự thuộc vào bản chất của hiện
thực hay không? Phải chăng đấy cũng chỉ là những thứ tư duy bấn loạn phát sinh
từ những thể dạng tâm thần méo mó, không hề mang tính cách vững chắc và cụ thể
nào và cũng hoàn toàn khác hẳn với hiện thực hay không?". Nếu biết suy
nghĩ như thế thì tất chúng ta cũng sẽ hiểu rằng trước hết cần phải xem xét xem
các hiện tượng - tuy thường tỏ ra có vẻ đúng thật như thế - có thực sự hàm chứa
một thực thể tự tại và độc lập nào hay không? "Nhân dạng và các vật thể
cũng như các biến cố có phải là những thực thể tự chủ có thể tự chúng hiện hữu
một cách độc lập hay chăng?". Các loại kinh sách đặc biệt nêu lên chủ đề
về sự hoàn thiện trí tuệ (các phép luyện tập để phát huy
trí tuệ) đều có đưa ra
nhiều cách giải thích chi tiết chứng minh sự vắng mặt của sự hiện hữu thật của
mọi hiện tượng, và đồng thời cũng cho thấy rằng mặc dù chúng ta có cảm giác
hiện thực đúng là như thế, tuy nhiên sau khi phân tích cẩn thận thì chúng ta
cũng sẽ khám phá ra rằng sự cảm nhận ấy hoàn toàn méo mó và sai lầm. Tóm lại
chúng ta sẽ nhận thấy rằng sự cảm nhận trước đây của mình là hoàn toàn sai lầm
và không mang một nền tảng vững chắc nào cả đối với thế giới hiện thực (chúng ta nhìn thấy mọi hiện tượng chung quanh và cả trong tâm thức mình
đúng là như vậy, thế nhưng thật ra thì đấy cũng chỉ là những thứ ảo giác luôn
biến động, lúc thì hiện ra lúc lại biến mất, chúng không hề hàm chứa một sự
hiện hữu thật nào cả).
Do đó tất cả các thể dạng tâm thần phát sinh từ các cảm nhận sai lầm trên
đây, chẳng hạn như các thứ xúc cảm bấn loạn - như giận dữ, hận thù, ham muốn,
ganh ghét, v.v…- không hề có một sự tương quan đúng thật nào đối với thực tại.
Nếu nguyên nhân làm phát sinh ra các thể dạng tâm thần đó - tức là sự u mê căn
bản đưa đến những sự cảm nhận sai lầm cho rằng mọi vật thể và hiện tượng hàm
chứa một sự hiện hữu nội tại - chỉ là hậu quả mang lại từ sự cảm nhận méo mó
của tâm trí thì nhất định sự méo mó đó có thể sửa chữa được nhờ dựa vào sự hiểu
biết đúng đắn (trí tuệ). Hơn nữa sự sửa chữa ấy còn có thể đưa đến cả sự
chấm dứt hoàn toàn chu kỳ lôi kéo của những sự hiện hữu thiếu tỉnh thức phát
sinh từ vô minh của chúng ta. Kết quả mang lại là những thứ cấu hợp ô nhiễm
thuộc thân xác và tâm thức đang trói buộc chúng ta trong kiếp sống thiếu tỉnh
thức này cũng sẽ được loại bỏ. Khi nào đã hoàn toàn thoát khỏi được vòng lẩn
quẩn phát sinh từ những thứ cảm nhận sai lầm tự tại ấy thì tất chúng ta cũng sẽ
đạt được niết bàn, tức là một thể dạng giải thoát thật sự. Đấy là những gì mà
Đức Phật muốn nói lên khi Ngài thuyết giảng về bốn sự thật cao quý. Dù sao thì
sau đó Ngài cũng còn tiếp tục phân tích và triển khai sâu rộng hơn nữa về các
chủ đề này qua các bài thuyết giảng về mười hai mối dây trói buộc của quy luật
tương liên (còn gọi là thập nhị nhân duyên).
Nguồn gốc tương liên giữa mọi sự vật
Trong một bài kinh giải
thích về quy luật tương liên (còn gọi là lý duyên khởi, nêu
lên trong Tương Ưng Bộ Kinh, Samyutta Nikaya, II, 28) Đức Phật có nói như sau:
Nếu cái này có thì cái kia sinh ra;
Vì cái này sinh ra nên cái kia sẽ hiển
hiện.
Chính vì thế, nên từ vô minh
sẽ phát sinh ra tác ý…
Nói một cách khác,
nếu muốn cho một sự kiện hay một sự cảm nhận có thể xảy ra được thì nhất định
phải có một số nguyên nhân nào đó làm phát sinh ra nó, và đồng thời các nguyên
nhân ấy tự chúng cũng phải là hậu quả phát sinh từ các nguyên nhân khác trước
đó - nếu như nó không phải là hậu quả sinh ra từ một nguyên nhân đã có trước đó
thì nó cũng sẽ không hàm chứa một tiềm năng hay hiệu năng nào để nó có thể gây
ra bất cứ một hậu quả nào khác. Đức Phật có nói rằng nếu đã có một nguyên nhân
thì nhất định hậu quả phát sinh từ nguyên nhân ấy sẽ không sao tránh khỏi phải
sinh ra. Chẳng những nguyên nhân ấy phải được sinh ra từ một nguyên nhân khác (đã có trước đó), mà
chính nó cũng lại phải tương quan với hậu quả do chính nó làm phát sinh ra (sau này). Nếu cho
rằng một nguyên nhân có thể làm phát sinh ra bất cứ một hậu quả nào cũng được
thì đấy là một cách hiểu hoàn toàn sai lầm, bởi vì một nguyên nhân nhất định
nào đó chỉ có thể làm phát sinh ra một hậu quả liên hệ và tương quan với nó mà
thôi (hậu quả luôn luôn tương hợp và liên
đới với nguyên nhân đã làm phát sinh ra nó).
Căn cứ trên nguyên
tắc này Đức Phật cho biết rằng vô minh đã ăn sâu nơi mỗi cá thể sẽ làm phát sinh
ra nghiệp tức là các "hành động". Những thứ cảm nhận khổ đau mà chúng
ta không hề mong muốn, chẳng hạn như đau đớn, sợ sệt và cái chết, tất cả đều là
hậu quả phát sinh từ những nguyên nhân liên đới với chúng. Nếu muốn loại bỏ
những khổ đau đó thì nhất thiết chúng ta phải làm cho chuỗi dài lôi kéo giữa
nguyên nhân và hậu quả phải chấm dứt. Đức Phật cho biết rằng trong số mười hai
mối dây trói buộc giữa nguyên nhân và hậu quả (10) thì thành phần thứ nhất sẽ
làm phát sinh ra thành phần sau cùng (mối dây thứ nhất sẽ tuần tự
đưa đến sự hình thành của mười một mối dây tiếp theo sau). Ngoài ra Đức Phật lại còn nêu thêm một
quá trình khác ngược lại với quá trình trên đây và có thể hóa giải hoàn toàn
được mười hai mối dây trói buộc của quá trình ấy. Nói cách khác là nếu chúng ta
loại bỏ được mối dây xảy ra trước thì cũng có nghĩa là sẽ loại bỏ được mối dây
sẽ phải xảy ra sau đó. Khi nào nhổ bỏ được tận rễ nguyên nhân thứ nhất của quá
trình trên đây - tức là vô minh nguyên thủy đã ăn sâu vào sự hiện hữu của mình -
thì khi đó chúng ta cũng sẽ tự giải thoát cho mình khỏi mọi thứ khổ đau và cả
nguồn gốc của khổ đau.
Trong số mười hai
mối dây tương liên giữa nguyên nhân và hậu quả thì vô minh được xem là nguyên
nhân đầu tiên đứng ra khởi động chuỗi dài níu kéo của mười hai nguyên nhân tạo
nghiệp. Theo tôi thì sự kiện này đã nói lên cả một sự thật vô cùng quan trọng
nhằm chứng minh cho thấy từ bản năng mỗi người trong chúng ta đều mong cầu đạt
được hạnh phúc và tránh khỏi khổ đau (sự trói buộc của mười hai mối
dây tương liên sở dĩ phát sinh là vì chúng ta luôn mong cầu đạt được hạnh phúc
và tránh khỏi khổ đau, thế nhưng sự mong cầu ấy thật ra chỉ là một sự bám víu
phát sinh từ tác động của vô minh, tức có nghĩa là không được hướng dẫn bởi trí
tuệ). Sự mong cầu này
mang tính cách nội tại nơi mỗi con người, không cần bất cứ ai dạy bảo cả. Dù
rằng chúng ta lúc nào cũng ấp ủ những ước vọng thật tự nhiên ấy thế nhưng đồng
thời thì chúng ta cũng nhận thấy rằng niềm phúc hạnh lâu bền lúc nào cũng vượt
thoát khỏi tầm tay của mình và mình thì cũng cứ vẫn tiếp tục bị rơi vào mạng
lưới kiềm tỏa của khổ đau. Đấy chính là bằng chứng cho thấy có một thứ gì đó
không được suông sẻ trong sự hiện hữu của chúng ta, và chúng ta thì lại không
tìm thấy được một phương pháp nào khả dĩ có thể giúp mình thực hiện được ước
vọng tự nhiên ấy hầu mang lại hạnh phúc cho mình. Chính vì lý do đó mà giáo
huấn về mười hai mối dây tương liên giữa nguyên nhân và hậu quả đã được nêu lên
nhằm mang lại một sự hiểu biết đích thật nhằm giúp chúng ta nhận thấy rằng vô
minh chính là nguyên nhân đầu tiên tạo ra đủ mọi thứ khổ đau cho con người.
Vô minh căn bản hay nguyên thủy là một chủ đề đã từng được các vị luận sư
Phật Giáo như Vô Trước (Asanga) và Pháp Xứng (Dharmakirti,
600?-660, một đại luận sư thuộc học phái Duy Thức) giải thích với ít nhiều khác biệt. Dù sao thì chúng
ta cũng không nên hiểu vô minh như là một sự thiếu-hiểu-biết (hay không hiểu biết) đơn thuần mà phải xem nó như là cả một sự lầm lẫn trong sự quán thấy của
mình - thí dụ như chúng ta tưởng là mình hiểu đúng, thế nhưng thật ra thì mình
hiểu sai. Vô minh căn bản phát sinh từ sự tiếp cận méo mó về hiện thực của
chúng ta và cũng vì thế đã khiến chúng ta nghĩ rằng mỗi vật thể và mỗi sự kiện
xảy ra tự chúng đều hàm chứa một sự hiện hữu nội tại và độc lập.
Sự hiểu biết
là gì
Theo cách hiểu
thông thường thì vô minh có nghĩa là
các thể dạng tâm thức hoặc tiêu cực hoặc trung hòa. Thế nhưng vô minh căn bản (cội rễ hay nguyên thủy), ít ra
với ý nghĩa là nguyên nhân đầu tiên trói buộc chúng ta trong chu kỳ hiện hữu,
phải được hiểu như là một thể dạng tâm thức méo mó (nói vắn tắt
nguyên nhân sâu xa nhất trói buộc chúng ta trong chu kỳ hiện hữu chính là thể
dạng vô minh của tâm thức. Thể dạng vô minh đó không nhất thiết chỉ đơn giản có
nghĩa là "không-hiểu-biết" hay "thiếu-hiểu-biết" về hiện
thực mà đúng hơn là một sự "hiểu biết lệch lạc" và kết quả mang lại
là một sự quán thấy hoàn toàn sai lầm về bản chất của hiện thực). Vì tâm thức bị méo mó nên sự nhận biết
về bản chất của hiện thực cũng theo đó mà trở nên lệch lạc. Do đó chỉ có một
cách duy nhất có thể sửa chữa được sự lệch lạc đó: đấy là cách phải tái tạo lại
sự hiểu biết đúng thật về bản chất của hiện thực hầu giúp mình tránh khỏi những
sự quán thấy lừa phỉnh do vô minh tạo ra. Sự hiểu biết ấy chỉ có thể đạt được
khi nào chúng ta đã ý thức được sự quán thấy của mình là hoàn toàn sai lầm và
vô căn cứ. Nếu chỉ biết cầu nguyện suông: "Xin cho tôi loại bỏ được vô
minh cội rễ" thì nhất định chúng ta sẽ không bao giờ có thể thực hiện được
mục đích mong cầu. Tóm lại chúng ta phải đạt cho bằng được chính sự hiểu biết
ấy (sự "hiểu biết" ở đây có nghĩa là
"trí tuệ", bởi vì trong các ngôn ngữ Tây Phương không có từ nào tương
đương với thuật ngữ "trí tuệ" (prajna) trong giáo lý Phật Giáo).
Chỉ khi nào phát
huy được sự hiểu biết giúp mình tìm hiểu thật sâu xa bản chất của hiện thực thì
khi đó chúng ta mới có thể hội đủ khả năng đánh tan những cảm nhận sai lầm cội
rễ mà thôi. Thay vì gọi đấy là sự hiểu biết hay trí tuệ (trong nguyên bản là sagesse / wisdom. Các từ này trong các ngôn ngữ Tây
Phương thường được dùng để dịch chữ "trí tuệ" trong Phật Giáo, thế
nhưng thật ra đấy chỉ là một cách dịch gượng ép, bởi vì các từ này chỉ có nghĩa
là sự khôn ngoan, khôn khéo, thận trọng..., do đó không thể nào nói lên được ý
nghĩa của thuật ngữ "trí tuệ" (prajna) trong Phật Giáo), thì tôi nghĩ rằng nên sử dụng một thuật
ngữ đặc thù khác của Phật Giáo để gọi đấy là sự hiểu biết Tánh Không (nên hiểu rằng trí tuệ trong
Phật Giáo không nhất thiết chỉ là sự hiểu biết sáng suốt mà đúng hơn là một sự
hiểu biết siêu nhiên giúp quán thấy được bản chất đích thực của hiện thực tức
là Tánh Không) tức có
nghĩa là không-có-cái-tôi hay vô ngã, một khái niệm được giải thích
khác nhau tùy theo các học phái triết học. Trong trường hợp mà chúng ta đang
bàn thảo với nhau thì tôi chỉ muốn nói đến sự
trống không của sự hiện hữu nội tại (existence
intrinsèque / intrinsec existence / sự hiện hữu nội tại hay tự tại. Các hiện
tượng luôn biến động và đổi thay, chúng hiện ra và biến mất, vì thế chúng không
hề hàm chứa một sự hiện hữu thật mang tính cách nội tại và trường tồn nào cả,
và đấy cũng chính là Tánh Không của mọi sự hiện hữu mà Đức Đạt-Lai Lạt-Ma muốn
nói đến trong trường hợp này). Nếu cứ tin rằng mọi vật thể và hiện tượng hiện hữu thật sự và mang tính
cách độc lập (mọi hiện tượng sở dĩ hiện hữu là do
nhiều nguyên nhân và điều kiện tác tạo ra chúng, sự hiện hữu ấy còn gọi là sự
tạo tác do điều kiện mà có. Vì thế nên chúng không thể nào độc lập được, có
nghĩa là không thể nào tự hiện hữu được nếu bị tách rời ra khỏi các nguyên nhân
và điều kiện đã tạo ra chúng) thì đấy chính là vô minh căn bản. Ngược lại, sự hiểu biết sâu xa về sự
vắng mặt của sự hiện hữu nội tại (intrinsec existence) sẽ được chỉ định bằng thuật ngữ "sự thật của con đường" (cũng xin mạn phép mượn dịp này để lưu ý người đọc là "sự thật của con
đường" chính là trí tuệ giúp chúng ta quán thấy được bản chất đích thật
của hiện thực. Sự thật ấy của con đường chính là sự Giác Ngộ và giải thoát. Tất
cả các hình thức màu mè khác chỉ biểu trưng cho một vài khái niệm luân lý
thường tình và sơ đẳng - không có gì là
Phật Giáo cả - hoặc là những phương tiện thiện xảo giúp chúng ta đến gần hơn
với con đường do Đức Phật nêu lên mà thôi).
Trong lần chuyển bánh xe Đạo Pháp thứ hai, nhất là
qua các kinh sách nói về sự hoàn thiện trí tuệ, Đức Phật có giảng rằng vô minh
chính là nguyên nhân chủ yếu nhất làm phát sinh ra tất cả những thứ xúc cảm bấn
loạn và mọi sự hoang mang - nói cách khác là các thứ tư duy và cảm nhận tiêu
cực cũng như mọi thứ khổ đau do chúng
gây ra. Đức Phật khẳng định rằng vô minh căn bản và các sự bấn loạn do nó tạo
ra không phải là bản chất đích thật của tâm thức. Các khả năng giúp nhận biết
mọi vật thể và sự kiện cũng chỉ là một sự vận hành tự nhiên (sự nhận thức sai lầm của chúng ta về hiện thực không
phải là bản chất nội tại hay có sẵn của tâm thức mà đúng hơn chỉ là kết quả vận
hành tự nhiên của tâm thức mỗi khi lục giác - gồm ngũ giác và tri thức - tiếp
xúc với các đối tượng của chúng. Sự hiểu biết do chúng mang lại có vẻ hoàn toàn
"tự nhiên", thế nhưng sự "tự nhiên" ấy thật ra là một sự
lệch lạc và méo mó, không hề phản ảnh được bản chất đích thật của hiện thực). Tâm thức nguyên sinh
mang bản chất tinh khiết phải được hình dung như một thể dạng "rạng ngời
và tràn đầy trí tuệ". Cách mô tả tâm thức trên đây được nêu lên trong các
kinh sách nói về sự hoàn thiện trí tuệ (chính
yếu nhất là bộ kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa). Các kinh sách này mô tả bản
chất chủ yếu của tâm thức như một thể
dạng ánh sáng trong suốt. (Kim Cương
Thừa cũng mô tả Tánh Không hay Phật Tính, Chân Như... là một thể dạng ánh sáng
trong suốt hiện ra trong giai đoạn trung gian giữa hai kiếp sống tức trong quá
trình của cái chết khi ngũ uẩn đã tan biến hết).
SỰ HIỂU BIẾT SIÊU
NHIÊN
Nền
tảng mang lại sự thành công
Mục đích tu tập của người Phật Giáo là nhằm đạt được niết bàn, tức là thực
hiện được một thể dạng tâm thức đã loại bỏ được mọi sự nhận thức sai lầm và bấn
loạn. Việc tu tập nhất thiết phải mang lại một sự thăng tiến tuần tự thì mới
mong đạt được mục đích trên đây, do đó yếu tố thời gian thật cần thiết. Nếu quý
vị thật sự mong muốn mang lại cho mình một sự thăng tiến trên đường tu tập tâm
linh thì ngay khi mới bắt đầu bước vào con đường hướng đến niết bàn và sự giải
thoát, phải nhìn lại chính mình xem phong cách hành xử và phương tiện sinh sống
của mình có phù hợp với việc tu tập Đạo Pháp hay không (có nghĩa là phải tự xét xem cuộc sống của mình có
thật sự phù hợp với Con Đường của Tám Điều Đúng Đắn - tức là Bát Chính Đạo -
hay không. Nóí một cách đơn giản hơn là hãy tự nhìn lại xem mình có sống xa
hoa, lòe loẹt, thèm khát, mưu đồ, tính toán, tham lam, ăn nói hồ đồ... hay
không? Phương kế sinh nhai của mình có lương thiện hay không? Trong từng giây
phút mình có suy nghĩ và hành động ngay thật và biết giữ sự yên lặng cần thiết
để suy tư hay không?).
Trong tập luận "Bốn trăm tiết" (Catushataka)
của Thánh Thiên (Aryadeva, là một đệ tử của Long Thụ,
sống vào khoảng từ giữa thế kỷ thứ II đến giữa thế kỷ thứ III) có đưa ra một phương pháp tu tập thật cụ
thể mang lại một sự thăng tiến tuần tự trên đường Giác Ngộ. Việc tu tập này
được quy định bởi các cấp bậc thăng tiến rõ rệt. Trước hết là không được phạm
vào các hành động tiêu cực và phải noi theo một cuộc sống đạo đức. Thánh Thiên
còn cho biết thêm rằng trong giai đoạn đầu tiên này, tức là khi vừa mới đặt
chân vào con đường, thì nhất thiết chúng ta phải tránh các cách hành xử có thể
mang lại cho mình những thể dạng tâm thức tiêu cực và bấn loạn, đấy là cách
giúp mình không tái sinh trong những điều kiện bất thuận lợi khiến cho việc thăng
tiến trên đường tâm linh phải bị chậm lại. Giai đoạn tiếp theo là phải thực
hiện sự quán nhận về tính cách vô ngã hay là Tánh Không (của "cái tôi" và cái "của tôi"). Giai đoạn cuối cùng là phải loại trừ các
thứ chướng ngại tinh tế ngăn chận không cho phép mình đạt được sự hiểu biết (tức là phát huy trí tuệ và Tánh Không ở các cấp bậc cao hơn nữa).
Nếu thấu triệt được
giáo lý về bốn sự thật cao quý (Tứ Diệu Đế) thì chúng ta cũng sẽ hiểu được dễ dàng hơn
sự cần thiết của Tam Bảo là Đức Phật, Đạo Pháp và Tăng Đoàn. Khi đã nắm vững
được căn bản đó thì chúng ta cũng sẽ hiểu được rằng niết bàn và sự giải thoát
đích thật là những gì mà mình có thể đạt được. Khi nào hiểu được rằng các thể
dạng tâm thức tiêu cực và bấn loạn là những gì có thể loại bỏ được thì khi đó
chúng ta cũng sẽ hiểu rằng mình có thể thực hiện được sự giải thoát đích thật -
sự giải thoát đó không phải chỉ mang ý nghĩa bao quát mà còn có nghĩa là sự
giải thoát khỏi cái ngã của chính mình (sự giải thoát
không chỉ có nghĩa là một thể dạng tâm thức thảnh thơi và tràn đầy hạnh phúc,
mà đúng hơn sự giải thoát do Phật Giáo nêu lên là để nhắm vào một mục đích thật
rõ rệt và cụ thể: đó là sự giải thoát khỏi sự kiềm tỏa của "cái tôi"
và cái "của tôi"). Với tư cách cá nhân con người tất chúng ta sẽ cảm thấy rằng sự tự do đó
không vượt quá tầm với của mình và nhất thiết chỉ tùy thuộc vào việc thực hiện
sự hiểu biết của chính mình (tức là việc phát huy trí tuệ
của mình). Khi nào đã
quán nhận sâu xa được sự thật ấy thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng mình có thể
tự tháo gỡ các sơ đồ quen thuộc phát sinh từ những ý niệm sai lầm (chúng ta quen nhìn hiện thực qua những "sơ đồ quen thuộc" tức là
những hình tướng biến động và xem đấy là thật. Khi nào phát huy được trí tuệ để
nhận biết được các "sơ đồ quen thuộc" ấy chỉ là ảo giác, nghĩa là
những thứ "cấu hợp" phát sinh từ điều kiện - conditioned production -
thì khi đó chúng ta cũng sẽ tháo gỡ được các điều kiện trói buộc sự hiện hữu
tạm thời của chúng để nhìn thấy chúng thật ra chỉ là trống không. Sau đó nếu
quay nhìn vào các thứ cấu hợp tạo ra chính mình - từ thân xác đến tâm thức -
thì chúng ta cũng sẽ hiểu rằng chúng cũng chỉ là trống không. Quán thấy được sự
trống không toàn diện và mênh mông đó chính là sự Giác Ngộ). Nhờ đó chắc chắn chúng ta sẽ đạt được sự
Giác Ngộ hoàn hảo. Khi nào đã vững tin vào sự quán thấy ấy thì khi đó chúng ta
cũng sẽ hiểu được việc quy y nơi Đức Phật, Đạo Pháp và Tăng Đoàn thật hết sức là
quan trọng (nên hiểu rằng quy y tam bảo là cách
nương tựa vào Đức Phật, Giáo Huấn của Ngài và sự giúp đỡ của Tăng Đoàn hầu giúp
mình đạt được trí tuệ, và đấy cũng là cách xem hành động quy y của mình là
"nguyên nhân" sẽ góp phần mang lại "hậu quả" là sự Giác Ngộ
của mình).
Sau khi đã quy y
Tam Bảo thì phải thực hiện ngay lời nguyện thứ nhất tức là phải sống một cuộc
sống đạo đức, phải luôn nhớ đến quy luật nguyên nhân hậu quả để tránh tạo
nghiệp và đồng thời phải tự nhắc nhở mình không được vi phạm vào mười hành vi
thiếu đạo hạnh là: ba hành vi thuộc thân xác - sát sinh, trộm cắp, phạm vào
những hành vi tính dục bất chính; bốn hành vi thuộc ngôn từ - nói dối, dèm pha,
nói những lời làm tổn thương người khác, thốt ra những lời thô bỉ, hay nịnh hót
hoặc ăn nói ba hoa vô tích sự; và ba hành vi thuộc tâm thức - tham lam hay thèm
muốn, ác ý và nuôi dưỡng những quan điểm sai lầm. Sau hết là phải tự giải thoát
ra khỏi sự kiềm tỏa của "cái tôi" tức là cái ngã của mình, nói cách
khác là vượt thoát khỏi cảm tính về sự hiện hữu nội tại của mình. Tóm lại có
tất cả ba cấp bậc luyện tập thuộc vào ba giai đoạn khác nhau: trước hết là tuân
thủ giới luật (tu giới), sau đó là luyện tập thiền định (tu định: để thoát ra khỏi "cái tôi") và sau cùng là phát huy trí tuệ tối thượng (tu tuệ: để quán thấy Tánh Không của hiện thực). Trong giai đoạn thứ ba và cũng là giai đoạn cuối
cùng chúng ta phải nhất thiết khắc phục được tất cả các thể dạng tâm thức bấn
loạn và tiêu cực, và cả những xu hướng cũng như những thói quen phát sinh từ sự
sai lầm của các thể dạng tâm thức ấy.
Kết quả cao nhất mang lại từ việc tu tập thuộc vào giai đoạn thứ ba là sự
hiểu biết Tánh Không - tức là bản chất tối hậu của thực tại - kết hợp với lòng
từ bi rộng lớn. Nhằm đạt được mục đích đó chúng ta còn cần phải ghép thêm vào
việc thực hiện Tánh Không một số các yếu tố khác nữa, chẳng hạn như ước nguyện
đạt được Phật Tính hầu hội đủ khả năng mang lại an vui cho tất cả chúng sinh có
giác cảm, hoặc phải phát lộ lòng từ bi rộng lớn và tình nhân ái, v.v... Chỉ khi
nào sự hiểu biết siêu nhiên được hỗ trợ thêm bởi các yếu tố trên đây thì khi đó
chúng ta mới có thể thật sự đạt được một trí tuệ khả dĩ đủ sức giúp chúng ta
loại bỏ được các xu hướng và thói quen phát sinh từ những thứ tư duy và xúc cảm
bấn loạn của mình. Kết quả mang lại từ những cố gắng trên đây sẽ giúp chúng ta
đạt được thể dạng cuối cùng, tức là thể dạng của một vị Phật.
Khi đã đạt được thể dạng Tánh Không nhờ vào toàn bộ các phép luyện tập sơ
khởi trên đây thì khi đó thể dạng Tánh Không ấy cũng sẽ trở thành một liều
thuốc hóa giải hiệu nghiệm giúp loại trừ tất cả những thứ u mê cản trở sự Giác
Ngộ hoàn hảo của mình. Ngay trong đoạn đầu của chương IX, Tịch Thiên cũng đã
cho biết rằng Đức Phật đã nêu lên đầy đủ tất cả các khía cạnh khác nhau trong
việc tu tập Đạo Pháp, và tất cả cũng đều hướng vào việc thực hiện trí tuệ. Do
đó dù mục đích tu tập của quý vị chỉ nhắm vào việc loại trừ khổ đau đi nữa thì
nhất thiết quý vị cũng phải thực hiện được sự hiểu biết Tánh Không (sự hiểu biết Tánh Không chỉ có thể thực hiện được bằng trí tuệ).
THIỀN
ĐỊNH
Chúng ta hãy thiền định (suy tư) để tìm hiểu về bốn sự thật cao quý đúng theo những
gì đã được trình bày trên đây. Quan trọng hơn hết là nên suy tư về phương cách
vận hành của vô minh để hiểu rằng nó trói buộc mình như thế nào trong chu kỳ
của khổ đau, và đồng thời cũng nên suy tư về phương cách vận hành của sự hiểu biết
về bản chất đích thật của hiện thực hầu giúp mình loại bỏ được các thứ tư duy
và xúc cảm tiêu cực trong tâm thức mình. Sau hết là nên suy tư về phương cách vận
hành của sự hiểu biết Tánh Không sau khi đã kết hợp nó với lòng từ bi và ước
vọng thương người, vì đấy chính là cách giúp mình loại trừ các xu hướng tinh tế
thúc đẩy mình vi phạm vào những hành động tiêu cực.
3
Hai sự thật
BÌNH GIẢI
Trước hết tôi xin
trình bày về cách phân chia chương IX trong tác phẩm của Tịch Thiên thành ba
phân đoạn để theo đó mà bình giải. Chương này mang tựa đề là Sự hiểu biết siêu nhiên. Theo cách bình
giải của cả hai vị Khentchen Kungzang Palden và Minyak Kungzang Seunam thì
chương này gồm các phân đoạn sau đây:
1. Tại sao
cần phải phát huy sự hiểu biết trực tiếp về Tánh Không [tiết 1]
2. Phải làm
thế nào để phát huy sự hiểu biết trực tiếp về Tánh Không [tiết 2 đến 150]
3. Cách giải thích ngắn gọn về
phương cách giúp thực hiện Tánh Không [tiết 151 đến 167]
Sự cần thiết phải hiểu được Tánh
Không
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu tiết thứ nhất. Trong tiết này Tịch Thiên
khẳng định rằng phải đạt được bằng mọi cách sự hiểu biết siêu nhiên:
Tiết 1. Tất cả những lời giảng dạy của Đức Phật đều nhằm
vào chủ đích thực hiện sự hiểu biết siêu nhiên. Vậy nếu mong cầu loại bỏ được
khổ đau thì phải phát huy sự hiểu biết ấy.
Nói một cách ngắn gọn là toàn bộ giáo huấn của Đức Phật đều nhằm vào chủ
đích giúp tất cả mọi người đạt được thể dạng Giác Ngộ hoàn hảo. Tất cả những
lời giáo huấn của Ngài đều hướng vào mục đích đó. Tóm lại những lời giáo huấn
ấy đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến con đường mang lại trí tuệ. Điều này
cho thấy tại sao Tịch Thiên đã khẳng định rằng những lời giảng dạy của Đức Phật
đều nhằm vào việc thực hiện sự hiểu biết siêu nhiên.
Chẳng phải học phái
Trung Quán của Đại Thừa Phật Giáo khi nêu lên sự thực hiện Tánh Không là nhằm
vào việc giúp mang lại sự giải thoát khỏi chu kỳ của sự hiện hữu hay sao? Chủ
đích này thường xuyên được nhắc đến trong tập Hành trình đến Giác Ngộ. Khi nêu lên việc loại bỏ khổ đau thì cũng
thật hết sức quan trọng là phải hiểu rằng khổ đau không nhất thiết chỉ là những
thứ cảm giác đau đớn trên thân xác. Chữ "khổ đau" (trong Phật Giáo) còn
bao hàm cả hậu quả và nguyên nhân của khổ đau nữa, tức có nghĩa là bao gồm cả
những thứ xúc cảm và tư duy bấn loạn (khổ đau trên thân xác rất dễ
nhận thấy chẳng hạn như những cảm giác đau đớn, sự nhọc nhằn, bệnh tật...,
trong khi đó những khổ đau xảy ra trong tâm thức tương đối khó nhận biết hơn:
ngoài những thứ xúc cảm như lo âu, sợ sệt, thất vọng, buồn bực, giận dữ... còn
phải kể thêm những thể dạng xúc cảm phức tạp và tinh tế hơn, chẳng hạn như yêu
thương, thù hận, ghét bỏ, ganh tị, hy vọng, thèm muốn, đam mê, chờ đợi, si
tình, thích thú, tiếc nuối... Phật Giáo xem tất cả những thứ ấy là những tư duy
và xúc cảm bấn loạn, là biểu hiện trực tiếp của khổ đau và cũng
là nguyên nhân sẽ mang lại những khổ
đau khác nữa).
Phân đoạn chính yếu
thứ hai (tiết 2 đến tiết 150) sẽ giải thích thật chi tiết các phương
pháp thực hiện Tánh Không. Phân đoạn này cũng lại được phân chia thành ba phân
đoạn thứ yếu. Phân đoạn thứ yếu thứ nhất (tiết 2 đến 39) lại được phân chia thành ba phân đoạn nhỏ
hơn nữa nhằm nêu lên ba khía cạnh đặc thù của hai sự thật như sau:
1. Sự khác biệt và cách định nghĩa về hai sự thật [tiết 2].
2. Sự
khác biệt trong cách quán nhận về hai sự thật giữa các cá thể [tiết 3 đến 4b]
3. Các cách lập luận chống lại các quan điểm bác bỏ cách nhận định về hai sự thật [tiết 4c đến 39].
Định nghĩa
Sau đây là định nghĩa về hai sự thật theo quan điểm của Tịch Thiên [tiết
2]:
Tiết 2. Có hai sự thật: sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Sự thật tuyệt
đối vượt ra ngoài lãnh vực trí thức; vì lãnh vực này được xem là u mê.
Như đã nói đến trên đây, giữa sự cảm nhận của chúng ta về sự hiện hữu của
mọi sự vật và phương cách hiện hữu đích thật của chúng có một sự sai biệt hết
sức chủ yếu, và cũng chính vì thế nên sự cảm nhận về sự hiện hữu của chính
chúng ta và của thế giới cũng chỉ tương tự như ảo giác mà thôi (sự quán nhận về chính mình và thế giới chung quanh không đúng với cách
hiện hữu đích thật của những thứ ấy). Do đó nếu muốn đạt được sự hiểu biết đích thật về bản chất tối hậu của
hiện thực thì nhất thiết phải thấu triệt được hai sự thật, bởi vì chúng biểu trưng cho bản chất nhị nguyên (duality / sự hai mặt, đối ngẫu, hay tương phản) của hiện thực. Dù sao khái niệm về hai sự thật cũng đã được nêu lên trong
các tư liệu ngoài Phật Giáo, chẳng hạn như trong các tập luận của một số học
phái triết học xưa ở Ấn độ, và chính các học phái này cũng có nói đến các khái
niệm về sự giải thoát tâm linh. Chủ thuyết về hai sự thật mà Tịch Thiên đề cập
trong trước tác của ông là do một học phái Phật Giáo Ấn Độ là Trung Quán
(Madhyamika) đã đưa ra, một cách chính xác hơn là do chi phái Trung quán - Cụ Duyên
Tông (Madhyamika-Prasangika, một trong hai
chi phái của học phái Trung Quán) chủ xướng.
Các tư tưởng gia Phật Giáo xưa giải thích có phần khác nhau về cách phân
chia hiện thực thành hai sự thật khác biệt nhau. Một số cho rằng sự phân chia
đó đơn giản chỉ là sự phản ảnh từ các kinh nghiệm cảm nhận quy ước của chúng ta
về thế giới. Một số khác, chẳng hạn như Bouteun Rinpoché (1290-1364 một nhà sư và học giả lỗi lạc của Tây Tạng) lại cho rằng sự phân chia thành hai sự
thật phải được dựa vào chính sự thật trong sự toàn diện của nó: hai sự thật chỉ
là hai thể dạng khác nhau của một sự thật chung duy nhất mang ý nghĩa tổng quát
hơn. Ngoài ra lại còn có thêm một nhóm thứ ba nữa, nhóm này nghiên cứu các đối
tượng có thể nhận biết được và phân chia chúng thành hai nhóm: một nhóm biểu
trưng cho sự thật quy ước và một nhóm biểu trưng cho sự thật tối hậu hay tối
thượng, còn gọi là sự thật tuyệt đối. Phương cách đề cập thứ ba này được
thiết lập căn cứ vào các tư liệu của Phật Giáo Ấn Độ đã từng tạo được nhiều uy
tín, chẳng hạn như tập Giản yếu về Giáo
Huấn của Tịch Thiên. Trong tập luận này tác giả đã khẳng định một cách dứt
khoát rằng các đối tượng có thể nhận biết được là một cơ sở căn bản giúp vào
việc phân loại hai sự thật (căn cứ vào các đối tượng nhận
biết được bằng lục giác như là một phương tiện chủ yếu để phân biệt với các đối
tượng chỉ có thể quán nhận được bằng trí tuệ).
Theo cách bình giải của Minyak Kungzang Seunam thì hai sự thật biểu trưng
cho hai góc
nhìn khác nhau. Trên phương
diện nhận biết căn cứ vào những kinh nghiệm cảm nhận thường nhật của chúng ta
thì thực thể của thế giới đơn thuần biểu trưng cho sự thật quy ước và tương
đối. Trên phương diện bản chất tối hậu của mọi sự vật thì hiện thực chính là Tánh
Không, tức là sự thật tối hậu hay tuyệt đối của chúng. Tóm lại trong trường hợp
trên đây hai sự thật chỉ biểu trưng cho hai cách tiếp cận khác nhau về một thế
giới chung duy nhất (thế giới mà chúng ta nhận biết được
nhờ vào lục giác - gồm ngũ giác và tâm thức - nhất thiết chỉ thuộc vào lãnh vực
của sự thật quy ước và tương đối. Sự thật tuyệt đối và tối hậu của thế giới là Tánh
Không, sự thật này vượt ra ngoài lãnh vực nhận biết của lục giác và chỉ có thể
quán nhận được bằng trí tuệ do sự tu tập mang lại).
Trong tập Dẫn Nhập về Con Đường Trung Quán (Madhyamakavatara / Nhập Trung Luận),
Nguyệt Xứng xác nhận rằng tất cả mọi vật thể và sự kiện đều mang hai bản thể
hay hai khía cạnh khác nhau. Một khía cạnh mang tính cách quy ước hay tương đối
có thể nhận biết được qua các kinh nghiệm cảm nhận của chúng ta về mọi hiện
tượng; và một khía cạnh khác thì mang tính cách tuyệt đối và chỉ có thể nhận
biết được khi nào chúng ta đã đạt được một sự quán thấy tối thượng (trí tuệ). Tóm lại
thật hết sức rõ ràng là theo cách hiểu trên đây thì hai sự thật được định nghĩa
như là hai cách nhìn khác nhau về hiện thực, cách thứ nhất liên quan đến các kinh nghiệm cảm nhận thường nhật của
chúng ta và cách thứ hai liên quan đến khả năng hiểu biết đích thật về bản chất
tối hậu của hiện thực.
Khi chúng ta khảo
sát bản chất hiện thực của mọi sự vật và biến cố - chẳng hạn như các vật thể
trong cuộc sống thường nhật: thí dụ như cái bàn, cái ghế, lọ hoa, cánh hoa... -
thì mức độ hiện thực mà chúng ta có thể nhận biết được bằng các kinh nghiệm cảm
nhận của mình chỉ có thể nói lên được cấp bậc của sự thật tương đối. Cho đến
khi nào bối cảnh mang lại từ những cảm nhận ấy tỏ ra chẳng có gì nghịch lý đối với sự hiểu biết của mình thì khi đó chúng ta vẫn còn ở vào
cấp bậc của các kinh nghiệm cảm nhận và sự vững chắc mang tính cách quy ước mà
chúng ta cố
tình áp đặt cho mọi hiện
tượng. Chỉ khi nào bối cảnh mang tính cách quy ước trên đây tỏ ra không còn phù
hợp với sự
hiểu biết của chúng ta nữa
thì khi đó chúng ta mới sẽ hiểu rằng còn cần phải cải thiện sự hìểu biết của
mình thêm nữa, và sự kiện đó cũng cho thấy rằng chúng ta đang cố gắng tìm hiểu
sâu xa hơn về thực thể hay bản chất của các sự vật mà mình đang cảm nhận được.
Nhờ vào sự phân tích trên đây chúng ta sẽ nhận thấy rằng trên thực tế không có
cách nào có thể giúp xác định được các vật thể và sự kiện (tất cả mọi vật thể và sự kiện đều thường xuyên biến động, chúng hiện ra và
biến mất sau đó. Trong tâm thức của chúng ta cũng thế: các tư duy và xúc cảm
này chưa kịp chấm dứt thì các tư duy và xúc cảm khác đã hiện ra và thay thế vào
vị trí của chúng. Trong bối cảnh chung quanh, thí dụ như trên mặt địa cầu các
mảng lục địa trôi dạt trên nền đá nóng và chảy lỏng, chúng va chạm vào nhau và
dồn ép đất đá trầm tích tạo ra núi non. Núi non lại bị bào mòn để trở thành
bình nguyên). Nếu tiếp
tục suy luận theo phương cách trên đây thì chúng ta cũng sẽ có thể hình dung
được các vật thể và sự kiện ở vào cấp bậc tối hậu của chúng, tức là sự trống
không hoàn toàn của chúng. Sự trống không ấy cũng có nghĩa là sự trống không
của sự hiện hữu nội tại, là sự vắng mặt của bất cứ một bản thể tự tại nào, và
cũng có nghĩa là không có một sự vật hay biến cố nào tự nó hiện hữu cả (tất cả mọi vật thể và sự kiện đều chỉ có thể hiện hữu duy nhất bằng cách
lệ thuộc vào các vật thể và sự kiện khác). Do đó tất nhiên chúng ta sẽ hiểu rằng hai sự
thật rõ ràng chỉ là hai cách quán nhìn khác nhau về các vật thể và sự kiện tạo
ra thế giới.
Cách bình giải (thứ hai) của Khentchen Kuzang Palden phản ảnh rõ rệt quan
điểm của Ninh Mã Phái. Một trong các nét đặc thù của cách bình giải này cũng đã
được Tịch Hộ (Shantarakshita, 750-802, một đại luận
sư người Ấn) nêu lên thật
rõ ràng từ trước trong một tập luận mang tựa là Trang trí cho Con Đường Trung Quán (Madhyamakalankara), và cũng đã được Mipham (11) đem ra bình giải
thêm. Mipham phân tích và nêu lên sự khác biệt giữa các cách giải thích về hai
sự thật của hai chi phái Trung Quán - Cụ
Duyên Tông (Madhyamika-Prasangika) và Trung Quán - Y Tự Khởi Tông
(Madhyamaka-Svatantrika). Ông cũng cho biết thêm là cả hai chi phái này đều chủ trương rằng sự thật tối hậu vượt khỏi khả
năng trí thức, nói cách khác là không thể nào xem nó như là một đối tượng có
thể quán nhận được bằng sự hiểu biết trí thức: bất cứ một đối tượng nào nhận
biết được bằng trí thức đều phải được xem là mang tính cách tương đối và quy
ước.
Hiện
thực và sự hiểu biết trí thức
Trong số các cách
bình giải của Tây Tạng, người ta nhận thấy có hai cách giải thích về câu thơ của Tịch Thiên sau đây: "Sự thật tuyệt đối vượt ra bên ngoài lãnh vực trí thức".
Cách giải thích thứ nhất hình dung sự thật tuyệt đối hay tối hậu căn cứ vào hai
góc nhìn khác nhau (khía cạnh quy ước và khía cạnh tuyệt
đối) và khẳng định rằng
sự thật (tuyệt đối hay tối hậu) vượt khỏi lãnh vực trí thức, và cũng có
nghĩa là vượt khỏi khả năng hiểu biết của những người bình dị: đây là cách giải
thích của Khentchen Kungzang Palden (tóm lại: trước hết Tịch Hộ thế
kỷ thứ VIII, sau đó là Tịch Thiên cũng vào thế kỷ thứ VIII và sau cùng là
Khentchen Kungzang Palden thế kỷ XIX đều giải thích về hai sự thật theo cách
trên đây). Cách giải
thích thứ hai được nêu lên trong các trước tác của Tông Khách Ba (12). Theo vị
này thì sự thật tối hậu không thể là một đối tượng có thể nhận biết được bởi
các khả năng trí thức mang tính cách nhị nguyên, bởi vì các đối tượng của sự
nhận biết ấy tất nhiên phải mang tính
cách tương đối và quy ước (Sự kiện này cho thấy quan điểm
của Kim Cương Thừa qua sự nhận định của vị Lạt-ma Tông Khách Ba về sự thật tối
hậu hay Tánh Không rất gần với cách giải thích của Thiền Học). Trái lại sự thật tối hậu chỉ có thể là
đối tượng của sự cảm nhận trực tiếp hay là sự quán thấy đã hoàn toàn thoát khỏi
mọi sự tạo dựng của tâm thức và các khái niệm nhị nguyên. Tóm lại Tông Khách Ba
cũng định nghĩa hai sự thật dựa vào hai góc
nhìn (tầm nhìn) khác nhau.
Theo ông tiết thứ
hai trong chương IX (của tập Hành Trình đến Giác Ngộ) là nhằm vào chủ đích định nghĩa hai sự
thật. Hiện thực tuyệt đối vượt cao hơn cấp bậc của sự hiểu biết trí thức và
được định nghĩa như là sự thật tối hậu, và Tịch Thiên xem sự thật này là một (trong số hai) thể
dạng của hiện thực, và sự thật ấy chỉ có thể nhận biết được bằng sự quán thấy
trực tiếp đã hoàn toàn vượt thoát khỏi mọi ảnh hưởng của những thứ tạo dựng nhị
nguyên và khái niệm. Một thể dạng khác (khía cạnh thứ
hai) của hiện thực là thể
dạng thuộc vào cấp bậc của sự nhận biết nhị nguyên và được xem là sự thật tương
đối và quy ước. Những gì vừa trình bày trên đây (về tiết 2 trong
chương IX) cho thấy rõ
ràng là phần định nghĩa về hai sự thật.
Khi bình giảng tác
phẩm Trang trí cho Con đường Trung Quán của Tịch Hộ, Mipham
cũng có nêu lên tiết thơ "Sự thật
tuyệt đối vượt ra bên ngoài lãnh vực trí thức" và cũng đã xác nhận
rằng mặc dù việc phủ nhận sự hiện hữu nội tại của mọi hiện tượng là đối tượng
của sự hiểu biết trí thức, thế nhưng Tánh Không biểu trưng cho sự kết hợp giữa
các biểu hiện bên ngoài và cả hiện thực thì lại không thể nào có thể nắm bắt
được bằng trí thức. Cũng xin lưu ý là trong trường hợp này, thật hết sức quan
trọng là phải hiểu rằng ý nghĩa của Tánh Không nêu lên trong tập Hành Trình đến Giác Ngộ đã được căn cứ
vào cách định nghĩa chính thức trong các kinh sách su-tra (tức là các kinh sách bằng tiếng Phạn của Đại Thừa Phật Giáo). Bởi vì nếu chúng ta tìm hiểu khái niệm
này theo cách định nghĩa chính thức nêu lên trong các kinh sách tan-tra (tức là các kinh sách của Tan-tra Thừa hay Kim Cương Thừa), thì sự hiểu biết trí thức (intellect) hay là sự
nhận thức (cognition) sẽ mang ý nghĩa khác hơn. Kinh sách tan-tra phân
tích việc thực hiện Tánh Không (tức là phép suy tư, thiền định
và phát huy sự quán thấy Tánh Không) theo nhiều cấp bậc tinh tế khác nhau, và nếu suy rộng ra thì cũng sẽ hiểu
rằng các cấp bậc ấy tương quan với các khả năng khác nhau giữa mỗi cá thể trong
việc loại bỏ những thứ tạo dựng nhị nguyên trong tâm thức của mình (nói một cách vắn tắt là việc tu tập và thực hiện được Tánh Không theo Kim
Cương thừa được xác định hay phân chia theo nhiều cấp bậc khác nhau tùy thuộc
vào khả năng quán nhận - trí thông minh - của mỗi cá thể).
Cũng thật hết sức là quan trọng là cần phải lưu ý rằng hai sự thật liên
quan đến tất cả mọi vật thể và sự kiện - có nghĩa là bao hàm toàn bộ hiện thực.
Nói một cách khác là không thể có một sự thật thứ ba nào khác hơn. Trong thế
giới hiện thực không thể có một sự thật nào khác hơn ngoài hai sự thật trên
đây.
Các giai đoạn diễn tiến tuần tự trong việc tìm hiểu hai
sự thật
Nhằm có thể giúp tìm hiểu quá
trình diễn tiến giúp định nghĩa khái niệm về hai sự thật được dễ dàng hơn chúng ta hãy thử nêu lên một thí dụ về một vật thể
thật đơn giản, chẳng hạn như một cánh hoa. Trước hết cánh hoa hiện ra như là
một đối tượng trong tâm thức, và căn cứ vào sự hiển hiện đó trong tâm thức
chúng ta sẽ khảo sát xem bản chất đích thật của nó là gì. Tập Giản Yếu về Giáo Huấn của Tịch Thiên nêu
lên đầy ắp những trích dẫn từ các kinh sách su-tra ghi chép những lời thuyết
giảng của Đức Phật về các tác động của quy luật nguyên nhân hậu quả trong bối
cảnh thiên nhiên - và đã cho thấy rằng một sự kết hợp giữa một số nguyên nhân
và điều kiện nhất định nào đó tất sẽ phải mang lại một số hậu quả hay đưa đến
một số cảnh huống nhất định nào đó. Các kinh sách này (tức
là các kinh sách đã được Tịch Thiên trích dẫn) phân tích thật chi tiết khía cạnh quy ước của hiện
thực. Nếu cứ tiếp tục phân tích để tìm hiểu tại sao một số các nguyên nhân
và điều kiện cá biệt nào đó lại chỉ có thể làm phát sinh ra các sự kiện cá biệt liên hệ với chúng, thì chúng ta cũng
sẽ quen dần với sự vận hành của thế giới đa dạng này, và các kinh nghiệm thu
nhận được cũng sẽ trực tiếp tác động đến sự cảm nhận của chúng ta (nếu
quán xét tường tận và suy tư thường xuyên về sự vận hành của các hiện tượng xảy
ra xuyên qua quy luật nguyên nhân hậu quả thì đến một lúc nào đó chúng ta cũng
sẽ quán thấy được sự vận hành chung của cả thế giới này. Khi đã thấu triệt được
sự vận hành đó thì chúng ta cũng sẽ bớt hoặc không còn thắc mắc nữa trước những
biến động thật đa dạng xảy ra quanh ta). Chỉ khi nào chúng ta hiểu được mọi sự vật vận hành như thế nào trong
thế giới hiện tượng tức thế giới của hiện thực quy ước, thì khi đó chúng ta mới
nên nghĩ đến việc tìm hiểu bản chất tối hậu của hiện thực là gì (tất
nhiên là như thế, bởi vì nếu chưa hội đủ khả năng để nhận thấy được bản chất
lôi kéo và biến động của thế giới hiện tượng này thì làm thế nào chúng ta có
thể quán nhận được bản chất tối hậu của nó là Tánh Không). Và cũng chỉ khi đó thì chúng ta mới có thể hội đủ
khả năng để nhận thấy được sự sai lệch (non-coincidence / sự-bất-trùng-hợp) giữa
sự cảm nhận của mình về thế giới và bản chất đích thật của mọi sự vật.
Nếu muốn suy
đoán được mức độ sai lệch giữa sự cảm nhận của mình và hiện thực quan trọng như
thế nào thì nhất thiết cần phải nhìn lại xem thói thường chúng đã áp đặt khái
niệm thực thể về hiện thực (notion de réalité concrète / concrete notion of reality /
tức là những kinh nghiệm cảm nhận thông thường của mình về thế giới và xem nó
đúng thật như thế) để áp đặt lên mọi sự vật và biến cố như thế nào (đem gán cho các
vật thể và biến cố những gì mà mình cảm nhận được bằng lục giác và cho đấy là
hiện thực). Thật vậy sự tin tưởng
(conviction / sự
đoan chắc, sự cả
tin hay sự tin tưởng cho là đúng như thế) cho rằng các kinh nghiệm
cảm nhận của mình là đúng sẽ khiến cho mình nhìn thấy mọi sự vật và biến cố tự
chúng hiện hữu một cách tự tại và hàm chứa một thực thể hay là một sự hiện hữu
nội tại nào đó (khi
nhìn vào một vật thể, một con người, một sự kiện, một tư duy hay xúc cảm thì
chúng ta tin rằng chúng đúng thật là như vậy, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là
kết quả mang lại từ sự kết hợp của thật nhiều nguyên nhân và điều kiện. Bản
chất đích thật của chúng chỉ là hậu quả hay một sự cấu hợp tạm thời gồm nhiều
thành phần và điều kiện để hiện hữu. Chẳng những các nguyên nhân và điều kiện
tạo tác ra chúng đều vô thường mà ngay cả chúng cũng vô thường và cũng đang
biến động để tạo ra những nguyên nhân và điều kiện khác nhằm làm phát sinh ra
các vật thể, sự kiện, con người cũng như các tư duy và xúc cảm khác. Sự biến
động liên tục đó cho thấy thật rõ ràng là các hiện tượng không hàm chứa một sự
hiện hữu cố định, tự tại hay nội tại nào cả, nói một cách khác là chúng
"không thật", chỉ là "ảo giác" và luôn tìm cách để
"lừa phỉnh" chúng ta). Chỉ khi nào hội đủ khả năng để phủ
nhận sự tin tưởng (tức là không còn cố tình tin rằng mọi hiện tượng có thật và hiện hữu
đúng như thế) thì khi đó chúng ta mới có thể đạt được sự hiểu biết
sâu xa hơn về sự thật tối hậu hay là Tánh Không.
Sự tương tự và khác biệt
Đến đây biết đâu chúng ta có thể cũng thắc mắc muốn được biết
hai sự thật là một thứ hay hai thứ khác nhau? Thắc mắc này cũng đã từng đưa đến
nhiều quan điểm khác biệt nhau. Thí dụ như Bouteun (Bouteun Rinpoché, 1290-1364 là một nhà sư và
học giả Tây Tạng rất lỗi lạc và cũng đã được nhắc đến trên đây) quả
quyết rằng hai sự thật phải mang hai bản chất khác nhau, trong khi đó Tông
Khách Ba thì lại cho rằng nếu căn cứ theo quyển Bình giải về tâm thức Giác Ngộ (13) của Long Thụ thì hai sự thật
phải có cùng một bản chất như nhau, tuy rằng trên phương diện quy ước thì mỗi
sự thật mang một thể tính (identité / identity) riêng biệt. Tương tự như trường
hợp khi triết học Phật Giáo xác định một thứ gì đó bao gồm chung cả hai thể
dạng, vừa là vô thường lại vừa là một sản phẩm (một vật thể vừa là kết quả phát sinh từ sự
tạo tác do điều kiện để hiện hữu - tức là một sản phẩm - đồng thời tự nó cũng
lại mang bản chất vô thường và làm nguyên nhân để tạo ra những điều kiện khác).
Hơn nữa, hai sự thật cũng chỉ là hai cách diễn đạt dựa trên hai quan điểm (cách nhìn)
khác nhau về cùng một thực thể (entity). Hai sự thật chỉ biểu trưng cho một thế
giới duy nhất. Chấp nhận hai tầm nhìn (cách nhìn, góc nhìn) khác nhau như trên đây
chính là cách giúp chúng ta phân biệt được bản chất (nature) và thể tính (identity)
của mỗi sự thật.
Trong Tâm Kinh cũng có
nói đến thể tính và bản chất chung của hai sự thật. Chúng ta hãy nêu lên một câu
rất nổi tiếng sau đây (trong Tâm Kinh): "Hình tướng là trống không, trống không là
hình tướng; ngoài hình tướng, không hề có trống không; ngoài trống không, không
hề có hình tướng". Bài Kinh này còn cho biết thêm là tất cả mọi vật thể và
sự kiện đều hàm chứa đặc tính của Tánh Không. Khi đề cập đến Tánh Không của
hình tướng cũng như các hiện tượng khác thì chúng ta không nên nghĩ rằng Tánh
Không là một thứ đặc tính từ bên ngoài được đem áp đặt lên các sự vật. Đúng hơn
chỉ nên xem Tánh Không của các sự vật thuộc vào bản chất tự tại của chúng và
bản chất ấy chính nó cũng bị chi phối bởi hiện tượng tạo tác tương liên
(Tánh Không là bản chất tự tại và đích thật, thuộc "bên trong" của
mọi sự vật, thế nhưng đồng thời bản chất ấy cũng bị chi phối bởi hiện tượng tạo
tác tương liên khiến làm phát sinh ra đủ mọi hình tướng tức là các biểu hiện
"bên ngoài" của chúng, và đấy cũng chính là nguyên nhân tạo ra tình
trạng đa dạng của thế giới).
Nếu
phân tích thật cẩn thận thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng sự hiện hữu vật
chất của một hình tướng và kể cả thể tính (identity) của nó đều nhất thiết lệ thuộc vào những yếu tố
khác, chẳng hạn như tổng thể các nguyên nhân và điều kiện đã tạo tác ra nó. Chỉ
khi nào đã hiểu được điều ấy thì khi đó chúng ta mới sẽ hiểu rằng không thể nào
còn có thể nêu lên sự hiện hữu hay thể tính độc lập và tự chủ của bất cứ một
hiện tượng nào nữa. Tuy nhiên không phải vì thế mà hình tướng không hề hiện
hữu, bởi vì thật hết sức rõ ràng là chúng ta vẫn cảm nhận được nó, nhận biết
được nó, và riêng về phần nó thì nó vẫn tiếp tục gây ra tác động đối với chúng
ta. Trong lãnh vực đa dạng tức là ở cấp bậc thuộc vào lãnh vực của các kinh nghiệm cảm nhận thường nhật thì đúng
là có hình tướng, thế nhưng các hình tướng ấy không hề hàm chứa một sự hiện hữu
nội tại nào, cũng không hề mang một thực thể riêng biệt và độc lập nào cả. Các
hình tướng đó chỉ có thể hiện hữu nhờ vào sự tương kết với các yếu tố khác,
chẳng hạn như các nguyên nhân và điều kiện đã làm phát sinh ra chúng, hoặc là
các thành phần cấu hợp đã tạo ra chúng. Tóm lại hình tướng hoàn toàn không mang
một vị thế tự chủ nào cả: nhất thiết nó phải lệ thuộc vào các yếu tố khác (để
có thể hiện ra như là một hình tướng). Vì lý do luôn ở trong tình trạng bị biến đổi và
lệ thuộc vào sự tác động của các yếu tố khác cho nên hình tướng mang rất nhiều
đặc tính (sắc thái)
khác nhau (tùy theo các thành phần và điều kiện đã tạo tác ra
chúng, và đấy cũng chính là tính cách đa dạng của thế giới như vừa được giải
thích trên đây). Sự vắng mặt của
bản chất độc lập - tức là sự trống không về mọi sự hiện hữu nội tại - của mọi
hình tướng là sự thật tối hậu của chúng. Cũng chính vì lý do đó mà Đức Phật đã
nêu lên trong Tâm Kinh rằng
"Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng".
Hai loại vô ngã
Sự thật tối hậu chính nó cũng gồm có hai thứ: vô ngã của con người (có
nghĩa là không có "cái tôi" và cái "của tôi") và vô ngã
của mọi hiện tượng (Tánh Không của hiện thực). Trong tập Giẩn nhập về Con Đường Trung Quán (Madhyamakavatara /
Nhập Trung Luận, một quyển sách của Nguyệt Xứng bình giải về tập Trung Quán Luận
Tụng của Long Thụ) Nguyệt Xứng xác nhận rằng sự phân chia trên đây (vô ngã của cá thể
con người và vô ngã của mọi hiện tượng) không hề được căn cứ vào hai
loại vô ngã hoàn toàn khác biệt nhau, mà đúng hơn là dựa vào khái niệm cho rằng
thế giới gồm có hai thể loại hiện tượng chính yếu - một làm chủ thể và một làm
đối tượng ("cái
tôi" là hiện tượng giữ vai trò chủ thể, "hiện tượng" nhận biết
được bởi "cái tôi" giữ vai trò đối tượng, cả hai đều là vô ngã tức là
Tánh Không). Do đó trong trường hợp trên đây thuật ngữ "hiện
tượng" sẽ chỉ định cho thế giới tức cho mọi vật thể và sự kiện, và thuật
ngữ "con người" sẽ chỉ định tất cả các sinh linh có giác cảm (chúng sinh).
Kinh sách cũng đã dựa vào cách phân chia hiện thực thành hai thể loại như trên
đây để nêu lên hai loại sự thật mang tính cách tối hậu khác nhau (Tánh Không của cá
thể con người và Tánh Không của thế giới hay là của tất cả mọi hiện tượng khác).
Quan
điểm trên đây là do chi phái Trung Quán - Cụ Duyên Tông đưa ra. Chi phái Trung
Quán - Y Tự Khởi Tông (xin nhắc lại Trung Quán Tông được phân
chia thành hai chi phái là Trung Quán - Cụ Duyên Tông và Trung Quán - Y Tự Khởi
Tông) và các tông phái triết học
khác của Phật Giáo thì lại chủ trương cho rằng có một sự khác biệt thật căn bản
giữa vô ngã của con người và vô ngã của mọi hiện tượng, trong khi đó Trung Quán
- Cụ Duyên Tông chỉ xác nhận rằng có nhiều cấp bậc nhận thức tinh tế khác nhau
về tính cách vô ngã của con người tùy theo khả năng hiểu biết của mỗi cá thể và
cho biết thêm rằng nếu phân tích đến chỗ cùng cực thì tính cách vô ngã của cá
thể con người cũng như vô ngã của mọi hiện tượng tất cả sẽ đều ở vào một cấp
bậc tinh tế tương tự như nhau. Sự thật tối hậu đôi khi còn được phân chia thành
bốn, mười sáu hay hai mươi thể loại Tánh Không khác nhau. Các cách phân loại
này cho thấy là có nhiều phương pháp xác định Tánh Không khác nhau, chẳng hạn
như phân biệt Tánh Không thành các thể loại thuộc bên trong và bên ngoài, hoặc
vừa bên trong và vừa bên ngoài..., và tiếp tục như thế cho đến chỗ tột cùng, và
ở cấp bậc này thì Tánh Không thường được gọi là Tánh Không của Tánh Không. Cách
quy định Tánh Không của Tánh Không như là một thể loại riêng biệt tỏ ra rất hữu
ích, bởi vì Tánh Không nếu chỉ được định nghĩa như là một sự thật tối hậu thì
cũng sẽ dễ gây ra sự hiểu lầm cho rằng Tánh Không là một thực thể tuyệt đối (khi
nêu lên "Tánh Không của Tánh Không" thì đấy là cách cho thấy Tánh
Không thật sự là trống không và không hề hàm chứa hay biểu trưng cho một
"giá trị tuyệt đối" hay một "thực thể tối hậu" nào cả. Tánh
Không chỉ là một "sự trống không" và Tánh Không của Tánh Không tức là
sự "trống không" của "sự trống không" ấy). Chính vì thế mà Đức Phật đã xác nhận rằng Tánh
Không tự nó không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại nào cả.
Quy ước đúng và sai
Sự thật quy ước hay tương đối
được phân chia thành hai thứ quy ước: đúng và sai. Dầu sao đi nữa theo chi phái
Trung Quán - Cụ Duyên Tông thì khi nào sự hiện hữu tự tại hay nội tại đã bị bác
bỏ, ngay cả trên phương diện quy ước, thì sự phân loại thành hai sự thật quy
ước đúng và sai chỉ có thể hình dung theo một quan điểm cá biệt nào đó mà thôi
- bởi vì trên thực tế trong lãnh vực của thế giới quy ước không thể có sự phân
loại thật sự nào cả. Thế nhưng quan điểm này lại có thể giúp chúng ta đề cập
đến các vấn đề liên quan đến sự cảm nhận đích-thật và không-đích-thật, và đánh
giá một số kinh nghiệm cảm nhận nào đó là đúng, và một số khác là sai (thí dụ như những
kinh nghiệm cảm nhận quy ước về những đối tượng thông thường là những cảm nhận
không-đích-thật, thế nhưng cũng có những cảm nhận quy ước có thể cho là
đích-thật khi đối tượng của nó là Tánh Không chẳng hạn. Dầu sao thì đây cũng
chỉ cách lý luận thuộc vào lãnh vực thuật ngữ. Phân đoạn dưới đây sẽ giải thích
rõ hơn về sự kiện này).
Vấn đề thuật ngữ
Đến đây chúng ta
hãy thử tìm hiểu hai sự thật trên phương diện thuật ngữ xem sao. Khi nào một
chủ thể, tức có nghĩa là một chủ thể nhận biết quy ước, đứng ra để nhận biết
một sự thật ở một mức độ nào đó dựa vào sự tin tưởng sai lầm cho rằng các vật
thể hàm chứa một sự hiện hữu thật sự, thì khi đó sự thật ấy sẽ được xem như là
"sự thật quy ước". Chính vì thế nên đối với chi phái Cụ Duyên Tông
thì thuật ngữ sự thật trong lãnh vực
quy ước sẽ hoàn toàn không có gì liên quan đến phương cách hiện hữu đích thật
của mọi sự vật. Sự thật ấy chỉ là một
thứ sự thật tạo dựng dựa vào quan điểm cá biệt phát sinh từ sự cảm nhận - hoàn
toàn lệch lạc - của chúng ta về thế giới, và do đó đã khiến cho chúng ta xem
tất cả mọi hiện tượng như hàm chứa một thứ hiện thực nội tại nào đó. Sự quán
thấy sai lầm ấy cũng đã khiến cho chúng ta nhìn vào mọi con người, sự vật và
biến cố và cho rằng chúng hiện hữu thật sự. Xuyên qua các kinh nghiệm cảm nhận
quy ước của chúng ta các sự vật sẽ hiện ra rất thật, rất rõ ràng, đúng là như
thế, và chúng tỏ ra như hàm chứa một sự hiện hữu khách quan, độc lập và tự chủ (khi
nhìn vào một cánh hoa, một cái bàn, một con mèo, một con người..., chúng ta cho
những thứ ấy đúng là như vậy, thế nhưng
thật ra thì đấy chỉ là những sự thật quy ước, bản chất đích thật của những thứ ấy là Tánh Không). Sự thật quy ước cũng được chỉ định bởi các
thuật ngữ như sự thật bị che lấp hay phủ kín.
Các cách giải thích dựa vào các thuật ngữ trên đây, ở một mức
độ nào đó, dường như cũng có thể là cách giúp chứng minh cho thấy các sự lầm
lẫn trong các thể dạng tâm thức của chúng ta. Tuy nhiên đấy cũng chỉ là cách
giải thích bằng thuật ngữ mà thôi. Trên thực tế, qua tầm nhìn lầm lẫn trên đây
dù các sự vật hiện ra đúng thật là như thế, thế nhưng không nhất thiết là sự
thật ấy cũng phải là một sự thật tương đối. Thí dụ đối với Tánh Không, nếu nó
được xem là vững chắc bởi quan điểm lầm lẫn (tức sự quán thấy quy ước) trên đây thì cũng
không có nghĩa là có thể xem nó là một sự thật quy ước hay tương đối. Sự kiện
xem các hiện tượng là thật không thể được chấp nhận như là một sự quán thấy xác
đáng (pertinent
/ apposite, suitable, righ, fit../ thích đáng, chính xác, hợp lý... Câu trên
đây có nghĩa là cách quán thấy quy ước của chúng ta về mọi sự vật và cho chúng
đúng là như vậy, thế nhưng đấy không có nghĩa là tất cả những thứ ấy bắt buộc
luôn luôn phải là những sự thật tương đối, thí dụ như trường hợp của Tánh Không
mà chúng ta hiểu được bằng sự suy luận quy ước thế nhưng không thể bảo vì thế
mà Tánh Không bắt buộc phải là một sự thật tương đối). Do đó cần
phải phát huy một tầm nhìn khả dĩ có thể giúp chúng ta thiết lập được sự vững
chắc của thế giới hiện tượng. Dầu sao đi nữa thì trong bất cứ trường hợp nào
tầm nhìn đó không thể nào phát sinh được từ một thể dạng tâm thức lầm lẫn hay
méo mó.
Tiếp theo đây chúng ta sẽ đề
cập đến ý nghĩa của sự thật thuộc lãnh vực sự
thật tối hậu. Nguyệt Xứng trong tập luận mang tựa Các ngôn từ trong sáng (Prasannapada Madhyamakavrtti / Les
Paroles Claires / Clear words) cho
biết rằng thuật ngữ tối hậu (ultime
/ ultimate / tối hậu hay tối thượng) là nhằm để chỉ định cùng một lúc vừa là đối tượng - tức Tánh Không - vừa
là kinh nghiệm cảm nhận trực tiếp về đối tượng ấy. Vì thế thuật ngữ tối hậu trong trường hợp của sự thật tối
hậu, sẽ chỉ định đồng loạt cùng một lúc kinh nghiệm cảm nhận chủ quan và cả đối
tượng của nó - tức là Tánh Không. Nói một cách sâu xa hơn nữa thì Tánh Không
vừa là sự tối hậu lại vừa là sự thật mà người ta muốn nói đến khi đề cập đến sự
thật tối hậu (Tánh Không là một "sự thật"
và thể dạng tối hậu là một "kinh nghiệm" cảm nhận về sự thật đó). Nguyệt Xứng nói rằng Tánh Không là "ý
nghĩa" (của sự trống không) hay là "sự thật" (tiếng Tây Tạng là don) và đồng thời cũng có nghĩa là
"tối hậu" (tiếng Tây Tạng là dampa).
Tóm lại chúng ta nhận thấy có một sự hội tụ (trùng
hợp) giữa tối hậu và sự thật.
Nếu không đủ sức hiểu được bản thể của hai sự thật - sự thật
quy ước và tối hậu - là gì thì cũng sẽ rất khó cho chúng ta có thể hình dung
trọn vẹn được sự khác biệt giữa những biểu hiện bên ngoài và hiện thực, tức là
sự lệch lạc giữa những nhận thức của chúng ta và phương cách hiện hữu thật sự
của mọi vật thể; và như thế cũng có nghĩa là chúng ta không hội đủ khả năng để
nhổ bỏ tận gốc rễ thể dạng vô minh căn bản của mình.
Tánh Không và lòng Từ bi
Tất nhiên là sẽ phải có những phương thuốc thích
nghi giúp hóa giải các thứ tư duy bấn loạn, thí dụ như thiền định (suy tư, suy
nghiệm) về tình thương yêu sẽ ngăn chận được hận thù, thiền định về
bản chất ô nhiễm của thân thể sẽ ngăn chận được sự thèm khát (dục tính),
và đại loại như thế. Các phép luyện tập trên đây có thể khiến cho nhiều thứ xúc
cảm và tư duy bấn loạn phải suy giảm. Tuy nhiên Nguyệt Xứng cũng có nói đến
trong tập Giản Yếu về những Phương Tiện
Hiểu Biết Vững Chắc (Compendum des moyens de connaissance valides / Compendum of the Means of True
Knowledges / Pramanasamuccaya. Tập luận
này thật ra là do Dignaga (Trần Na, 440-520) biên soạn, và sau đó đã được
Nguyệt Xứng (thế kỷ thứ VII) bình giải) rằng các phép luyện tập trên
đây chỉ có hiệu quả đối với những hình thức biểu lộ có thể quan sát được của
những xúc cảm ấy, có nghĩa là chúng chỉ tác động một cách gián tiếp đến các xúc
cảm ấy cũng như các thể dạng vô minh tiềm ẩn phía sau những xúc cảm ấy (có nghĩa là các phép
luyện tập trên đây chỉ là những liều thuốc tạm thời hóa giải các thứ tư duy bấn
loạn, chúng không có khả năng loại bỏ được tận gốc các nguyên nhân sâu xa đã
làm phát sinh ra chúng). Các phép luyện tập này (tức là các phép thiền định về lòng từ bi nhằm
giúp hóa giải các tư duy bấn loạn) không có khả năng tác động như
một sức mạnh nhằm trực tiếp sửa đổi những cảm nhận sai lầm căn bản của chúng
ta. Chỉ khi nào phát huy được sự hiểu biết về bản chất tối hậu của hiện thực
thì khi đó chúng ta mới hội đủ khả năng quán thấy được nguyên nhân cội rễ của
sự lầm lẫn - tức là cách cảm nhận lệch lạc - của mình và những thứ khổ đau do
nó gây ra. Nếu không phát huy được sự hiểu biết toàn vẹn về hai sự thật thì
chúng ta cũng sẽ không thể nào hiểu được bản thể đích thật của hiện thực là gì;
khi nào đã đạt được sự hiểu biết ấy thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy được sự lệch
lạc trong cách cảm nhận của mình về thế giới cũng như sự nhận thức và các xúc
cảm của mình. Vì thế sự hiểu biết ấy sẽ góp phần làm gia tăng thêm sức mạnh cho
những thể dạng tâm thần tích cực, chẳng hạn như lòng từ bi, tình thương yêu và
lòng rộng lượng; và đồng thời nó cũng sẽ làm suy giảm sức tác động của những
thể dạng tâm thần bấn loạn và tiêu cực, chẳng hạn như giận dữ, hận thù, ganh
ghét và bám víu. Các thể dạng lừa phỉnh và bấn loạn ấy đã bám rễ quá sâu vào sự
tin tưởng của chúng ta về sự hiện hữu nội tại của thế giới vì thế chỉ có sự
hiểu biết đích thật về Tánh Không mới có thể giúp chúng ta hội đủ khả năng hầu
nhổ bỏ tận gốc rễ những thứ ấy. Và cũng nhờ đấy chúng ta mới có thể phát huy
được tiềm năng tích cực tàng ẩn trong tâm thức mình cũng như giúp chúng ta giới
hạn, hoặc cũng biết đâu có thể loại bỏ được hẳn các thứ xúc cảm và tư duy bấn
loạn và tiêu cực. Đây cũng là một trong những điều lợi ích thiết thực nhất mang
lại từ sự hiểu biết sâu xa về hai sự thật.
Kentchen Kunzang Palden trong phần bình giải cũng có trích dẫn
câu sau đây của Long Thụ: "Sự hiểu biết trực tiếp Tánh Không và sự bùng
dậy của lòng từ bi luôn đi đôi với nhau". Theo ông (tức Kentchen Kungzang Palden) nếu
sự hiểu biết Tánh Không ngày càng trở nên sâu xa hơn thì lòng từ bi đối với
chúng sinh cũng theo đó mà càng gia tăng thêm (khi đã cảm nhận được Tánh Không của thế giới
thì chúng ta cũng sẽ không sao cầm lòng được khi trông thấy các chúng sinh khác
đang phải gánh chịu khổ đau chỉ vì bám víu vào danh vọng, của cải và những thứ
bản năng sơ đẳng khác của con người). Quả khá khó để có thể nhận
thấy được sự tương liên tự động giữa việc thực hiện Tánh Không và sự bùng dậy
của lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh có giác cảm. Tuy nhiên hình như thật
hết sức rõ ràng là khi việc thực hiện Tánh Không ngày càng trở nên sâu sắc hơn
thì chúng ta cũng nhận thấy khả năng làm chấm dứt khổ đau của mình cũng càng
trở càng nên sâu xa hơn. Khi nào chúng ta phát huy được ngày càng vững chắc hơn
lòng tin tưởng cho rằng tất cả các sinh linh có giác cảm đều hàm chứa tiềm năng
tự giải thoát cho mình khỏi khổ đau, thì khi đó lòng từ bi của mình cũng sẽ dần
dần gia tăng theo. Nếu nhận thấy được rằng nhất định sẽ có một lối thoát thì
lòng từ bi của mình đối với các chúng sinh có giác cảm - còn bị vướng mắc trong
chu kỳ hiện hữu chỉ vì không biết cách để tự giải thoát cho mình - cũng sẽ
đương nhiên gia tăng thêm. Theo tôi nghĩ nếu sự hiểu biết Tánh Không ngày càng trở
nên sâu xa hơn thì sức mạnh của lòng từ bi của chúng ta đối với kẻ khác cũng sẽ
càng được gia tăng hơn.
Trong khi tu tập tất nhiên
chúng ta cũng sẽ có thể cảm thấy sự hiểu biết của mình về Tánh Không được gia
tăng hơn, thế nhưng đồng thời nếu lòng từ bi của mình đối với kẻ khác lại không
gia tăng theo một cách tương xứng thì đấy là dấu hiệu cho thấy sự hiểu biết Tánh
Không của mình chưa được sâu xa và đích thật cho lắm. Tôi vẫn thường nói rằng
nếu chỉ biết đơn giản suy tư về Tánh Không thì đấy cũng chẳng phải là một điều
đáng để khâm phục. Đối với mọi sự giao tiếp trong cuộc sống thường nhật, thật
hết sức quan trọng là phải tạo ra những mối dây liên hệ dựa trên đạo đức và
lòng từ bi. Nếu sự hiểu biết Tánh Không của mình chẳng mang lại một sự tiến bộ
nào trong chiều hướng đó thì sự hiểu biết ấy cũng sẽ chẳng lợi ích gì. Phải
chăng lòng từ bi vô biên là điều tuyệt vời nhất mà sự thực hiện Tánh Không có
thể mang lại hay không?
Chúng ta không nên hình
dung Phật Tính là một thể dạng hoàn toàn nhu nhược, vô cảm, không biết xúc động
là gì và thiếu hẳn lòng thiện cảm đối với các chúng sinh có giác cảm. Nếu đúng
như thế thì Phật Tính cũng chẳng có gì để gọi là đặc sắc cả. Suy tư về Tánh
Không nào phải là cách tìm lấy cho mình một lối thoát và cũng chẳng phải là một
sự lẫn trốn hay tránh né không dám nhìn thẳng vào sự đa dạng và phức tạp của
thế giới quy ước và tương đối. Suy tư về Tánh Không đúng hơn chính là cách mang
lại cho chúng ta nhiều khả năng hơn hầu giúp chúng ta tiếp cận với thế giới
hiện tượng một cách chính xác và mang nhiều ý nghĩa hơn.
Trên đây là phần trình bày sơ
lược về bản chất và vai trò của hai sự thật.
Hai thể loại cá thể con người
Sau phần trên đây thì tác phẩm của Tịch Thiên nêu
lên quan điểm về các thể loại cá thể khác nhau liên quan đến khả năng lĩnh hội
của họ cả về lý thuyết cũng như thực hành trong phép tu tập Phật Giáo về hai sự
thật.
Tiết 3-4b. Có hai thể loại người tương quan với
nhau: thể loại thứ nhất gồm những người biết suy tư và thể loại thứ hai gồm
những người bình dị. Những người biết suy tư trội hơn hẳn so với những người
bình dị, và đối với những người biết suy tư thì họ lại còn được phân chia theo
nhiều đẳng cấp khác nhau căn cứ vào trí thông minh của họ.
Như đã nói đến trên đây, thật hết sức hệ trọng là phải thấu
triệt được hai sự thật là gì. Tập Hành
trình đến Giác Ngộ nêu lên hai nhóm người với các phản ứng khác nhau khi
phải đối đấu với khái niệm về hai sự thật: một nhóm là những người biết suy tư
và một nhóm là những người bình dị. Tiếng Tây Tạng gọi những người bình dị là jigtenpa, và những người biết suy tư là naljorpa có nghĩa là những người quán
thấy được mọi sự vật qua một tầm nhìn sâu xa hơn. Từ Jig (trong
chữ jigtenpa) có nghĩa là phù du và nhằm để nói lên một thứ gì đó
đang bị hủy hoại, và từ ten có nghĩa
là nền tảng hay cơ sở. Tóm lại chữ jigten
có nghĩa là sự vắng mặt của sự trường tồn, và jigtenpa là thuật ngữ chỉ định một nhân dạng hay một chúng sinh phù
du. Chữ jig nói lên sự suy thoái và
sự phủ nhận mọi thể dạng bất biến hay trường tồn (éternité / eternity, infinity).
Suy tư về ý nghĩa của thuật ngữ trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rằng không có
một "cái tôi" (hay cái ngã) mang tính cách nhất thể, tuyệt đối
và bất diệt (éternel
/ eternal, perpetual) nào cả.
Khi nêu lên những người
bình dị theo như trên đây thì đấy là cách nhằm để chỉ định những người chấp
nhận một tầm nhìn mang tính cách thực thể (perspective réaliste / realistic view) nào đó về
bản chất tối hậu của hiện thực. Trong số này gồm có các môn đệ của tất các học
phái (tín
ngưỡng) xưa của Ấn độ ngoài Phật
Giáo, và một một số môn đệ của một vài chi phái nhỏ thuộc các học phái Phật
Giáo, chẳng hạn như chi phái Đại-tì-bà-sa luận (Vaibhashica). Chi phái này cho
rằng thế giới mang bản chất "nguyên tử" tức là được cấu tạo bởi các
hạt nguyên tử (đơn
vị) không thể phân cắt nhỏ hơn được nữa, và thế giới đó mang tính
cách khách quan và độc lập (xem thế giới bên ngoài là thật). Tóm lại là chi
phái này tin vào tính cách thực thể (réalité substentielle / substantial reality) của
mọi vật thể và sự kiện. Quan điểm này đã
bị chi phái Kinh Lượng Bộ (Sautantrika) bác bỏ hoàn toàn, bởi vì theo chi phái
này thì một số thể dạng nào đó của hiện thực - chẳng hạn như các tạo tác tâm
thần gồm toàn những thứ cấu hợp trừu tượng - chỉ có thể hình dung được trong
lãnh vực tư duy và khái niệm mà thôi. Điều này cho thấy rằng không thể nào gán
cho tất cả các vật thể và sự kiện bất cứ một quy chế tuyệt đối và khách quan
nào cả (thí dụ
như tư duy và khái niệm không thể nào là những thứ cấu hợp gồm những hạt nguyên
tử được). Các quan điểm trên đây cũng được các học phái Phật Giáo
khác đưa ra bàn thảo, và sự tranh luận cứ tiếp tục tiếp diễn như thế. Đấy cũng
chính là những gì mà Tịch Thiên muốn nêu lên để chứng minh quan điểm của ông
cho rằng chủ trương của trường phái này cũng có thể bị phủ nhận hay bác bỏ bởi
trường phái khác. Ngay cả đối với những người biết suy tư đã đạt được nhiều
trình độ tu tập khác nhau thì quan điểm của những người thuộc các cấp bậc cao
vẫn vượt xa hơn quan điểm của những người thuộc các cấp bậc kém hơn.
Vậy chúng ta hãy thử phân tích cẩn thận hơn sự nhận định cho
rằng quan điểm của những người bình dị
thiếu vững chắc và không thể theo kịp được quan điểm của những người biết suy
tư. Theo tôi thì sự đối chiếu các quan điểm như trên đây cũng chỉ nằm trong
khuôn khổ hạn hẹp của sự so sánh giữa các cấp bậc suy luận khác nhau. Đương
nhiên, trong việc bàn thảo về các quan điểm do các học phái Phật Giáo đưa ra
đôi khi cũng cần phải căn cứ vào tính cách chính thống trong các kinh sách ghi
chép những lời giảng huấn của chính Đức Phật. Dầu sao đi nữa thì chúng ta cũng
phải dựa vào sự lý luận; và do đó tất nhiên là quan điểm của những người biết
suy tư sẽ vượt xa hơn và vững chắc hơn so với quan điểm của những người bình
dị, bởi vì sự suy luận của họ được cân nhắc cẩn thận hơn. Chẳng hạn như một số
người chấp nhận vài nguyên tắc giáo lý do các chi phái, chẳng hạn như Kinh
Lượng bộ và Đại Tì Bà Sa Luận, đưa ra và cho đấy là đúng, thì thật ra họ cũng
chỉ lựa chọn và trích dẫn các tác phẩm nào đưa ra các luận cứ phù hợp với lập
trường của họ mà thôi. Dầu sao đi nữa ngay cả trường hợp nếu chấp nhận kinh
sách như là nền tảng chính thống duy nhất và bắt buộc phải căn cứ vào đấy để
phát biểu đi nữa thì chúng ta cũng có thể nhận thấy vô số lập trường khác nhau (tùy theo trình độ
hiểu biết, xu hướng, giáo dục và xung năng có sẵn - tức là những gì ảnh hưởng
từ nghiệp - mà mỗi cá thể sẽ diễn đạt hay đánh giá với ít nhiều khác biệt về
những gì đã được ghi chép trong kinh sách).
Đối với Phật Giáo nói chung và nhất là đối với Đại Thừa Phật
Giáo thì thật hết sức quan trọng là phải phân biệt được hai loại kinh sách của
Đức Phật. Một loại gồm các kinh sách có thể hiểu thẳng như thế - có nghĩa là
hiểu một cách từ chương và không cần phải suy xét gì cả - và một loại gồm các
kinh sách cần phải được bình giải tường tận hơn. Một khi đã chấp nhận có sự
khác biệt trên phương diện chú giải các văn bản cổ xưa thì chúng ta cũng sẽ có
đầy đủ lý do để phủ nhận sự thật ghi chép bằng chữ nghĩa của một văn bản, nhất
là nếu văn bản ấy đi ngược lại với những kinh nghiệm cảm nhận của chính mình,
dù đấy là những lời giáo huấn của Đức Phật cũng thế (nếu nhận thấy rằng khoa chú giải các kinh
sách cổ mang tính cách thiêng liêng - hermaneutic - đưa ra nhiều cách diễn đạt
khác nhau về một chủ đề ghi chép trong cùng một văn bản thì chúng ta cũng có
thể căn cứ vào sự kiện đó như là một bằng chứng để không chấp nhận một sự giải
thích hay một quan điểm nào đó đã được ghi chép bằng chữ viết trong các kinh
sách chính thống). Điều này cho thấy vai trò vô cùng chủ yếu của sự
suy luận và hiểu biết trong việc tu tập Phật Giáo (thật vậy nếu muốn tu tập Phật Giáo một cách
nghiêm chỉnh thì phải thấu hiểu tường tận và sâu xa giáo huấn của Đức Phật, nếu
không thì chẳng những việc tu tập của mình không có lợi ích gì mà còn có thể
mang lại cho mình thêm nhiều hoang mang. Thí dụ như làm lễ cầu an, cầu siêu...
mà tụng niệm câu sau đây trong Tâm Kinh: "hình tướng là trống không, trống
không là hình tướng" thì có phải là mâu thuẫn và khôi hài lắm chăng?).
Trong một quyển Kinh Đức Phật có giảng rằng người tu tập không nên chỉ vì kính
trọng Ngài mà chấp nhận những lời thuyết giảng của Ngàì. Người tu tập phải biết
đắn đo cẩn thận với một tinh thần chỉ trích cao độ và phải căn cứ vào các kinh
nghiệm cảm nhận của chính mình, tương tự như người thợ kim hoàn nhiều kinh
nghiệm đem vàng ra để thử bằng các phương pháp gắt gao nhất như rạch, nung hay
chà xát.
Chẳng hạn như khi Tịch Thiên cho
rằng quan điểm của những người tu tập ở cấp bậc thấp sẽ bị phủ nhận và vượt lên
trên bởi quan điểm của những người tu tập ở bậc cao hơn, thì trường hợp này có
thể hiểu như là một sự thật hiển nhiên dựa vào những kinh nghiệm nhận biết cá
nhân của chính mình. Nếu ước tính về sự hiểu biết hiện nay của mình về các chủ
đề như vô thường hay vô ngã của mọi vật thể và sự kiện nhằm để so sánh với khả
năng lĩnh hội trước đây của mình thì sự hiểu biết hiện nay của mình nhất định
là phải thâm sâu hơn, kể cả trường hợp có thể hoàn toàn thay thế được sự hiểu
biết trước đây của mình. Vì thế khi đã đạt được một tầm nhìn mới thì nó cũng sẽ
mang lại cho chúng ta những kinh nghiệm cảm nhận mới và cả những sự hiểu biết
mới về thế giới.
THIỀN ĐỊNH
Đến đây
chúng ta nên suy tư về sự thật của khổ đau và nguyên nhân làm phát sinh ra khổ
đau. Nguyên nhân của khổ đau là nghiệp, và nghiệp thì bị kích động và thúc đẩy
bởi các thể dạng tâm thức nhằm xui khiến chúng ta phạm vào sai lầm, chẳng hạn
như rơi vào các thứ tư duy và xúc cảm bấn loạn. Chúng ta hãy tự vấn như thế
này: khi có một xúc cảm bấn loạn bùng lên thì chúng ta sẽ cảm thấy như thế nào?
Nguyên nghĩa của chữ klesa là xúc cảm bấn loạn (kinh sách tiếng Việt dịch chữ này từ tiếng
Hán và gọi là phiền não, do đó không được sát nghĩa lắm), ngay cả trên
phương diện từ nguyên thuật ngữ này cũng đã cho thấy phải có một thứ gì đó bùng
lên trong tâm thức và từ đó sẽ làm phát sinh ra sự bấn loạn. Chúng ta hãy dành
ra vài phút để suy tư về chủ đề này và tự hỏi xem mình sẽ cảm thấy như thế nào
khi bùng lên những thứ tư duy và xúc cảm
bấn loạn, chẳng hạn như giận dữ, hận thù, ganh tị, và vô số những thứ xúc cảm
khác khiến cho chúng ta bị rối loạn. Chúng ta hãy tập trung thật mạnh để theo
dõi sự tàn phá của các thứ tư duy và xúc cảm ấy.
4
Phủ nhận quan điểm hiện thực của Tiểu Thừa (15)
SỰ HIỂU BIẾT SIÊU NHIÊN
Suy tư về vô thường
Đức Phật giảng rằng tất
cả ba lãnh vực hiện hữu (tức là tam giới:
dục giới, sắc giới và vô sắc giới) đều vô thường, tương tự như ảo
ảnh hay những tia chớp trên bầu trời. Tất cả các hiện tượng, vật thể vàsự kiện
đều hoàn toàn chỉ là những sản phẩm phát sinh từ sự kết hợp giữa nhiều nguyên
nhân và điều kiện. Vì thế chúng đều mang bản chất tạm thời - phù du và không
trường tồn. Sự sống của chúng sinh có giác cảm cũng chẳng khác gì một dòng thác
chảy xiếc và không bao giờ ngưng nghỉ dù chỉ trong một phút giây ngắn ngủi. Đời
sống của chúng sinh kéo dài bao lâu không ai biết được, sự hiện hữu của tất cả
chúng ta đều rất mong manh và tạm thời. Mỗi giai đoạn trong kiếp sống ngắn ngủi
đó được biểu trưng bởi một trong mười sáu thuộc tính (16) (attributs / attributes / các đặc tính riêng biệt và đặc thù)
của Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế):
trong số này bốn thuộc tính thứ nhất thuộc vào Sự Thật của Khổ Đau, và thuộc
tính thứ nhất trong số bốn thuộc tính ấy chính là vô thường.
Như đã nói trên, con
đường tu tập tâm linh khởi đầu bằng hai giai đoạn: trong giai đoạn thứ nhất
người tu tập phải làm giảm bớt đi những hành động tiêu cực phát sinh từ các thể
dạng tâm thức sai trái của mình. Trong giai đoạn này, cách suy tư về vô thường
dưới những thể dạng thô thiển nhất cũng đủ giúp ngăn chận các hành động tiêu
cực (thí dụ nếu ý thức được tiền của, danh vọng,
thân xác tất cả đều phù du thì chúng ta cũng sẽ tránh bớt được sự bám víu vào
các hành động tai hại như tham lam, mưu đồ, tính toán, lường gạt...).
Trong giai đoạn thứ hai thì phải suy tư về các thể dạng tinh tế hơn, có nghĩa
là phải thiền định thật sâu xa về bản chất năng động và thường xuyên biến đổi
của hiện thực. Việc suy tư hay thiền định này là liều thuốc hóa giải công hiệu
nhất giúp chúng ta ngăn chận các thể dạng tâm thần và các cảm nhận sai lầm tàng
ẩn bên trong các hành động tiêu cực của mình.
Thật
hết sức hiển nhiên, mục tiêu (finalité /
purpose, finality, aim / cứu cánh, chủ đích) của sự sinh là cái
chết, và cái chết thì nào có ai mong muốn đâu. Dù sao đi nữa thái độ bướng bỉnh
không nhìn thẳng vào cái chết nhất định không phải là một thái độ đúng đắn. Dù
muốn hay không thì cái chết vẫn là một sự kiện hiển nhiên của sự hiện hữu.
Trước bản chất không thể khắc phục được của một sự kiện chúng ta chỉ biết bó
tay mà thôi. Đấy là một hiện tượng mà sớm muộn tất cả chúng ta đều phải nhận
lãnh. Nếu so sánh giữa một người không chấp nhận suy tư về cái chết và một
người thường xuyên biết giữ một mối tương giao thân thiện với nó và nhìn thẳng
vào nó thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy ngay phản ứng của cả hai người sẽ khác
nhau như thế nào khi cái chết đến với họ. Do đó khi đã hiểu được tại sao Đức
Phật dạy chúng ta phải biết ý thức về cái chết và vô thường thì chúng ta cũng
sẽ hiểu rằng không nên hình dung Đạo Phật như là một con đường tâm linh yếm thế,
phát sinh từ những ám ảnh bệnh hoạn. Trái lại chúng ta nên xem Phật Giáo như là
một sự cổ vũ lớn lao thúc dục chúng ta phải biết giữ một mối dây thân thiện với
cái chết và chấp nhận nó như một sự kiện hiển nhiên của sự hiện hữu. Đến một
lúc nào đó khi phải đương đầu với nó thì
chúng ta sẽ không cảm thấy mình bị chấn động một cách quá đáng, hay cảm thấy
một thứ gì đó thật phi lý và kinh hoàng xảy đến với mình một cách bất ngờ, khi
mình không hề mong đợi. Nếu biết nhìn thẳng vào cái chết lúc còn khoẻ mạnh thì
chúng ta cũng sẽ giữ được sự bình tĩnh và thanh thản và tránh khỏi những lo âu
vô ích khi những giây phút cuối cùng xảy đến với mình. Nhờ vào sự thăng tiến
tuần tự trên đường tu tập tâm linh, rồi biết đâu đến một ngày nào đó nhờ may
mắn bỗng nhiên chúng ta cảm thấy mình đã chiến thắng được mọi thứ lo âu về cái
chết và vượt lên trên cả cái chết (sự Giác Ngộ xảy
đến tuần tự theo từng cấp bậc một và đôi khi rất bất ngờ, nó xảy đến trong
những lúc mà chúng ta không hề mong đợi).
Khắc phục tình trạng bất toại
nguyện dai dẳng
Kinh sách nêu lên bốn
loại ma vương biểu trưng cho bốn sức mạnh đày đọa con người. Con ma đứng đầu là
cái chết. Con ma thứ hai là sự tan rã của các cấu hợp vật chất và tâm thần (theo Phật Giáo Tây Tạng cái chết theo cách hiểu thông thường
hay cách thẩm định của y khoa chỉ là giai đoạn đầu của một quá trình kéo dài từ
khi hết thở, tim hết đập, năm thứ cấu hợp - ngũ uẩn - tan rã, cho đến khi bắt
đầu một sự cấu hợp mới đưa đến một sự hình thành mới, đánh dấu một "sự
sinh" mới - còn gọi là thụ thai). Con ma thứ ba biểu trưng cho
sự tiếp nối liên tục (continuum) của các cấu hợp tâm thần tồn lưu từ kiếp sống này sang kiếp sống khác (tức là nghiệp ghi khắc trên dòng tri thức). Nguyên
nhân tạo ra sự luân lưu đó chính là các thứ xúc cảm và tư duy bấn loạn của
chúng ta (các xúc cảm và tư duy bấn loạn tác động và ghi khắc dấu vết của chúng
trên dòng tri thức của mỗi cá thể chính là nguyên nhân tạo ra vòng luân hồi của
cá thể ấy, và đấy là tên ma vương thứ ba và cũng là tên ma vương kín đáo nhất).
Con ma thứ tư là sự bám víu làm gia tăng thêm sức mạnh cho các yếu tố bấn loạn
mang lại các khổ đau trên đây. Nếu muốn tu tập Phật Giáo thì trước hết phải
phát huy được lòng ước vọng chân thành chiến thắng bốn thứ ma ấy. Khi nào thực
hiện được điều này thì tự nhiên người tu tập cũng sẽ phát lộ được lòng quyết
tâm bước vào con đường đưa mình đến sự thành công.
Tóm lại người tu tập chính là phải phấn đấu chống
lại các thứ xúc cảm và tư duy bấn loạn tức là các nguyên nhân đầu tiên tạo ra
vô minh căn bản của chính mình - nói cách khác thì đấy là tình trạng bám víu
vào các vật thể và sự kiện và xem chúng như hàm chứa một hiện thực tự tại. Nếu
muốn loại trừ thể dạng tâm thần đó thì nhất thiết phải bước vào con đường tâm
linh gồm ba phép tu tập chủ yếu là: giữ giới, thiền định và phát huy sự hiểu
biết thượng thặng (tu giới, tu định và tu tuệ).
Phép luyện tập thứ nhất nhằm
mục đích mang lại cho mình một lối sống phù hợp với đạo đức, nhờ biết suy tư về
vô thường. Khi còn bám víu vào các cảm
tính về sự trường tồn thì chúng ta vẫn sẽ không sao hội đủ được các khả năng
cần thiết hầu mang lại cho mình một cuộc sống đạo đức (khi nào
vẫn còn cảm thấy mọi sự vững bền và mang một giá trị nào đó thì khi ấy chúng ta
cũng sẽ còn tiếp tục bám víu vào đấy và xem chúng là "cái tôi" và
"cái của tôi". Mọi thứ xúc cảm bấn loạn theo đó sẽ phát sinh và khổ
đau sẽ xảy đến không sao tránh khỏi được). Tóm lại điều quan trọng hơn cả là phải luôn suy tư về
bản chất phù du của sự hiện hữu này của chính mình. Chúng ta không nên chỉ biết
đơn giản sử dụng các thuật ngữ liên quan đến vô thường để bàn thảo với nhau về
cái chết mà phải nêu lên các khía cạnh thật tinh tế của nó hầu quán thấy bản
chất biến đổi liên tục của các hiện tượng, nhằm khám phá ra sự vắng mặt của sự
hiện hữu độc lập nơi các vật thể và sự kiện. Sự vận hành của bất cứ một hiện
tượng nào cũng đều bị chi phối bởi sự kết hợp giữa một số nguyên nhân và điều
kiện nào đó. Hiện tượng này tỏ ra hết sức đúng đối với các thứ cấu hợp vật chất
và tâm thần của chúng ta, bởi vì chúng luôn bị chi phối và điều khiển bởi
nghiệp và các nhân tố bấn loạn của chúng ta (xinh đẹp
hay xấu xí, thông minh hay đần độn, hung dữ hay hiền lành, rộng lượng hay keo
kiệt... tất cả đều do nghiệp và các nhân tố tâm thần - tác ý - của mình tạo ra, chúng không hàm chứa
một sự hiện hữu tự tại nào cả. Các phẩm tính cũng như các khuyết điểm ấy đều
mang tính cách tạm thời, và do đó có thể loại bỏ được chúng, hoặc ngược lại có
thể làm cho chúng tăng thêm sức mạnh hay biến đổi khác đi).
Do đó những cảm nhận sai lầm, tức là vô minh của
mình là những gì sẽ chi phối và điều khiển sự hiện hữu của chúng ta, một sự
hiện hữu phải nhờ vào nhiều điều kiện mà có. Vì thế hễ còn bị khống chế bởi các
thể dạng tâm thần méo mó ấy thì chúng ta sẽ vẫn còn tiếp tục bị đày đọa trong
cảnh giới luân hồi, và cuộc sống cũng chỉ gồm toàn các thể dạng bất toại nguyện
và khổ đau mà thôi. Chính vì thế sự thiếu hiểu biết căn bản (tức là vô minh) trên
đây chính
là nguyên nhân chính yếu nhất làm phát sinh ra tất cả mọi thứ xúc cảm và tư duy
bấn loạn (vô minh không phải là một sự đần độn mà đúng hơn là một sự hiểu biết sai
lầm về hiện thực. Thí dụ một người rất thông minh thế nhưng tâm thức của người
ấy mang đầy lo âu, sợ hãi, nuôi dưỡng những mưu đồ, tính toán... thúc đẩy người
ấy phạm vào những việc xằng bậy. Những thứ xúc cảm bấn loạn ấy sẽ trở nên nguy
hiểm và đưa đến những tai hại rộng lớn hơn nhiều đối với những người thông minh
so với những người đần độn. Một vị lãnh đạo thông minh nhưng tàn bạo và biển
lận có thể hủy hoại cả một quốc gia, còn những kẻ đần độn thì cùng lắm là chỉ
biết đánh nhau ngoài đường phố. Cả hai đều vô minh). Khi đã ý thức được sự kiện đó thì chúng
ta cũng sẽ hiểu rằng một khi chúng ta vẫn còn bị thống trị bởi tên bạo chúa ấy (tức là vô minh)
thì nhất định chúng ta cũng sẽ không sao tìm thấy được một khoảng trống nào
trong tâm thức hầu giúp cho sự an bình và thanh thản (tức là trí tuệ)
có thể nẩy nở và tồn tại lâu bền hơn. Chính vì thế chúng ta phải luôn khơi động
lòng ước vọng chân thành mong sao đạt được sự giải thoát từ nơi sâu kín nhất
trong tim mình.
Mong cầu hạnh phúc và lẫn tránh khổ đau là những
gì thật tự nhiên và sâu kín nơi mỗi con người, thế nhưng sự hiện hữu của chúng
ta thì lại mang đầy khổ đau. Trong chuỗi dài níu kéo của khổ đau ấy hạnh phúc
chỉ thoáng hiện thật mong manh. Tại sao chúng ta lại phải gánh chịu tình trạng ấy?
Chẳng qua vì đấy là tình trạng phát sinh từ vô minh căn bản của mình. Vậy phải
làm thế nào để có thể quán nhận được rằng sự thiếu hiểu biết ấy (tức vô minh)
chính là nguồn gốc mang lại mọi thứ khổ đau, và phải luyện tập như thế nào để
có thể loại trừ được nó? Tất nhiên là không thể nào chỉ hy vọng rằng một ngày
nào đó nó sẽ tự biến mất, và cũng không thể chỉ biết cầu nguyện rồi đây mình sẽ
có đủ khả năng làm cho nó tan biến đi. Cố gắng giữ vững tâm thức trong trạng
thái trung hòa, phi khái niệm (có nghĩa là tìm cách lẫn trốn hoặc không nghĩ đến hay quan tâm đến thể
dạng vô minh của mình) cũng không đúng. Chỉ khi nào ý thức được là
các thứ ảo giác đều phát sinh từ những thể dạng méo mó tâm thần thì mới có thể
xóa bỏ được tấm màn vô minh mà thôi. Vì thế sau khi đã giảng về vô thường thì
Đức Phật mới giảng về bản chất của khổ đau hay sự bất toại nguyện là gì, và sau
cùng thì Ngài mới giải thích thế nào là không có cái tôi (vô ngã).
Sau đây là bốn thuộc tính (attributes / các đặc tính) của
khổ đau: thuộc tính thứ nhất là vô thường, khi đã thấu hiểu được vô thường là
gì thì sau đó chúng ta sẽ hiểu được dễ dàng hơn tầm quan trọng của thuộc tính
thứ hai là sự bất toại nguyện (bất toại nguyện là khổ đau sâu kín và dai dẳng nhất, và nguyên nhân tạo ra
nó chính là vô thường); thuộc tính thứ ba là Tánh Không (vì không chấp nhận tính cách
vô thực thể của mọi sự vật nên chúng ta bám víu vào đấy và để tự mang lại khổ
đau cho mình); và thuộc tính thứ tư là bản chất vô ngã
của con người, của mọi vật thể và sự kiện (không chấp nhận vô ngã nên "cái
tôi" và cái "của tôi" sẽ hành hạ mình).
Nếu muốn quán triệt được ý nghĩa của bốn thuộc tính của khổ đau thì phải suy tư
theo một quá trình diễn tiến theo nhiều cấp bậc tuần tự: cấp bậc đầu tiên là
phải quán nhận minh bạch về thuộc tính thứ nhất (vô thường).
Khi
nào phát huy được sự hiểu biết Tánh Không (thuộc tính thứ ba)
thì khi đó chúng ta cũng sẽ ngăn chận được sức tác động của vô minh nguyên thủy.
Dầu sao sự hiểu biết đó còn phải cần đến sự hỗ trợ của một số yếu tố hữu hiệu
khác nữa, chẳng hạn như lòng từ bi và tình nhân ái (bodhicitta / bồ-đề tâm).
Chỉ có sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố trên đây - sự hiểu biết siêu nhiên (trí tuệ)
và phương pháp luyện tập (thiền định) - thì mới có thể mang lại cho chúng ta
khả năng loại trừ hoàn toàn các thể dạng méo mó tâm thần và cả các thói quen
mang tính cách bản năng, phát sinh từ những tư duy bấn loạn. Đối tượng của sự
hiểu biết tối thượng ấy chính là Tánh Không và cũng là chủ đề chính yếu nhất
trong chương thứ IX tác phẩm của Tịch Thiên (xin lưu ý đến ý nghĩa của câu
này: "đối tượng của trí tuệ chính là Tánh Không ").
BÌNH
GIẢI
Phủ nhận các biểu hiện hình tướng bên ngoài
Trước đây Tịch Thiên đã từng nêu lên cho
thấy căn bản giáo lý và quan điểm của các trường phái yếu kém trong Phật Giáo
cũng có thể bị các trường phái cao siêu hơn chẳng hạn như Trung Quán Tông
(Madhyamaka) sử dụng các phương pháp lập luận để đánh đổ. Tuy nhiên nếu muốn
cho các phương pháp lập luận ấy được vững chắc thì nhất thiết phải dựa vào các
dẫn chứng mang tính cách tương đồng (analogy) và các thí dụ đã được công nhận
một cách rộng rãi.
Tiết 4c,d. Dầu sao thì cả hai thể loại ấy
bắt buộc phải mang tính cách tương đồng và thuộc vào cùng một lãnh vực so sánh,
và cho đến khi nào chưa có một sự phân tích khác (chứng minh cho thấy sự so sánh
ấy là sai).
Khi Tịch Thiên nêu lên việc sử dụng phép so sánh
tương đồng thì đấy cũng chính là cách ông muốn nói lên rằng ngay cả trong lãnh
vực quy ước thường nhật, một số hiện tượng cũng phải được xem là không thật hay
là nhầm lẫn: chẳng hạn như ảo ảnh hay những gì hiện ra trong giấc mơ, bởi vì
không có một bằng chứng nào có thể chứng minh được tính cách hiện thực của
chúng. Nhóm Trung Quán sử dụng phép tương đồng để chứng minh rằng các hiện
tượng ngay cả trên phương diện quy ước (tức thuộc vào thế giới cảm nhận được
bằng giác cảm) đều mang tính cách sai lầm, nhằm mục đích
nêu lên tính cách không thật của các hiện tượng (nói chung),
lý do là mỗi khi muốn chứng minh bản chất đích thật (nature)
của các vật thể hay sự kiện thì nhất định chúng ta cũng sẽ không sao tìm thấy
được chúng (thí dụ chúng ta không thể nào chứng minh được tính cách xác thực của một
vật thể hay một sự kiện hiện ra trong giấc mơ. Ngoài các giấc mơ, có nghĩa là
trong trong thế giới quy ước của cuộc sống thường nhật, chúng ta cũng không sao
tìm thấy được tính cách hiện thực hay xác thực của một vật hay một sự kiện nào
đó, bởi vì chúng luôn chuyển động và đổi thay, hiện ra và biến mất với tốc độ
nhanh hay chậm mà thôi. Cá thể con người, cảnh vật, mùa màng, cây cỏ, vẻ xinh
đẹp hay xấu xí, các xúc cảm - chẳng hạn như yêu thương, oán hờn, lo âu, sợ sệt,
yêu thích, ghét bỏ... - là các quy ước và thể tính diễn đạt mà chúng ta đem áp
đặt cho các hiện tượng, và dựa vào các hiện tượng đó chúng ta tự tạo ra hay
hình dung ra cho mình một thế giới riêng. Cái thế giới đó của riêng mình khác
với cái thế giới riêng của một người khác, thế nhưng cả hai đều có thể hiểu
được nhau với một mức độ nào đó và đồng thời cả hai cùng hình dung ra một thế
giới chung nhờ vào các quy ước hiểu ngầm với nhau. Thế giới riêng hiện ra với
từng người và thế giới chung hiện ra với nhiều người, nó tùy thuộc vào các quy
ước mà số người ấy đã áp đặt cho nó, nói rộng ra là chúng ta sống trong một thế
giới chung do con người tạo dựng ra bằng quy ước. Vì thế một khi con người còn
hiện hữu thì thế giới chung ấy vẫn còn hiện hữu. Khi sự hiện hữu của một cá thể
chấm dứt thì thế giới riêng của hắn cũng như thế giới chung mang tính cách quy
ước mà hắn cảm nhận được bằng lục giác của chính hắn cũng sẽ tan biến đi trong
quá trình của cái chết và chấm dứt với hắn. Đấy là tính cách vô thực thể - hay
là Tánh Không - của cái thế giới riêng của mỗi người trong chúng ta và của cả
thế giới chung mà mình cảm nhận được).
Khi mới tu tập tuy rằng chúng ta cũng có thể hiểu
được thế nào là Tánh Không nhờ vào sự suy diễn (interference)
- chẳng hạn như nhờ vào một quá trình suy tư (processus intellectuel /
intellectual process) bằng cách sử dụng lý trí (reason)
hay phép lập luận (argumentation / argument), hoặc bất cứ một
phương tiện nào - thế nhưng sau cùng thì
sự hiểu biết Tánh Không nhất định cũng chỉ có thể thực sự đạt được bằng kinh
nghiệm trực tiếp (thí dụ như khi tôi đang đánh các dòng chữ này, tuy là tôi đang gõ vào bàn phím
thế nhưng thật ra không có một câu nào có sẵn trên bàn phím cả, tác ý trong đầu
tôi điều khiển các ngón tay để gõ vào bàn phím, động tác của các ngón tay chỉ
là những phản ứng điều khiển bởi tâm ý,
và những gì hiện ra trên màn hình của máy vi tính thì cũng chỉ là hậu quả phát
sinh từ sự kết hợp của vô số nguyên nhân gồm có nghiệp và tâm ý của tôi kết hợp
với vô số những điều kiện khác tức là cơ duyên, chẳng hạn như chiếc máy vi
tính, bàn phím, màn hình, hệ thống internet, cha mẹ tôi sinh ra tôi, tôi lớn
lên nhờ cơm gạo của không bao nhiêu người nông dân làm ra, lớn lên được đi học
và biết chữ, v.v. và v.v.. Tất cả những điều kiện ấy liên kết với nhau xuyên
qua sự vận hành của ngũ uẩn đang tạm thời tạo ra "cái tôi" của tôi mà
thôi. Nếu có một độc giả nào đó mở máy và đọc các dòng chữ này thì người ấy
cũng sẽ không thể nào biết tôi là ai và đang ở đâu, bởi vì "cái tôi"
viết ra những dòng chữ này đã không còn nữa. Lý do rất dễ hiểu bởi vì nghiệp,
cơ duyên, và ngũ uẩn tạo ra "cái tôi" hiện ra trong lúc gõ vào bàn
phím để "viết ra" những dòng chữ này đã biến mất, "cái tôi"
của tôi đang hiện ra với tôi trong lúc này - tức là khi người đọc đang đọc các
dòng chữ này - chỉ là hậu quả mang lại từ "cái tôi" của tôi trước đây
mà thôi. Nếu bạn là người đang đọc thì nhất định đấy cũng chỉ là kết quả từ một
sự kết hợp của vô số nghiệp và cơ duyên liên hệ đến chính bạn, đang "điều
khiển" và "chi phối" bạn nhằm tạo ra cho bạn một số điều kiện
hay cơ duyên thích nghi giúp bạn đọc được các dòng chữ này. Ý thức được sự kiện
đó là cách cảm nhận được Tánh Không một cách trực tiếp xuyên qua từng hành động
thật nhỏ nhặt và bình thường. Nghiên cứu và tìm hiểu Tánh Không nhờ sách vở hay
bằng cách nghe giảng chỉ biểu trưng cho một quá trình suy diễn mang tính cách
trí thức, không liên hệ gì cả với thí dụ vừa nêu lên).
Vì thế kinh sách thường so sánh sự hiểu biết dựa vào phép suy diễn (connaissance déductive /
deductive knowledge) cũng tương tự như một người mù dò đường
bằng một chiếc gậy màu trắng (dù chiếc gậy được sơn bằng màu nào đi nữa thì việc dò đường cũng chỉ là
một sự dọ dẫm. Suy diễn nhờ vào phép lập luận nào hay các thí dụ nào thì cũng
chỉ là một sự suy diễn đơn thuần). Sự hiểu biết ấy
không phải là một kinh nghiệm hiểu biết trực tiếp mà chỉ là một thứ gì đó nhờ
vào lý luận và phán đoán mà có, và vì thế nó chỉ có thể được xem như tương tự
với kinh nghiệm hiểu biết trực tiếp mà thôi. Dầu sao trong giai đoạn khởi đầu,
sự suy diễn đơn thuần đôi khi cũng đủ để giúp chúng ta bắt đầu cảm nhận được Tánh
Không hay bản chất tối hậu của hiện thực là gì.
Trong khi khái niệm cho rằng mọi hiện tượng hàm
chứa một sự hiện thực khách quan ngày càng trở nên lung lay thì khoa học hiện
đại - chẳng hạn như ngành vật lý nghiên cứu về các hạt vi thể cơ bản (có nghĩa là ngành vật lý
nghiên cứu về các hạt vật chất cực vi như: quartz, lepton, bozon...)
- cũng bắt đầu chuyển hướng nhằm quan tâm nhiều hơn đến việc tìm hiểu bản chất
đích thật của hiện thực. Tất nhiên là sự hiểu biết khoa học không trực tiếp
liên hệ đến lãnh vực giáo lý Phật Giáo, thế nhưng các khoa học gia tức là các
chuyên gia thuộc các ngành nghiên cứu trên đây, khi dựa vào các kết quả mà họ
đã khám phá được, thì gần như hầu hết đều đưa ra cùng một kết luận như nhau là
đành phải chấp nhận khái niệm về tính cách vô-thực-thể của mọi sự vật và biến
cố (có nghĩa là các
khoa học gia không sao chứng minh được bản chất hiện thực của vật chất, nói
cách khác là Tánh Không đã được chứng minh bằng các phương pháp khoa học).
Dầu sao theo Tịch Thiên thì quan điểm đó (tức là tính cách vô-thực-thể của mọi
sự vật và biến cố) cũng có thể chứng minh được bằng nhiều cách: bằng lý luận
(reason)
hay bằng các luận cứ (argument). Trái lại không có một tiền đề hiển nhiên
(prémisse /
premise) nào để chúng ta có thể dựa vào đó mà chứng
minh được là các vật thể và sự kiện hàm chứa một sự hiện hữu nội tại, khách
quan và tự chủ.
Trên đây cũng là cách gợi ý của tác giả tập Hành trình đến Giác Ngộ để nói đến những
người chủ trương hiện thực luôn tìm cách chống lại chủ thuyết của nhóm Trung
Quán, khi nhóm này phủ nhận sự hiện hữu nội tại của mọi vật thể và sự kiện. Bởi
vì theo họ (những người hiện thực) nếu không có gì hiện hữu nội tại thì làm
thế nào một người tu tập lại có thể đạt được sự giải thoát (nếu không có gì hiện hữu đích
thật thì tu tập cái gì và để đạt được cái gì?).
Đấy chính là cách mà những người thuộc nhóm Kinh Lượng Bộ (Sautrantika) cho
rằng nếu hiểu Tánh Không một cách từ chương (tức là trống không và không có
cái gì cả) thì ngay cả quy luật nguyên nhân hậu quả
cũng phải bác bỏ.
Nhóm Trung Quán phản biện lại rằng giáo lý Tánh
Không và khái niệm về nguyên nhân hậu quả thuộc hai lãnh vực khác nhau và do đó
không có gì tương đồng để mà so sánh. Những gì mà những người Trung Quán phủ
nhận là tính cách vững chắc của quy luật nguyên nhân hậu quả trong lãnh vực của
sự thật tối hậu (Đối với Tánh Không hay sự thật tối hậu thì ngay cả niết bàn hay cõi luân
hồi cũng là trống không. Đạt được Tánh Không có nghĩa là đạt được Giác Ngộ và
sự giải thoát, nói cách khác là tháo gỡ được tất cả các quy luật của cõi luân
hồi, trong đó bao gồm cả quy luật nguyên nhân hậu quả. Điều này tỏ ra hợp lý vì
khi đã đạt được sự giải thoát thì quy luật nguyên nhân hậu quả sẽ không còn
hiệu lực nữa, và đó cũng là một trong nhiều cách định nghĩa về thể dạng niết
bàn). Họ chỉ công nhận sự vững chắc của quy luật này
duy nhất trong lãnh vực quy ước. Những người Trung Quán chấp nhận thế giới quy
ước đúng là như thế, không cần phải phân tích bản chất tối hậu của mọi sự vật
hay tìm hiểu ý nghĩa tàng ẩn phía sau các ngôn từ và khái niệm (trong lãnh vực của sự thật
tương đối), và đối với họ quy luật nguyên nhân hậu
quả cũng chỉ là một thành phần của lãnh vực quy ước, và vì thế nên họ cũng chấp
nhận quy luật này một cách giản dị như những thành phần khác thuộc lãnh vực quy
uớc của cuộc sống thường nhật. Tóm lại trong lãnh vực của sự thật tương đối và
quy ước, việc tu tập có thể mang lại sự giải thoát và Phật Tính.
Tịch Thiên còn cho
biết thêm:
Tiết
5. Những người bình dị nhìn vào các
sự vật
và cho rằng chúng đúng thật là như thế, và không nghĩ rằng chúng chỉ là ảo
giác. Và đấy chính là điểm bất đồng chính kiến giữa những người suy tư và những
người bình dị.
Trước hết Tịch
Thiên nêu lên cách lập luận của những người chủ trương hiện thực và sau đó là
các cách phản biện lại của những người Trung Quán: "Nếu quý vị chấp nhận
sự vững chắc của thế giới quy ước trong đó gồm có quy luật nguyên nhân hậu quả,
và đối với chúng tôi thì chúng tôi lúc nào cũng cho rằng sự vững chắc đó hoàn
toàn đúng thật, vậy nếu căn cứ vào sự hiển nhiên đó thì chúng tôi có thể kết luận rằng nguyên nhân cũng như hậu quả
phải hàm chứa một sự hiện hữu nội tại. Vậy thì sự tranh luận giữa chúng ta phải
đặt trên cơ sở nào đây (những người Trung
Quán chấp nhận quy luật nguyên nhân hậu quả trong lãnh vực sự thật quy ước,
những người Duy Thực cũng cho rằng sự vững chắc đó đúng thật, vậy đâu có gì để
mà tranh luận)? Chẳng lẽ sự tranh luận chỉ đơn giản căn cứ vào việc
định nghĩa các thuật ngữ hay sao?". Nhóm Trung Quán phản kháng lại như
sau: "Không hẳn là như thế. Chẳng qua vì quý vị là những người chủ trương
Duy Thực nên quý vị chẳng những tin vào sự vững chắc của quy luật nguyên nhân
hậu quả ở cấp bậc quy ước mà hơn thế nữa còn tin có một thực thể nội tại và
khách quan nơi mọi sự vật và biến cố, và vì thế nên quý vị xem chúng như hàm chứa
một quy chế độc lập, khách quan và tự chủ (tức
không cần tương kết với các nguyên nhân và hậu quả khác tức là các hiện tượng
khác). Tiếp theo đó nhóm người Trung Quán còn giải thích thêm như
sau: "Dù cho sự suy nghĩ của chúng tôi có sai lầm và các vật thể cũng như sự
kiện có hiện ra như hàm chứa một sự hiện thực nội tại, tự chủ và vượt khỏi khả
năng cảm nhận của chúng tôi đi nữa, thì chúng tôi vẫn tin rằng đấy cũng chỉ là
những hình tướng bên ngoài hay ảo giác mà thôi. Theo chúng tôi nghĩ thì có một
sự tách biệt nào đó giữa phong cách hiện hữu của các sự vật và phương cách mà
chúng ta cảm nhận được chúng. Những gì vừa được nêu lên nào có liên hệ gì đến
cách định nghĩa các thuật ngữ đâu!".
Tiết
6a,b. Hình tướng và các đối tượng giác cảm khác (xúc cảm, âm thanh, cứng, mềm, nóng, lạnh...) tỏ ra
thật hiển nhiên theo sự hiểu biết thông thường, thế nhưng đấy không
phải là một sự hiểu biết đích thật.
Những người chủ trương Duy Thực và những
người thuộc Trung Quán đều chấp nhận sự hiện hữu của mọi hình tướng, các vật thể
và sự kiện. Sự khác biệt giữa quan điểm của hai nhóm là hình tướng có phải thật
sự hiện hữu đúng với phong cách mà chúng hiện ra như thế hay không. Những người
Duy Thực tin rằng không những hình tướng hiện hữu mà còn hiện hữu đúng theo
cách mà chúng ta cảm nhận được chúng. Theo họ thì sự cảm nhận của chúng ta về
mọi sự vật và biến cố đều vững chắc. Họ khẳng định rằng chúng đều hàm chứa một
sự hiện thực khách quan và nội tại (cái nhìn của những người Duy Thực quả là cứng nhắc, do đó
họ thấy mọi vật thể và sự kiện dừng lại trong không gian và thời gian và mang
một thực tại nào đó. Thế nhưng thật ra chúng "dính liền" và
"buộc chặt" vào hai yếu tố bất khả phân là không gian và thời gian.
Hai yếu tố "vật lý" này luôn luôn chuyển động và kéo theo với chúng
mọi vật thể và sự kiện, tất cả đều cùng nhau biến động: thời gian, không gian, các
vật thể và sự kiện đều níu kéo nhau, tương tác với nhau và đổi thay liên tục.
Không có bất cứ gì có thể gọi là một thực thể tự tại cả. Đấy là chưa nói đến
một sự vật duy nhất sẽ hiện ra dưới những hình tướng khác nhau đối với mỗi
người quan sát cùng một sự vật đó, bởi vì các hình tướng ấy hiện ra tùy thuộc
vào góc nhìn và sự bén nhạy của cơ quan giác cảm của mỗi người, đấy là chưa kể
đến nghiệp của họ tác động đến sự diễn đạt của họ về vật thể ấy khi họ cảm nhận
được nó).
Các người Trung Quán
đáp lại rằng nếu thật sự các vật thể và sự kiện dưới các thể dạng hình tướng
được nhận biết một cách vững chắc đúng như sự cảm nhận bằng các giác quan của
chúng ta đi nữa, thì điều đó không có nghĩa là các sự cảm nhận ấy cũng sẽ phải
vững chắc dưới tất cả mọi khía cạnh. Các sự nhận biết ấy chỉ vững chắc khi quán
nhận các đối tượng, thế nhưng chúng sẽ hoàn toàn lầm lẫn khi cho rằng các đối
tượng ấy hàm chứa một sự hiện hữu nội tại, độc lập và khách quan (nhận biết một sự vật đơn thuần bằng giác quan thì đúng, bởi
vì nó đang "có" và đang "phù hợp" với sự cảm nhận của mình
vào chính lúc ấy, thế nhưng nếu sử dụng tri thức để diễn đạt sự cảm nhận ấy và
cho rằng đúng là nó "có thật" và còn tiếp tục "hiện
hữu" thì không đúng).
Tóm lại theo quan điểm của nhóm Trung Quán thì sự
cảm nhận mang hai khía cạnh khác nhau. Một khía cạnh mang tính cách vững chắc
và một khía cạnh mang tính cách lừa phỉnh và sai lầm. Khi đã nhận thấy được
điều đó thì chúng ta cũng sẽ hiểu rằng một sự nhận thức duy nhất cũng có thể
mang hai khía cạnh hiểu biết khác nhau. Sự kiện nhận biết trực tiếp và vững
chắc được các đối tượng không có nghĩa bắt buộc là chúng cũng phải hàm chứa một sự
hiện hữu nội tại và khách quan. Sự bất đồng chính kiến trên đây là điểm then
chốt nhất trong cuộc tranh luận giữa Thanh Biện (Bhavaviveka, 500-578, một vị đại luận sư người Ấn về lô-gic
học thuộc Trung Quán Tông) và Nguyệt Xứng (Chandrakirti), và cũng từ
đó đã làm phát sinh hai chi phái là Y Tự Khởi Tông (Svatrantika) và Cụ Duyên
Tông (Prasangika) trong Trung Quán Tông. Cuộc tranh luận giữa hai vị trên đây
xoay quanh chủ đề nêu lên thắc mắc: có thể có một số đối tượng nào đó được
thiết lập chung cho cả hai quan điểm Duy Thực và Trung Quán hay không, tức có
nghĩa là các đối tượng hàm chứa một sự hiện hữu nội tại và một bản thể đích
thật? (nhóm Duy Thực cho rằng các đối tượng hiện hữu
thật, nhóm Trung Đạo cho rằng chúng chỉ thật trên phương diện hình tướng nhưng
không thật trên phương diện tối hậu, vậy có đối tượng nào có thể hiện hữu thật
và nội tại trên cả hai lãnh vực hình tướng và sự thật tuyệt đối hay không?).
Tiết
6 tiếp tục nêu lên như sau:
Tiết
6c,d. Dầu sao thì các cách hiểu biết thông thường đều sai lầm, tương tự như cho
những gì ô nhiễm là tinh khiết.
Nhóm Duy Thực đáp lại như sau: nếu các vật
thể và biến cố không có một thực thể tự tại và một bản chất riêng biệt cho
chúng, và nếu như chúng không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại và khách quan,
thì tại sao tất cả chúng ta lại nhận biết ngược lại (tức là trông thấy hay nhận thấy được
các vật thể và sự kiện sờ sờ trước mặt và chúng đều tỏ ra hàm chứa một bản chất
thật và một sự hiện hữu thật)?
Theo cách nhận biết thông thường thì các vật thể và sự kiện có vẻ như là có
thật, ít nhất là trong lãnh vực cảm nhận. Đối với sự kiện này nhóm người Trung
Quán cho rằng một sự thỏa thuận chung (có nghĩa là thông thường thì mọi người đều công nhận như
thế) không phải là một bằng chứng
để xem đấy là sự thật. Thí dụ như hầu hết những người bình dị đều cho rằng thân
xác tinh khiết, thế nhưng thật ra thì nó ô nhiễm và không tinh khiết, bởi vì nó
được cấu hợp bởi các thành phần uế tạp (ruột gan, xương tủy, máu mủ, các chất bài tiết, mùi hôi,
bệnh tật, và trong tâm thức thì đầy mọi thứ khổ đau, hung dữ, lo buồn, tham
lam, hận thù, mưu tính, v.v...).
Trên đây là các luận cứ mà những người Trung Quán nêu lên để giữ vững lập
trường của mình trước cách lập luận của những người Duy Thực. Một trong các
phương pháp mà nhóm Trung Quán sử dụng để bảo vệ quan điểm của mình là cách
chứng minh sự tin tưởng vào một sự hiện hữu nội tại sẽ mâu thuẫn với các kinh
nghiệm cảm nhận thường nhật (trong
cuộc sống thường nhật chúng ta thường xuyên nhận thấy các vật thể và sự kiện hiện
ra và biến mất: người già qua đời, một vật nào đó bị hủy hoại, một tư duy hay
xúc cảm thoáng hiện ra trong tâm thức và biến mất sau đó, một cách cụ thể hơn
chẳng hạn như một con gà bị giết, nhổ lông, chặt nhỏ để nấu nướng và mang ra ăn,
"con gà" trước đây còn đang chạy ở sân, nay không còn nữa).
Tiết dưới đây nêu lên phương cách mà nhóm Trung
Quán sử dụng để bảo vệ quan điểm triết học về Tánh Không của mình, nhằm chống
lại sự bài bác của nhóm Duy Thực khi họ đưa ra những luận cứ dựa thẳng vào kinh
điển ghi chép những lời giáo huấn của Đức Phật.
Tiết 7a,b,c. Sở dĩ Đức Phật giảng rằng các sự vật hàm
chứa một thực tại, ấy chỉ là cách giúp chúng sinh bước vào con đường (tu tập). Trong lãnh
vực của sự thật tuyệt đối, chúng không hiện hữu, dù chỉ là tạm thời.
(Nên hiểu rằng Đức Phật giảng cho nhiều người
nghe ở các trình độ khác nhau. Ngài nêu lên các quy luật chi phối sự vận hành
của thế giới, ngũ uẩn, tam giới, lục đạo, niết bàn, cõi luân hồi, v.v... trong
lãnh vực của sự thật tương đối, và Ngài giảng về Tánh Không và vô ngã khi đề
cập đến lãnh vực của sự thật tuyệt đối).
Nhóm Duy Thực chống lại quan điểm của nhóm
Trung Quán bằng cách đưa ra các luận cứ sau đây: trong lần thuyết giảng đầu
tiên trước quảng đại quần chúng Đức Phật đã khẳng định rằng mọi sự vật và hiện
tượng chẳng những hiện hữu mà còn hàm chứa các đặc tính riêng biệt nữa, chẳng
hạn như tính cách phù du, vô thường và bất toại nguyện. Nhóm Duy Thực còn nhấn
mạnh thêm là nếu mọi hiện tượng không hiện hữu một cách tự tại thì làm thế nào
chúng ta có thể xác định được là chúng hàm chứa các đặc tính ấy?
Các người Trung Quán
phản biện lại rằng chủ đích tiên khởi của Đức Phật khi đưa ra những lời thuyết
giảng trên đây - khi nói đến Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ
Điệu Đế) và bốn thuộc tính của sự thật về khổ đau, và một trong bốn
thuộc tính này là vô thường - chỉ là để nhằm vào mục đích giúp chúng sinh có
giác cảm vượt lên trên sự bám víu vào ý niệm trường tồn, vì đấy chỉ là cách tự
buộc mình vào vòng xoay vần bất tận của sự hiện hữu, tức là cõi luân hồi. Các
lời giáo huấn ấy sở dĩ được nêu lên là để nhằm vào một mục đích sâu xa hơn, tức
là giúp chúng sinh thực hiện được Tánh Không một cách hoàn hảo. Tóm lại là các
lời giáo huấn ấy (của Đức Phật)
cũng chỉ là một phương tiện hữu hiệu (tiếng Phạn và
Pa-li gọi là upaya, kinh sách tiếng Việt gọi là phương tiện thiện xảo, có nghĩa
là một phương tiên thích nghi) giúp người tu tập thăng tiến trên con
đường đưa đến mục đích tối hậu (tức là sự Giác Ngộ
hay Tánh Không hoàn hảo). Vì thế các lời giảng huấn trên đây không
hề mâu thuẫn với giáo lý Tánh Không.
Nhóm Duy Thực lại tiếp tục đưa ra thêm một luận
cứ khác nữa để bài bác chủ thuyết của nhóm Trung Quán cho rằng không hề có sự
hiện hữu nội tại. Họ nói rằng nếu như mọi sự vật không hiện hữu ở cấp bậc tối
hậu (tức là Tánh Không) thì chúng cũng sẽ không thể nào có thể hiện hữu
ở cấp bậc tương đối được. Nhóm Trung Quán đáp lại như sau:
Tiết
7d. (quan điểm Tiểu Thừa) Trong trường hợp đó đối với những người suy tư thì có
phải là nghịch lý hay không khi cho rằng các sự vật hiện hữu tạm thời trong
lãnh vực của sự thật tương đối?(câu này có nghĩa là những người suy tư đã chủ trương Tánh
Không thế nhưng lại còn chấp nhận sự hiện hữu của mọi sự vật trong lãnh vực
tương đối - dù chỉ là tạm thời - và đấy có phải là một sự nghịch lý hay không?)
Tiết
8. (quan điểm Trung Quán) Những người
suy tư không hề sai lầm trong lãnh vực của sự thật tương đối (khi họ cho rằng các sự vật hiện hữu với tính cách tạm thời
và giai đoạn); cũng chẳng khác gì so với những người bình dị, những
người suy tư cũng trông thấy mọi vật thể đúng như những người bình dị trông
thấy. Nếu không thì sự hiểu biết sáng suốt của những người suy tư về sự ô uế
của thân thể người đàn bà cũng có thể bị phủ nhận bởi người đàn ông bình dị hay
sao (người đàn ông bình dị chỉ nhìn thấy thân thể
của một người đàn bà thơm tho, xinh đẹp, hấp dẫn, đáng để thèm muốn,...nhưng
không nhìn thấy được bản chất ô uế của nó, trong khi đó người biết suy tư vừa
nhìn thấy được thân thể của người đàn bà đúng như thế và cả sự ô uế của thân
thể ấy nữa. Tương tự như thế, người Duy Thực chỉ trông thấy hình tướng mà không
quán nhận được bản thể tối hậu của hình tướng là Tánh Không, người Trung Quán
nhận thấy được cả hai).
Điểm then chốt nhất
trong câu giải đáp trên đây là mọi vật thể và sự kiện hiển nhiên đều mang tính
cách tạm thời và giai đoạn, thế nhưng trong cuộc sống thường nhật thì chúng ta
lại có xu hướng cho rằng chúng mang tính cách bền vững và trường tồn. Dầu sao
cách lập luận trên đây vẫn tỏ ra chưa thật đầy đủ hầu có thể phủ nhận hoàn toàn
sự kiện cho rằng mọi vật thể và sự kiện chỉ có tính cách giai đoạn và không
trường tồn. Vì thế nhóm Trung Quán còn khẳng định rằng sẽ không có một sự mâu
thuẫn nào khi cho rằng các vật thể và sự kiện mang tính cách vô thường trong
lãnh vực tương đối và ngược lại trong lãnh vực tối hậu thì chúng lại không mang
đặc tính đó.
Nếu bất cứ gì tỏ ra không phù hợp với sự
hiểu biết thông thường của chúng ta đều phải được xem là không vững chắc thì sự
quán nhận bằng thiền định về sự ô uế của thân xác - với ý nghĩa là thân xác
được cấu hợp bởi những thành phần không tinh khiết như máu, xương và thịt (thiết nghĩ ngoài những thứ ô uế vật chất như ruột gan, phèo
phổi, mùi hôi và những thứ bài tiết khác, cũng nên kể thêm những thứ ô uế tâm
thần chẳng hạn như sự hung dữ, nóng giận, ganh ghét, hận thù, si mê, mưu đồ,
tính toán, biển lận...) - cũng sẽ trở thành vô giá trị hay sao? Bởi
vì trong cuộc sống thường nhật chúng ta thường bị lôi cuốn bởi một thân thể
tuyệt vời, vì thế chúng ta xem nó như là tuyệt hảo, đáng để thèm muốn, một thứ
gì đó mang tính cách tinh khiết (quảng cáo cũng như
các phương tiện truyền thông như báo chí, phim ảnh, truyền hình... tha hồ khai
thác và lợi dụng những hình ảnh lõa lồ, những thân hình nam nữ trẻ đẹp để
khuyến dụ, mê hoặc, khai thác và nô lệ hóa con người. Một vài tín ngưỡng lại
chủ trương ngược lại, tức là phải che dấu thân thể người phụ nữ, bắt họ đội
khăn, che mặt và phủ kín cả người, thế nhưng đấy cũng chỉ là cách mang lại
những khó khăn khác dưới những hình thức khác. Nếu nhìn vào thân thể nam hay nữ
giới như là một sự cấu hợp gồm thịt xương, máu mủ, ruột gan, mùi hôi, bệnh tật,
và trong tâm thức thì dấy lên đủ mọi thứ xúc cảm bấn loạn..., thì đấy cũng có
thể là một cách nhìn tránh được cả hai cách nhìn trên đây và biết đâu cũng có
thể khơi động được lòng từ bi ở một nơi thật tinh khiết trong đáy tim mình khi
nhìn vào những thân xác mang đầy khổ đau ấy?).
Đạo
hạnh và sự tái sinh
Nhóm Duy Thực vặn lại rằng theo chủ trương của Trung Quán
thì ngay cả việc gom góp những gì xứng đáng mang lại từ các hành vi đạo hạnh
cũng không thể thực hiện được (bởi vì theo Trung
Quán thì ngay cả đạo đức cũng không có một sự hiện hữu nội tại nào, vậy việc
giữ giới cũng sẽ không thể mang lại một kết quả xứng đáng hay một phẩm hạnh nào
cả).
Tiết
9. (quan điểm Tiểu Thừa) Theo quan điểm của quý vị thì chính Đức Phật cũng chỉ
là ảo giác, vậy làm thế nào lại có thể
tạo được phẩm hạnh khi tôn thờ Ngài?
(quan
điểm Trung Quán) Cũng chẳng khác gì những phẩm hạnh gom góp được khi tôn thờ
một vị Phật hiện hữu thật
sự.
Nếu ngay cả chư Phật cũng chỉ là ảo giác, có
nghĩa là không thật trên bình diện tối hậu thì làm thế nào có thể đoan chắc
được là các đối tượng quy y chẳng hạn như chư Phật, lại có thể mang lại những
điều đạo hạnh (nếu
tam bảo cũng chỉ là ảo giác thì việc quy y nào có ích lợi gì)? Về điểm này, những người Trung Quán đáp lại như
sau: cũng chẳng khác gì với trường hợp những người Duy Thực nương tựa vào một
vị Phật hiện hữu nội tại và tạo được cho mình những điều đạo hạnh đích thật.
Cũng tương tự như thế, đối với những người Trung Quán cũng chẳng có gì cấm cản họ
cho rằng khi nương tựa vào một vị Phật
ảo giác chính là cách giúp mình đạt được những điều đạo hạnh mang tính cách ảo
giác (trong
lãnh vực tương đối cần phải giữ giới để
mang lại cho mình những điều xứng đáng và đạo hạnh, trong lãnh vực tuyệt đối
cái xấu và cái tốt cũng sẽ trở thành ảo giác, nương tựa vào một vị Phật ảo giác
để vượt lên trên cả cái xấu lẫn cái tốt
nhằm giúp mình đạt được Tánh Không tuyệt đối chính là cách mang lại cho
mình sự giải thoát thật sự).
Những gì trên đây không cho thấy một chút mâu thuẫn nào cả, do đó khi những
người Trung Quán phủ nhận sự hiện hữu nội tại thì đấy cũng không có nghĩa là
phải phủ nhận luôn cả khả năng mang lại cho mình những điều đạo hạnh.
Nhóm Duy Thực lại nêu
lên một luận cứ bài bác khác:
Tiết 9. (quan điểm Tiểu Thừa) Nếu như chúng sinh
chỉ là ảo giác thì làm thế nào họ có thể chết và tái sinh được?
Học
thuyết Tánh Không bác bỏ sự hiện hữu thật của mọi hiện tượng và xem chúng chỉ
là danh xưng, và tất cả mọi con người cũng chỉ là ảo giác, vậy làm thế nào để có
thể chống đỡ được quan điểm cho rằng có sự tái sinh? Làm thế nào một sinh linh
ảo giác lại có thể tái sinh sau khi chết?
Nhóm
Trung Quán xác nhận rằng chẳng những sự tái sinh có thể xảy ra mà chính cách
lập luận bằng phép tương đồng của những người phản kháng lại sự kiện đó (những người Duy Thực) còn góp phần thêm để khẳng
định điều ấy nữa (một chúng sinh ảo
giác tái sinh thành một chúng sinh ảo giác khác, đâu cần đến một sự hiện hữu
thật mới có thể tái sinh. Kiếp sống trước đây của mình là ảo giác, kiếp sống
này thì nào có khác gì đâu?).
Tiết
10. (quan điểm Trung Quán) Ảo giác tiếp tục tồn tại cho đến khi nào sự kết hợp
giữa các nguyên nhân tạo ra ảo giác vẫn tiếp tục tồn tại. Do đó phải chăng
người ta cũng có thể bảo rằng chúng sinh sở dĩ thật sự hiện hữu là vì sự hiện
hữu ấy của họ kéo dài lâu hơn thế thôi? (chúng
sinh chỉ là ảo giác, họ liên tục tái sinh trong từng giây phút một và hiện hữu
dưới các hình tướng ảo giác khác nhau. Các hình tướng ấy hiện ra thật linh
động, tiếp nối nhau như những hình ảnh liện tục của một cuốn phim sờ sờ ra
trước mắt chúng ta, khiến chúng ta cứ tưởng đấy là "một sự" hiện hữu
thật).
Ngay
cả một ảo giác cũng phải lệ thuộc vào sự kết hợp của một số nguyên nhân và điều
kiện nào đó để có thể hiển hiện; nếu các nguyên nhân và điều kiện không hội đủ
thì ảo giác cũng sẽ không thể nào phát sinh ra được. Cũng tương tự như thế, khi
nào các nguyên nhân và điều kiện thuận lợi đưa đến một sự tái sinh (dấu vết do những thứ xúc cảm bám víu để lại) vẫn
còn tồn tại trên dòng luân lưu của tri thức thì khi đó chúng ta cũng sẽ còn
tiếp tục tái sinh sau khi chết. Tóm lại chẳng có gì là mâu thuẫn giữa thuyết
tái sinh và giáo lý về Tánh Không cả (khi nào các nguyên
nhân và điều kiện thuận lợi và thích nghi làm phát sinh ra hình tướng vẫn còn
tồn lưu trên dòng tri thức, thì khi đó nhất định hình tướng cũng sẽ phát sinh;
chỉ khi nào thực hiện được Tánh Không - tức là loại bỏ được các dấu vết của
nghiệp phát sinh từ sự bám víu ghi khắc trên dòng tri thức - thì các nguyên
nhân và điều kiện làm phát sinh ra hình tướng sẽ tan biết hết và các quy luật
chi phối các hiện tượng - trong số này có thể kể ra quy luật nguyên nhân hậu
quả - cũng sẽ bị hóa giải và trở nên vô hiệu lực).
Cái
tốt và cái xấu
Các
người Duy Thực nêu lên sự thắc mắc sau đây trong các tiết 11 và 12: "Nếu
tất cả mọi hiện tượng không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại nào cả thì phải
dựa vào đâu để phân biệt cái tốt và cái xấu?".
Tiết 11. Giết một nhân dạng ảo giác (do một ảo thuật gia tạo ra) sẽ không hề mang tội bởi vì nhân dạng ấy không
hàm chứa tri thức. Thế nhưng nếu là trường hợp của một chúng sinh thật, hàm
chứa một tri thức (dù
chỉ là) ảo giác, thì bất cứ một hành
động nào đối với chúnh sinh ấy cũng đều tạo ra một điều đạo hạnh hay lầm lỗi.
Tiết
12-13a. Một ảo thuật gia không thể nào tạo ra được một tri thức ảo giác, bởi vì
các xảo thuật của hắn không sao tạo ra được tri thức (của một chúng sinh). Ảo giác luôn luôn đa dạng bởi
vì nó được phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau, vì thế một nguyên nhân duy
nhất hội đủ khả năng sáng tạo ra đủ mọi thứ sẽ không thể có ở bất cứ nơi nào (nhà ảo thuật là nguyên nhân duy nhất nên không tạo ra tri
thức được, bởi vì tri thức là kết quả mang lại từ sự vận hành của toàn bộ ngũ uẩn).
Nếu tất cả chúng sinh có giác cảm đều tương
tự như ảo ảnh hay ảo giác thì sự kiện giết các chúng sinh đang sống (có nghĩa là các chúng sinh đang hiện
hữu dưới thể dạng "ảo giác") cũng sẽ chẳng làm cho nghiệp tiêu cực của mình gia tăng thêm (luận cứ của những người Duy Thực nhằm
bắt bẻ quan điểm của những người Trung Quán). Là những người Trung Quán quý vị cho rằng sự kiện giết các nhân dạng
ảo giác tạo ra bởi các ảo thuật gia không mang lại nghiệp tiêu cực, vậy thì khi
giết các chúng sinh tương tự như ảo giác thì cũng thế, nào có tội tình gì đâu?
Nhằm
bác bỏ cách lập luận này Tịch Thiên nêu lên sự khác biệt thật rõ rệt giữa hai
trường hợp trên đây. Các sáng tạo nhờ vào bùa phép và thần chú sẽ không hàm
chứa tri thức, cũng không cảm nhận được sự đau đớn và thích thú; đấy chỉ là
những ảo giác đơn thuần. Vì thế giết một nhân dạng tạo ra bởi ảo thuật sẽ không
tạo ra nghiệp tiêu cực. Ngược lại các chúng sinh tương tự như ảo giác, dù không
phải là thật với ý nghĩa là không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại, thế nhưng
các chúng sinh ấy vẫn cảm nhận được đau đớn và thích thú. Đấy là các chúng sinh
có giác cảm (êtres sensibles /
sentient beings / kinh sách tiếng Việt dịch từ kinh sách gốc Hán và gọi là
"chúng sinh hữu tình", cách
dịch này không được đúng lắm): hạ sát một chúng sinh có giác
cảm dù là tương tự như ảo giác thế nhưng nhất định sẽ mang lại nghiệp tiêu cực.
Vì thế hai trường hợp trên đây mang hai bản chất thật khác biệt nhau.
Luân
hồi và niết bàn
Nhóm Trung Quán
lại tiếp tục đưa ra một luận cứ khác cho rằng nếu căn cứ vào chủ thuyết Tánh
Không thì giữa luân hồi và niết bàn cũng sẽ chẳng có gì khác biệt cả.
Tiết13b
- 15b. (quan điểm Tiểu Thừa) Nếu quý vị cho rằng trong lãnh vực của sự thật
tuyệt đối tất cả sẽ là niết bàn, và cõi luân hồi thì lại thuộc vào lãnh vực của
sự thật tương đối, và nếu đúng như thế thì Đức Phật cũng lại bị vướng mắc trở
lại trong cõi luân hồi hay sao (đối với sự thật
tuyệt đối thì luân hồi và niết bàn đều là Tánh Không, do đó cả hai cũng đều là
niết bàn. Vậy nếu Đức Phật hòa nhập vào Tánh Không tức cũng có nghĩa là hòa
nhập với cả luân hồi. Thật ra đây chỉ là một cách lập luận dựa vào cách
"chơi chữ" của nhóm Duy Thực); vậy thì hành trình đến Giác Ngộ
để làm gì?
(quan
điểm Trung Quán) Cho đến khi nào các nguyên nhân của ảo giác chưa bị tiêu trừ
thì ảo giác vẫn còn nguyên là ảo giác; thế nhưng khi nào các nguyên nhân đã bị
loại bỏ thì ảo giác cũng sẽ ngưng tạo tác, điều đó cũng đúng cả trong lãnh vực
của sự thật tương đối (trong cuộc sống
thường nhật tức là trong lãnh vực tương đối và quy ước, đôi khi chúng ta cũng
trông thấy ảo giác, chẳng hạn như những gì hiện ra trong giấc mơ hoặc ảo ảnh
trên mặt đường cái tương tự như là có nước, nếu các nguyên nhân tạo ra các ảo
giác ấy bị loại bỏ - khi tỉnh giấc, hoặc hơi nước bốc lên từ mặt đường nóng
dưới ánh nắng biến mất - thì các ảo ảnh ấy cũng sẽ tan biến hết).
Nhóm Duy Thực
phát biểu như sau: Nếu dựa vào quan điểm Trung Quán của quý vị thì tất cả mọi
hiện tượng không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại nào và chính
sự vắng mặt ấy là niết bàn; thế thì nếu quý vị cho rằng sự
vắng mặt đó là niết bàn thì niết bàn cũng sẽ là một thứ với luân hồi hay sao,
bởi vì cõi luân hồi cũng không có sự hiện hữu nội tại? Tóm lại theo quý vị thì
luân hồi cũng có thể trở thành niết bàn, thế nhưng điều này không thể nào xảy
ra được, bởi vì luân hồi và niết bàn là hai thứ khác hẳn nhau, trên thực tế
chúng hoàn toàn tương khắc với nhau. Hơn nữa nếu chấp nhận luân hồi và niết bàn
cũng chỉ là một thứ thì đương nhiên cũng sẽ phải chấp nhận chư Phật vẫn còn bị
vướng mắc trong cõi luân hồi. Vậy thì tại sao những người tu tập bắt buộc phải
bước vào con đường mới có thể đạt được Phật Tính và sự giải thoát?
Tịch Thiên đáp lại rằng những người Duy Thực nhầm
lẫn giữa thể dạng chấm dứt của sự hiện hữu nội tại - tức có nghĩa là cảnh giới
niết bàn tự nhiên - và cảnh giới niết bàn thực hiện được bằng sự tu tập tâm
linh. Hơn nữa sự chấm dứt đó không phải chỉ đơn giản là sự vắng mặt của sự hiện
hữu nội tại mà còn là sự chấm dứt của tất cả những gì khiến cho chúng ta bị
"u mê" - đấy là những thứ xúc cảm bấn loạn và các xu hướng sẵn có nơi
mỗi người trong chúng ta (tức
là các tác động sâu kín của nghiệp nơi mỗi cá thể). Vì thế cần phải phân biệt giữa niết bàn tự nhiên (một thể dạng an bình và thanh thản khi
quán thấy được bản chất vô-thực-thể của mọi hiện tượng) - tức là Tánh Không - và niết bàn mà chúng ta chỉ
có thể đạt được bằng thiền định (loại
bỏ được các thứ xúc cảm bấn loạn, xoá bỏ hẳn được tấm màn vô minh tạo ra bởi
nghiệp lực). Hai thể dạng đó hoàn
toàn khác nhau. Một khi chuỗi dài níu kéo giữa nguyên nhân và hậu quả buộc chặt
một cá thể vào vòng luân hồi bất tận chưa bị cắt đứt thì cá thể ấy vẫn còn
vướng mắc trong cảnh đọa đày của cảnh giới luân hồi. Chỉ khi nào chu kỳ hiện
hữu (tức là vòng luân hồi) chấm dứt thì khi đó cá thể ấy mới có thể thường
trú chẳng những trong thể dạng niết bàn tự nhiên (sự an lạc và thanh thản mà chúng ta có
thể cảm nhận được trong hiện tại nhờ vào sự Giác Ngộ) mà cả trong cảnh giới niết bàn tối thượng nữa, một
thể dạng vượt thoát khỏi mọi khổ đau và đọa đày (một thể dạng đã tháo gỡ và hóa giải
được tất cả các quy luật chi phối thế giới luân hồi, chẳng hạn như quy luật
nguyên nhân hậu quả, quy luật tương liên, tương tác và tương tạo của mọi hiện
tượng, có nghĩa là thoát ra khỏi mọi sự hủy hoại và tạo tác liên tục dưới các
thể dạng hình tướng, hoặc nói cách khác thì đấy là một thể dạng "thường
trú" trong một cảnh giới phi-hiện-tượng).
Những người Duy Thực
bài bác rằng nếu không chấp nhận một thực thể tự tại và khách quan về mọi sự
vật thì quy luật nguyên nhân hậu quả cũng sẽ không còn hiệu lực nữa, và nếu đúng
như thế thì các hiện tượng cũng sẽ không còn biết phải dựa vào nguyên tắc nào
để mà vận hành. Những người Trung Quán đáp lại rằng: mặc dù vẫn xem các sự vật
và biến cố là ảo giác và không hàm chứa một thực thể tự tại và độc lập nào, thế
nhưng họ vẫn công nhận sự vững chắc của quy luật nguyên nhân hậu quả và cả các
chức năng khác của thế giới tương đối; sự thực tại của thế giới quy ước không
hề bị loại bỏ bởi sự vững chắc của Tánh Không; thế giới đó vẫn hoàn toàn nguyên
vẹn.
Vì
thế sau khi phủ nhận sự hiện hữu nội tại của mọi hiện tượng thì thật hết sức
quan trọng phải duy trì được sự vững chắc của thế giới sự thật tương đối. Nếu
nhận thấy mình có đủ khả năng thì nên bước thẳng vào "Con đường Trung
Quán", bởi vì con đường ấy sẽ giúp chúng ta tránh được cả hai thái cực là
chủ nghĩa tuyệt đối (absolutism) và hư vô (nihilism). Lý do là Trung Quán không
bác bỏ hiện thực mà cũng không phủ nhận sự vững chắc của thế giới quy ước cũng
như sự vận hành của nó - tức có nghĩa là vẫn chấp nhận quy luật nguyên nhân hậu
quả, tính cách nhị nguyên của chủ thể và đối tượng, và v.v... Nếu cảm thấy mình
chưa hội đủ khả năng để bước vào con đường đó thì đấy cũng có nghĩa là quan
điểm triết học của mình vẫn còn thuộc vào một trong hai thái cực: hoặc không
chấp nhận thực tại của thế giới quy ước và tự để mình rơi vào từng chút một
quan điểm của chủ nghĩa hư vô (chết là hết chẳng
còn gì cả), hoặc tôn thờ chủ nghĩa tuyệt đối (absolutism) nhằm tìm cách bám víu vào một thứ gì
đó mang tính cách tuyệt đối hay vĩnh hằng (thiên
đường, cực lạc...). Tóm lại theo quan điểm của Tịch Thiên và những
người Trung Quán thì cách tu tập tốt nhất là con đường Trung Quán.
THIỀN ĐỊNH
Đến đây chúng ta cũng nên dành ra
một một vài phút để thiền định về các hiện tượng vô thường tinh tế. Trước hết
chúng ta hãy nhìn vào thân xác của chính mình và chú tâm vào sự tuần hoàn của
máu huyết. Tim bơm máu như thế nào? Khi theo dõi hiện tượng đó thì chúng ta
cũng sẽ nhận thấy ngay tính cách năng động của thân xác. Thân xác của chúng ta
không bao giờ ở vào tình trạng tĩnh lặng. Sau đó thì quán nhìn vào các sự vật
thuộc bối cảnh bên ngoài và rồi chúng ta cũng sẽ nhận thấy cùng một hiện tượng
biến động như trên đây. Thí dụ khi trông thấy một ngôi nhà cổ thì chúng ta có
thể nghĩ rằng: "Ngôi nhà này đã xưa hàng thế kỷ". Mặc dầu vẫn còn tồn
tại đến ngày nay thế nhưng với thời gian ngôi nhà đó cũng đã trải qua rất nhiều
đổi thay.
Chúng ta hãy tiếp tục suy tư về các hiện tượng vô thường tinh tế trên
đây cũng như tính cách năng động và bản chất tạm thời luôn biến đổi của mọi hiện
tượng. Bản chất vô thường ấy không những chỉ xảy ra với các sự vật thuộc bối
cảnh bên ngoài mà cả đối với dòng luân lưu tâm thần của chúng ta nữa. Mặc dù
dòng luân lưu đó có vẻ như liên tục (continuum), thế nhưng nếu chúng ta quán
xét các thể dạng nhận thức (évènements
cognitifs / cognitive events) của chính mình - chẳng hạn như các xúc
cảm, tư duy, các thể dạng tâm thần - thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy chúng biến
đổi trong từng khoảnh khắc một. Chúng không bao giờ ở vào tình trạng tĩnh lặng.
Vì thế lúc nào chúng ta cũng nên nghĩ đến sự biến đổi thường xuyên và tính cách
năng động của các hiện tượng thuộc bên trong cũng như bên ngoài ấy. Tóm lại
trên đây là phương cách giúp chúng ta suy tư về vô thường tinh tế của tất cả
mọi vật thể và sự kiện.
5
Các quan điểm của học phái
Duy Thức
BÌNH GIẢI
Thế giới bên ngoài
Trong
phần này chúng ta sẽ đề cập đến một phân đoạn trong tác phẩm của Tịch Thiên nêu
lên sự phủ nhận của nhóm Trung Quán về các quan điểm của học phái Duy Thức hay Cittamatra (một học phái cho rằng tất
cả đều do tâm thức mà có và không công nhận tính cách hiện thực của các sự vật
bên ngoài). Tịch
Thiên nêu lên quan điểm của mình bằng các
câu hỏi sau đây:
Tiết 15c,d. (quan điểm
Duy Thức) Nếu tâm thức ảo giác không hiện hữu, vậy thì cái gì sẽ cảm nhận ảo
giác?
Nói một cách khác thì nếu những người thuộc học phái Trung
Quán cho rằng tất cả mọi hiện tượng cũng chỉ như ảo giác, vậy thì các khái
niệm, mọi sự cảm nhận và cả tri thức cũng sẽ phải tương tự như ảo giác. Nếu đúng
như thế thì thứ gì sẽ nhận biết ảo giác? (bởi vì tất cả đều là ảo giác như nhau).
Có thể phủ nhận cách lập luận trên đây của học phái Duy Thức
bằng nhiều cách. Trước nhất là cách dựa vào các luận cứ mang tính cách song hành
(parallel / có
nghĩa là các quan điểm khác biệt nhau và không thể trùng hợp với nhau hay
"gặp nhau" được). Trong số bốn học phái triết học Phật
Giáo có hai học phái thuộc Phật Giáo Tiểu Thừa là Kinh Lượng Bộ (Sautrantika)
và Đại Tỳ Bà Sa Luận (Vaibhashika), và hai học phái thuộc Phật Giáo Đại Thừa là
Trung Quán (Madhyamaka) còn gọi là Con Đường Trung Dung, và Duy Thức
(Cittamatra) còn gọi là Tâm Thức Duy Nhất (tất cả chỉ là tâm thức). Cả hai học phái Đại
Thừa trên đây đều chủ trương tính cách vô ngã của tất cả mọi hiện tượng, thế
nhưng khái niệm này lại được định nghĩa khác nhau giữa hai học phái.
Theo học phái Duy Thức, hiện
thực hiện ra trong tâm thức dưới ba thể loại hay bản chất khác nhau là: 1) bản chất hoàn toàn mang tính cách tưởng
tượng, 2) bản chất lệ thuộc, 3) bản chất được thiết lập một cách hoàn hảo
còn gọi là bản chất tối hậu. Dựa vào
khái niệm này nhóm Duy Thức giải thích về tính cách "vô ngã" của mọi
hiện tượng bằng cách cho rằng cái ngã (hay là "cái
tôi") hay thể tính (identity) bị phủ nhận của một cá thể, nhất thiết chỉ liên hệ
đến những gì mà ngôn từ và khái niệm hình dung ra nhằm để chỉ định các đối
tượng muốn nói đến mà thôi. Những người Duy Thức cho rằng
hình tướng hay các sự vật trong cuộc sống thường nhật, chẳng hạn như chiếc
bình, cây cột nhà, cái bàn... không tự chúng hiện hữu (có
nghĩa là không thật sự hiện hữu)
với tư cách là các cơ sở giúp cho ngôn từ dựa vào đấy để chỉ định chúng. Nếu
căn cứ vào quan điểm đó của họ (tức là những người Duy Thức) thì tất cả mọi hiện tượng bên ngoài sau khi quán
xét đến chỗ tột cùng sẽ nhất thiết đều là những phóng ảnh của tâm thức - trên phương diện tối hậu thì chúng chỉ là
những phóng tưởng (extension) đơn thuần của tâm thức mà thôi. Dựa vào quan điểm
đó nhóm Duy Thức phủ nhận hoàn toàn hiện thực của thế giới bên ngoài, bởi vì họ
cho rằng nếu quán xét cẩn thận các sự vật trong cuộc sống thường nhật thì sẽ nhận
thấy chúng dường như chiếm giữ một vị thế (statut / quy chế) độc lập nào đó - tương tự như chúng hiện hữu thật "ở
bên ngoài" (tâm thức) - thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là những phóng ảnh
hay phóng tưởng thuộc bên trong tâm thức, hay những tạo dựng tâm thần hoàn toàn
không hàm chứa một thực thể khách quan và độc lập nào cả. Khái niệm vô ngã trên
đây về các hiện tượng có thể giúp làm giảm bớt đi sự bám víu của chúng ta vào
những gì mà chúng ta xem như thuộc vào một thế giới vững chắc bên ngoài tâm
thức mình. Trọng tâm của học thuyết do Duy Thức chủ xướng là thế giới bên ngoài
chỉ toàn là ảo giác và mọi sự cảm nhận của chúng ta nhất thiết chỉ là những tạo
dựng tâm thần, ảnh hưởng bởi các xu hướng có sẵn và đã ăn sâu vào tri thức chúng
ta (tức là những kinh nghiệm hiểu biết mang lại từ các cảm
nhận của lục giác, giáo dục - tức sự hiểu biết quy ước - và các xung năng của nghiệp.
Tất cả những thứ ấy góp phần diễn đạt những gì thuộc thế giới bên ngoài).
Trong tiết sau đây tác giả tập Hành trình đến Giác Ngộ cho biết rằng nếu căn cứ vào quan điểm của học
phái Duy Thức thì ngay cả thực tại của thế giới bên ngoài cũng không mang một
tính cách vững chắc nào.
Tiết 16a. (quan điểm Trung Quán) Nếu dựa vào
quan điểm của quý vị thì ngay cả ảo giác cũng không hiện hữu, vậy thì cái gì đã
được nhận biết? (tất cả chỉ là ảo giác kể cả ảo giác cũng là ảo giác, vậy thì nhận biết cái
gì?).
Tiết 16b.
(quan điểm Duy Thức) Các vật thể hiện hữu bằng một phương cách khác (khác
hơn với thể dạng hiện thực thô thiển):
tức là bằng hình ảnh và hình ảnh thì cũng chính là tâm thức.
Những
người Duy Thức cho rằng các sự vật bên ngoài không thật sự hiện hữu mà chỉ là
những phóng tưởng và do đó họ công nhận rằng có một sự sai lệch nào đó giữa sự cảm
nhận của chúng ta và thực tại bên ngoài. Những người Trung Quán viện dẫn rằng
nếu đúng như thế thì với tư cách là những người Duy Thức đương nhiên quý vị
cũng phải chấp nhận khái niệm cho rằng bản chất của thực tại cũng chẳng khác gì
như ảo giác, ít ra là đối với thế giới bên ngoài. Trong trường hợp này tất
nhiên quý vị cũng phải chấp nhận khái niệm cho rằng các vật thể bên ngoài không
hàm chứa một sự hiện hữu đích thật và nội tại - có nghĩa là không mang một bản
thể đích thật nào cả. Do đó quý vị cũng phải bắt buộc phủ nhận luôn tính cách
hiện thực của cả ảo giác (trong tâm thức của quý vị) nữa.
Tri thức có thể tự nhận biết được chính nó
Học phái Duy Thức phản biện lại như
sau: mặc dù các vật thể bên ngoài không hiện hữu đúng với phương cách mà chúng ta
nhận biết được chúng - có vẻ như hàm chứa một thực thể khách quan và tự chủ - thế
nhưng không có nghĩa là chúng không hiện hữu với tư cách là một sự diễn đạt của
tâm thức. Tuy rằng chúng không hiện hữu một cách độc lập thế nhưng người ta vẫn
có thể xem chúng hiện hữu như là những hiện tượng tâm thần. Nhóm Trung Quán
không chấp nhận sự giải thích đó bằng cách lập luận như sau:
Tiết 17. (quan điểm Trung Quán) Thế nhưng
nếu đối tượng ảo giác lại chính là tâm thức, vậy thì cái gì thấy và cái gì đã
được trông thấy? Vị Bảo Vệ thế giới (có thể Tịch Thiên muốn nói đến vị Dordje Shougden được xem
như Vị Phật Trí Tuệ, hóa thân của Văn Thù Sư Lợi, hiện ra trong thế giới này để
bảo vệ Đạo Pháp ?) đã nói rằng: "Tâm thức không thể tự nhận biết
được chính nó".
Nếu các sự vật bên ngoài tương tự như ảo giác và chỉ là những phóng
tưởng đơn thuần của tâm thức, thì bắt buộc chúng cũng phải thuộc vào thành phần
của tâm thức. Nếu đúng như thế thì các người thuộc học phái Duy Thức bắt buộc cũng
phải xác nhận rằng khi tâm thức nhận biết được các sự vật bên ngoài thì nó cũng
phải nhận biết được chính nó. Quả thật không sao tránh khỏi mâu thuẫn: bởi vì
vừa nêu lên chủ thể và đối tượng lại vừa bảo rằng duy nhất chỉ có tâm thức,
ngoài ra không có gì khác cả.
Tịch Thiên trích dẫn trong kinh
sách lời giảng của Đức Phật cho biết rằng dù sắc bén đến đâu thì một con dao
cũng không thể tự cắt nó được.
Tiết 18a. Tâm thức cũng tương tự như thanh kiếm,
nó không thể tự cắt nó được.
Tiết 18b. (quan điểm Duy Thức) Nó giống như
một ngọn đèn, nó có thể tự soi sáng cho nó.
Cũng tương tự như thế (tức là tương tự như thanh kiếm không thể tự cắt nó),
tri thức cũng không thể tự nhận biết được nó - khái niệm về tri thức tự nhận
biết được chính nó không thể đứng vững (tri thức là một sự cấu hợp, do đó sự vận hành của nó tùy thuộc vào vô số những nguyên
nhân khác, từ tác động của nghiệp cho đến sự vận hành chung của ngũ uẩn tương kết
với thế giới chung quanh, do đó tri thức không phải là một "chủ thể" được
quy định rõ rệt nhằm để quán nhận và hiểu biết chính "nó").
Học phái Duy Thức phủ nhận sự chỉ trích này và cho rằng tâm thức có thể tự nhận
biết được nó bằng cách đưa ra thí dụ sau đây: nó cũng chẳng khác gì như một
ngọn đèn có thể soi sáng các vật thể khác, và nhờ vào bản chất soi sáng tự nhiên
đó của nó nên nó có thể tự soi sáng lấy nó. Đối với tri thức cũng thế, sở dĩ nó
có thể nhận biết được những vật thể khác là nhờ vào khả năng tự nhận biết được
nó. Nhóm Trung Quán không chấp nhận cách giải thích trên đây và đã phản biện lại
như sau:
Tiết 19a,b. (quan điểm Trung Quán) Một ngọn
đèn không tự soi sáng cho nó, bởi vì nó không tối tăm (ngọn đèn không mang bản chất tối tăm nên nó
không cần phải được soi sáng).
Học phái Duy Thức lại nêu lên một cách so sánh mang tính
cách tương đồng khác:
Tiết 19c,d. (quan điểm Duy Thức) Màu xanh
lam (của ngọc
bích - lapis-lazuli) tự nó có màu xanh không cần phải được phản chiếu bởi
một màu xanh nào khác cả, không như một khối thủy tinh (cần phải đặt lên một tấm vải màu xanh thì nó
mới có màu xanh).
Tiết 20a,b. Vì thế một số các cảm nhận mang
tính cách độc lập và một số khác thì lệ thuộc.
Là những người Duy Thức,
chúng tôi có thể xác định được hai thể loại màu xanh khác nhau, thí dụ như một
khối thủy tinh đặt lên một tấm vải xanh thì sẽ có màu xanh. Màu sắc mới ấy của
nó là do những yếu tố khác tạo ra cho nó - tức là mảnh vải màu xanh được trông thấy
xuyên qua một vật trong suốt. Trái lại có những loại đá quý tự nó có màu xanh không
cần nhờ vào các yếu tố khác; trong trường hợp này, sắc xanh sẽ nhất thiết thuộc
vào đặc tính tự nhiên của chúng. Trong khi đó thì khối thủy tinh trên đây có
thể thay đổi màu sắc tùy theo hoàn cảnh. Cũng tương tự như thế, có hai thể loại
nhận biết chính yếu: thể loại thứ nhất gồm các cảm nhận phát sinh từ các cơ
quan giác cảm hướng vào các đối tượng bên ngoài, thể loại thứ hai gồm các cảm nhận
không hướng vào các đối tượng bên ngoài mà chỉ hướng vào sự nhận biết chính nó.
Tóm lại học phái Duy Thức quan niệm rằng có hai trường hợp cảm nhận khác nhau: tự
cảm nhận và cảm nhận những vật thể khác. Nhóm Trung Quán bác bỏ quan điểm trên
đây của nhóm Duy Thức.
Tiết 20c,d. (quan điểm Trung Quán) Màu xanh không thể nào tự nhiên mà có;
màu xanh không thể tự nó trở thành màu xanh được.
Không có một màu xanh nào lại không
lệ thuộc vào các yếu tố khác. Màu xanh là đặc tính của một vật thể nào đó, thế nhưng
bất cứ một vật thể hay sự kiện nào cũng đều phải lệ thuộc vào một tổng thể gồm
nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện mới có thể hiển hiện được (nên hiểu đối với tri
thức cũng thế). Chẳng hạn như màu xanh của khối thủy tinh cũng như
màu xanh của viên ngọc bích, cả hai đều phải lệ thuộc vào những yếu tố khác.
Tịch Thiên còn giải thích thêm như sau:
Tiết 21. Tâm thức nhận thấy và xác nhận rằng
ngọn đèn soi sáng; thế nhưng ai nhận thấy và xác nhận rằng tâm thức soi sáng?
Tiết 22. Bởi vì chưa hề có ai trông thấy tâm
thức nên không thể biết được nó có chiếu sáng hay không; đấy cũng chẳng khác gì
như bàn thảo với nhau về vẻ duyên dáng của người con gái, con của một phụ nữ
hiếm muộn (không
có con).
Học phái Duy Thức bắt buộc phải chấp
nhận rằng một ngọn đèn không thể nào tự soi sáng nó được, nếu không thì chúng
ta cũng sẽ phải chấp nhận rằng bóng tối tự nó có thể che dấu được nó. Dầu sao
đi nữa ngay cả đối với trường hợp không chấp nhận quan điểm cho rằng một ngọn
đèn có thể tự soi sáng nó thì chúng ta cũng phải công nhận ngọn đèn có khả năng
soi sáng (các
vật thể khác). Sự kiện một sự hiểu biết không thể tự hiểu biết chính
nó cũng không nhất thiết có nghĩa là từ bản chất nó không phải là một "sự
hiểu biết".
Theo Tịch Thiên, sự chiếu sáng lệ
thuộc vào các yếu tố khác - không thể có sự kiện chiếu sáng nếu không có một
vật thể nào đó để cho nó chiếu sáng (thí dụ bầu khí quyển phản chiếu các tia sáng mặt trời nên
chúng ta trông thấy bầu trời rạng rỡ, bên trên lớp khí quyển thì bầu trời "tối
đen" mặc dù "tràn ngập" các tia sáng mặt trời). Tương
tự như thế, nếu không có một đối tượng để hiểu biết thì cũng sẽ không thể có sự
hiểu biết, nếu không thì cũng chẳng khác gì nói chuyện về đứa con gái của một
người đàn bà hiếm muộn! (thiết nghĩ cả hai cách lập luận của Duy Thức và Trung Quán
đều đúng và hợp lý trên một khía cạnh nào đó, bởi vì sự hiểu biết vẫn
"có" tức là vẫn "hiện hữu" không cần có đối tượng thế nhưng
nó không thể phát lộ được chỉ vì không có đối tượng để cho nó hiểu biết. Sự
hiểu biết đơn giản chỉ là sự diễn đạt của tâm thức, tương tự như bầu trời rạng
rỡ là nhờ các tia sáng mặt trời phản chiếu từ bầu khí quyển, nếu không có bầu
khí quyển thì bầu trời tối om măc dù chan hòa các tia sáng mặt trời. Tóm lại sự
hiểu biết, tri thức, sự kiện chiếu sáng đều là những thứ cấu hợp, do đó sự vận
hành của nó lệ thuộc vào rất nhiều yếu tố và điều kiện, và nhất là không biểu
trưng cho một "chủ thể" nào cả, dù là dưới các danh xưng như: tri
thức, sự hiểu biết, ánh sáng, ngọn đèn... Do đó nếu đặt sự lý luận ở một cấp bậc cao hơn thì sẽ
nhìn thấy vấn đề dễ dàng hơn. Dầu sao cũng phải hiểu rằng các học phái Trung
Quán (thế kỷ thứ II) và Duy Thức (thế kỷ
thứ IV) đã được thành lập cách nay gần hai mươi thế kỷ - một cách chính xác là
từ mươi chín và mười bảy thế kỷ trước - và Tịch Thiên cũng đã bình giải về hai
học thuyết này vào thế kỷ thứ VIII tức cách nay cũng đã mười ba thế kỷ. Tuy
rằng vào các thời kỳ đó sự hiểu biết khoa học như ngày nay chưa có và các luận
cứ của hai học phái trên đây cũng như sự bình giải của Tịch Thiên cũng chỉ được
dựa vào phép suy luận và tính cách lô-gic của các cách lập luận, thế nhưng ý
nghĩa nêu lên thật hết sức tinh tế và sắc bén. Thiết nghĩ các cách lập luận của
Duy Thức và Trung Quán trên đây đều hợp lý và đúng trên một khía cạnh nào đó và
ở vào một cấp bậc nào đó. Thiết nghĩ cũng cần phải hiểu thêm là ánh sáng là một
cấu hợp, sự kiện chiếu sáng một vật thể cũng là một hiện tượng cấu hợp; hiểu
biết là một hiện tượng cấu hợp - lệ thuộc vào sự vận hành chung của ngũ uẩn, sự
kiện hiểu biết một đối tượng cũng là một hiện tượng mang tính cách cấu hợp, tóm
lại tất cả những thứ ấy đều vô thường và luôn luôn biến động, chẳng qua vì
chúng là kết quả phát sinh từ sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và điều kiện, và
do đó không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại nào cả để có thể "hiểu
biết" chính nó "hay chiếu sáng" chính nó).
Tuy thế học phái Duy Thức vẫn tiếp
tục đưa ra một luận cứ khác cho rằng sự cảm nhận (perception / sự nhận biết hay nhận thức)
có thể cảm nhận được chính nó (thiền định thật sâu xa cũng có thể cảm nhận được chính sự
nhận biết của mình tức là sự vận hành của ngũ uẩn, tạm thời tạo ra cho mình sự
hiểu biết ấy. Tuy nhiên phải thận trọng bởi vì rất dễ nhầm lẫn thể dạng cảm
nhận tinh tế ấy với sự diễn đạt thô thiển của tâm thức về một đối tượng tâm
thần nào đó khiến mình tưởng là mình cảm nhận được sự hiểu biết của chính mình ).
Tiết 23a,b. (quan điểm Duy Thức) Nếu tâm
thức không thể tự nhận biết được chính nó, thì làm thế nào nó có thể nhớ lại
được sự hiểu biết của nó (trí nhớ là một hình thức ghi khắc của nghiệp trên dòng luân
lưu liên tục của tri thức (continuum of consciousness). Sự ghi khắc đó của
nghiệp xảy ra suốt trong kiếp sống hiện tại và cả trước đó trong các kiếp sống quá
khứ, cũng như sau này trong các kiếp sống tương lai. Dòng luân lưu liên tục đó
của tri thức là cơ sở góp phần vào việc tồn lưu và chuyển tải nghiệp và nghiệp
thì dưới một góc nhìn nào đó có thể xem là "trí nhớ" như đã được nói
đến trên đây, và cũng nhờ đó nên một vài người có thể nhớ lại được một vài biến
cố hay sự kiện thuộc kiếp sống trước của mình, và đôi khi cũng nhận ra được hậu
quả phát sinh từ nghiệp, tức là các hành động của mình trong kiếp sống trước, đang
tác động và ảnh hưởng đến kiếp sống của mình trong hiện tại. Tóm lại tâm thức
không "nhớ lại" được sự hiểu biết của nó hay các hành động thực thi
từ trước, mà nó chỉ có thể "cảm nhận" được hậu quả phát sinh từ nghiệp
tạo ra bởi các hành động thực thi trong quá khứ).
Thông thường những gì giúp xác nhận sự hiện hữu của một vật
thể hay một sự kiện chính là sự cảm nhận hay nhận thức giúp nhận biết được sự
hiện hữu đó có mang tính cách vững chắc hay không: tóm lại là thực tại của một
hiện tượng tùy thuộc vào sự vững chắc của sự cảm nhận hay sự nhận thức. Dầu sao
sự vững chắc của sự cảm nhận tự nó cũng phải lệ thuộc vào sự tương quan giữa nó
và thực tại; vì thế tất cũng phải có một sự tương quan rõ rệt giữa sự nhận thức
và các đối tượng mà nó nhận thức. Nếu đối tượng không có thì chủ thể cũng sẽ không
có, và sự nhận thức cũng sẽ không xảy ra, và tất nhiên cũng sẽ chẳng có một sự
nhận biết về một đối tượng nào cả.
Tuy nhiên, học phái Duy Thức
không công nhận sự lệ thuộc hổ tương (tức là mối tương quan) giữa hiểu biết và đối tượng của sự hiểu biết. Theo
học phái này tri thức tức là chủ thể sẽ giữ một vị thế lấn lướt hơn, bởi vì các
kinh nghiệm cảm nhận mang tính cách chủ quan sẽ giữ vai trò chủ động trong việc
chứng nhận tính cách hiện thực của đối tượng. Dầu sao tính cách hiện thực của
chủ thể bắt buộc cũng phải được xác nhận (bởi vì nếu không có chủ
thể thì đối tượng cũng sẽ không có).
Nói cách khác, sự hiểu biết - giữ vai trò chủ thể - bắt buộc cũng phải được
nhận biết (quan điểm này có thể đúng đối với những người hành thiền
khi họ tập trung sự chú tâm cực mạnh và quán thấy được sự vận hành của chính tâm
thức họ). Nếu như bất cứ một sự
nhận thức nào cũng phải cần đến một sự nhận thức khác để xác nhận sự vững chắc
của nó thì chuỗi dài níu kéo đó (tiếng La-tinh ad libitum trong nguyên
bản) sẽ trở nên bất tận. Học phái
Duy Thức phản biện lại sự bài bác trên đây bằng cách cho rằng dầu sao cũng phải
chấp nhận rằng sự nhận thức tự nó có thể nhận biết được nó; sự kiện nhận thức (évènement
cognitif / cognitive event) của chúng ta nhất định phải hàm
chứa một khả năng tự-nhận-biết (auto-connaissance / self-knowledge) giúp nó cảm nhận được chính nó (một
người có một tâm thức xao lãng sẽ không ý
thức được sự nhận biết của mình, cũng không chủ động được sự hiểu biết đó và
cũng chẳng kiểm soát được tâm ý hay tác ý phát sinh từ sự hiểu biết ấy. Trái
lại một người hành thiền nhờ vào sự tập
trung cực mạnh có thể nhìn thấy được ảnh hưởng và các tác động của nghiệp khích
động mình "hiểu biết", nói cách khác là "hiểu được" hay
"ý thức" được tại sao một tác ý
như thế lại nảy sinh ra trong đầu mình).
Vì thế học phái Duy Thức xác nhận là tri thức tự nhận biết
được chính nó (tiếng Tây Tạng là rang rik).
Các luận cứ khác được thiết lập căn cứ vào các hiện tượng thuộc lãnh vực trí
nhớ; chẳng hạn như khi chúng ta nhớ lại một sự vật nào đó thì cũng có nghĩa là
chúng ta không những nhớ lại đối tượng (của sự nhớ lại ấy, tưc là một vật thể hay một sự kiện nào
đó chẳng hạn) mà cả sự "cảm nhận" của chúng ta về đối
tượng ấy nữa (sự
nhận xét này rất đúng, thí dụ khi chúng ta nhớ lại một người bạn trai hay gái
thuở còn trẻ, thì sự kiện nhớ lại ấy sẽ vận hành xuyên qua những sự cảm nhận
của mình vào thuở ấy, bởi vì ngày nay người bạn ấy đã lớn tuổi, có thể đã có
gia đình và con cháu và ở một nơi nào đó mà chúng ta cũng không hề biết, dù có
gặp lại chưa chắc chúng ta có thể nhận ra. Những sự cảm nhận của thuở còn trẻ
tạo ra nghiệp ghi khắc trên dòng tri thức của chúng ta, các dấu vết ghi khắc đó
phát hiện trở lại trong tri thức chúng ta hôm nay dưới hình thức "trí
nhớ"... và sự nhớ lại đó sẽ làm phát sinh ra tâm ý hay tác ý, nếu nói theo
kinh sách thì nghiệp làm phát sinh ra "tác ý". Các tâm ý hay tác ý ấy
sẽ tạo ra các xúc cảm mới đưa đến nghiệp mới và "trí nhớ" mới, một
hình thức kéo dài của "trí nhớ" cũ trước đây. Sự kéo dài đó có thể
xuyên qua từ kiếp sống này sang kiếp sống khác mà chúng ta quen gọi là sự tồn
lưu của các "chủng tử" hay các "vết hằn" của nghiệp).
Điều này cho thấy khi chúng ta khởi sự cảm nhận được một sự vật nào đó thì cũng
có một chức năng khác ghi nhận cả kinh nghiệm cảm nhận ấy của mình nữa - nói
một cách đơn giản hơn thì chúng ta không thể nói là chúng ta nhớ lại một kinh
nghiệm cảm nhận nào đó khi mà chúng ta chưa hề thực hiện được nó từ trước. Do
đó phải có một thể dạng tri thức nào đó có thể tự nhận biết được chính nó vào
lúc mà chúng ta khởi sự nhận biết một đối tượng.
Tịch Thiên đưa ra một cách giải thích khác về trí nhớ.
Tiết 23c,d. (quan điểm Trung Quán) Trí nhớ
phát sinh nhờ vào sự kết hợp với một vật thể bên ngoài, tương tự như thuốc
chuột (thuốc
chuột chỉ tác động khi có chuột).
Theo quan điểm của nhóm
Trung Quán thì chủ thể và đối tượng đều giữ một tầm quan trọng ngang nhau, bởi
vì cả hai đều thuộc vào một mối dây tương tác chung, có nghĩa là cả hai phải lệ
thuộc vào nhau và phải cùng dựa vào mối liên hệ ấy để biểu lộ sự vững chắc của
mình. Tri thức không giữ một vị thế trên trước nào cả (theo ghi chú trên đây thì "trí nhớ"
chính là nghiệp được ghi khắc và tồn lưu trên dòng tri thức. Các yếu tố "trợ
lực" cho sự nhớ lại có thể là các hiện tượng thuộc bối cảnh bên ngoài hay
bên trong tâm thức, chẳng hạn như một vật thể hay một hiện tượng nào đó, chúng
hiện ra với tư cách là "cơ duyên" giúp cho "nghiệp" hay
"trí nhớ" hiển hiện trở lại. Thí dụ như trông thấy một người nào đó
đang đi ngoài phố, người này hao hao giống với một người mà mình quen biết từ
trước (cơ duyên), khiến mình "chợt nhớ"
đến người này (tác động của nghiệp). Sự kiện "nhớ lại" một sự cảm
nhận từ trước sẽ là nguyên nhân đưa đến tâm ý hay "tác ý" nếu nói
theo kinh sách. Tâm ý hay tác ý đó có thể sẽ mang lại buồn bực, hân hoan, tiếc
nuối, yêu thương, hận thù, giận dữ,... và ngay sau đó các xúc cảm này sẽ chuyển
thành "ngôn từ" hay "hành động" hoặc cả hai; tác ý, ngôn từ
và hành động sẽ tạo ra nghiệp mới, và nghiệp mới lại tiếp tục lưu lại những
chủng tử mới trên dòng tri thức. Nếu suy nghiệm và phân tích thật kỹ thì chúng
ta cũng sẽ nhận thấy dễ dàng sự vận hành của nghiệp cũng chính là sự vận hành
của trí nhớ, nói cách khác thì sự vận hành của trí nhớ là một thể dạng hay một
khía cạnh nào đó của sự vận hành của nghiệp).
Khounou Lama Rinpoché (1895-1977, tên thật là Tenzin Gyaltsen Negi, là một vị đại
sư Tây Tạng sinh tại Ấn Độ và là một trong số rất nhiều vị thầy của Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma thứ XIV), có nói rằng khi chúng ta cảm nhận được bằng giác
cảm một màu xanh nào đó chẳng hạn, và một thời gian sau chúng ta nhớ lại sự
nhận biết ấy; sự kiện nhớ lại đối tượng (màu xanh) sẽ hòa lẫn với sự kiện nhớ lại sự cảm
nhận của mình trước đây (quả là một sự nhận xét siêu việt và vô cùng tinh tế: một sự
"cảm nhận" sẽ đưa đến một sự "diễn đạt" nào đó trong tâm
thức, hậu quả của sự "diễn đạt" đó sẽ được "ghi khắc" trên
dòng tri thức, các "dấu vết" lưu lại bởi sự ghi khắc ấy gọi là các "chủng
tử" của "nghiệp" - trong trưòng hợp này là một sự cảm nhận.
"Nhớ lại" cảm nhận đó có nghĩa là chủng tử tạo ra bởi sự cảm nhận ấy
và được ghi khắc trên dòng tri thức hiển hiển trở lại, nói cách khác ngắn gọn
hơn là nhớ lại "hành động" cảm nhận của mình, hay là
"nghiệp" do chính mình tạo ra trước đây cũng thế). Do đó sự
kiện nhớ lại một đối tượng không thể tách rời ra khỏi kinh nghiệm cảm nhận về
đối tượng ấy (đối
tượng không còn nữa hoặc đã đổi khác, những gì mà chúng ta nhớ lại chỉ là sự
cảm nhận trước đây của mình về đối tượng ấy, nói cách khác là sự cảm nhận là
một "hành động ", một hành động tức là một karma (nghiệp), và nếu đã
là một hành động (karma) thì sẽ không sao tránh khỏi lưu lại dấu vết của nó trên
dòng tri thức. Với thời gian và dưới tác động của các nghiệp khác các dấu vết
đó có thể trở nên "sâu đậm hơn", "phai nhạt bớt" hay cũng
có thể "ngủ yên" lâu hay mau hoặc cũng có thể được "tẩy
sạch" nhờ tác động của thiền định
hay các hành động khác. Sự phai mờ, ngủ yên, quên lãng hay tẩy sạch ấy của
"trí nhớ" tức là sự cảm nhận trước đây của mình sẽ tạm thời hay vĩnh
viễn làm mất đi khả năng gây ra tâm ý hay tác ý. Trái lại nếu các vết hằn dưới
tác động của các nghiệp khác trở nên sâu đậm hơn thì sự nhớ lại sẽ biến thành
sự ray rứt, tiếc nuối, nhớ thương, hối hận, khổ đau, v.v. - thí dụ như "thất
tình" chẳng hạn là một hình thức của "trí nhớ" quá mạnh và cũng
là một "tác động" của nghiệp nhằm mang lại hậu quả là sự khổ đau).
Những gì vừa trình bày cho thấy những kinh nghiệm cảm nhận chủ quan cũng sẽ
hiển hiện trở lại khi chúng ta nhớ lại đối tượng của sự cảm nhận ấy. Trí nhớ tự
nó vận hành và không cần nhờ vào một khả năng tự nhận biết lấy nó (auto-connaissance
/ self-knowledge / thật ra thì đấy cũng chỉ đơn giản một là hình thức phát hiện
của nghiệp thuận theo sự vận hành tự nhiên của quy luật nguyên nhân hậu quả,
thế nhưng chúng ta lai diễn đạt nó dưới một góc nhìn khác hơn và gọi đấy là
"trí nhớ". Một hành động thực thi sẽ tạo ra hậu quả là sự "nhớ
lại", người thực thi "nhớ lại" tức là một hình thức "cảm
nhận" hậu quả lưu lại từ một hành động của mình trước đây, người khác
không thể thay mình "nhớ lại" hay "cảm nhận" được tác động -
có thể là khổ đau hay thích thú - phát sinh từ một hành động do chính mình thực
thi trước đây. Cũng xin ghi chú thêm là đến nay các ngành tâm lý học, phân tâm
học, thần kinh học..., nói chung là các ngành khoa học hiện đại chưa giải thích
được trí nhớ là gì!). Học phái Duy Thức lại đưa ra thêm một cách lập
luận khác để bênh vực quan điểm về sự hiểu biết có thể tự nhận biết được chính
nó.
Tiết 24. (quan điểm Duy Thức) Trong một số trường
hợp (nhờ vào
sự tập trung tâm thần mang lại sự sáng suốt) chúng ta có thể quán thấy được
sự suy nghĩ của người khác, vậy tại sao chúng ta lại không quán thấy được tư duy
của chính mình?
(quan điểm Trung Quán) Không thể được, thí
dụ như khi thoa dầu mang những khả năng mầu nhiệm lên mắt có thể giúp trông
thấy một cái bình được dấu kín chẳng hạn, thế nhưng chúng ta lại không thể trông
thấy được dầu thoa (trên mắt mình).
Nhờ lắng sâu vào thiền định một số người có thể đạt được
sự sáng suốt giúp họ có thể đọc được ý nghĩ của người khác (các nhà sư Tây Tạng cao thâm có thể đọc được
ý nghĩ của người khác rất dễ dàng). Do đó tâm thức nhất định phải hàm
chứa một khả năng nhận biết được những gì quen thuộc và gần gũi hơn với nó: tức
là chính nó.
Nhằm phản biện lại luận cứ
này, nhóm Trung Quán lại nêu lên một phương pháp so sánh khác: mặc dù có thể dùng
xảo thuật hay bùa phép khiến mắt có thể nhận thấy được những vật chôn giấu dưới
mặt đất, thế nhưng các thứ ấy không thể giúp cho mắt trông thấy được chính nó. Cũng
tương tự như thế, tâm thức có khả năng quán thấy được tâm thức của người khác,
thế nhưng sự kiện ấy không có nghĩa là nó cũng có thể quán thấy được chính nó.
Theo học phái Duy Thức, nếu chúng ta không công nhận tri thức
hàm chứa khả năng nhận biết được chính nó thì chúng ta cũng sẽ không còn biết
phải căn cứ vào cơ sở nào khác hơn để xác định tính cách vững chắc (tức là sự hiện
hữu) của tri thức. Tịch Thiên đáp lại như sau: chúng tôi không hề phủ
nhận những gì mà chúng tôi trông thấy, nghe thấy và hiểu được:
Tiết 25.
Chúng tôi không hoài nghi một chút nào cả về các thể loại cảm nhận của thị
giác, thính giác, tri thức, thế nhưng chúng tôi không chấp nhận những cảm nhận
ấy là thật như là những sự thật tuyệt đối. Chúng tôi không chấp nhận quan điểm
đó (tức
cho rằng các cảm nhận của giác quan là thật) bởi vì đấy chỉ là nguyên nhân mang lại khổ
đau (những
cảm nhận dưới hình thức giác cảm mang tính cách cấu hợp và vô thường, nếu đã là
cấu hợp và vô thường thì đương nhiên không mang tính cách tuyệt đối, lý do thật
dễ hiểu bởi vì cấu hợp và vô thường là nguyên nhân sâu xa nhất mang lại sự bất
toại nguyện tức là khổ đau).
Chúng tôi cho rằng các cảm nhận
về những gì trông thấy, nghe thấy và nhận biết được đều mang tính cách sai lầm,
khiến chúng tôi có cảm giác là chúng hàm chứa một sự hiện hữu thật và nội tại. Thế
nhưng chúng tôi không thể chấp nhận sự sai lầm ấy bởi vì chúng chính là nguồn
gốc mang lại mọi thứ khổ đau cho chúng tôi.
Vượt thoát mọi sự bám víu vào "cái
tôi"
Nếu muốn hiểu được vô minh căn bản, tức tình trạng bám víu vào
sự hiện hữu nội tại của mọi hiện tượng, đã nô lệ hóa chúng ta như thế nào, thì thật
hết sức quan trọng phải theo dõi được quá trình vận hành của các tư duy bấn
loạn của mình trên phương diện hiện tượng học và tâm lý học. Thí dụ mỗi khi
chúng ta cảm thấy các thứ xúc cảm tiêu cực phát lộ, chẳng hạn như sự giận dữ,
hận thù và bám víu thì phải quán xét ngay xem các đối tượng của chúng hiện ra với
chúng ta như thế nào, nói cách khác là tình trạng tâm thần của chúng ta khi cảm
nhận chúng. Qua sự tương tác bình thường giữa chúng ta và thế giới, tức là cách
mà chúng ta liên kết với thế giới xuyên qua những sự cảm nhận nhị nguyên của
mình, thì chúng ta luôn có xu hướng quán nhận mọi sự vật dường như hàm chứa một
vị thế độc lập và khách quan: chúng cứ hiện hữu "sờ sờ ra đó trước mặt
chúng ta". Chúng ta tự giam mình trong sự kiềm tỏa của các thứ cảm nhận ấy
bằng cách bám vào các hình ảnh do chúng tạo ra và cho rằng các hình ảnh ấy hàm
chứa một sự hiện hữu thật, nội tại và khách quan. Hiện tượng này thật dễ nhận
thấy khi chúng ta bị chi phối bởi những thứ xúc cảm thật mạnh (thí dụ khi chúng ta
nổi nóng với một người nào đó thì chúng ta có cảm giác rằng con người ấy và mọi
sự "biển lận", "xấu xa", "ti tiện" của người ấy
đều rất thật, rất đáng ghét, chúng ta chỉ muốn xông vào để đánh người ấy và tố
giác những điều xấu xa "rất thật" của người ấy).
Thí dụ như khi chúng ta phát lộ một sự thèm muốn mãnh liệt đối
với một người hay một vật nào đó thì đối tượng lôi cuốn (thu hút, mê hoặc) chúng ta sẽ hiện
ra rất hoàn hảo và đáng để cho chúng ta thèm muốn. Tính cách đáng để thèm muốn
đó có vẻ như hiện hữu độc lập với sự cảm nhận của chúng ta. Cũng tương tự như thế,
mỗi khi sự giận dữ hay hận thù nổi lên thật mãnh liệt thì chúng ta cũng sẽ cảm
thấy các nguyên nhân làm phát sinh ra chúng có vẻ như là bản chất nội tại của
chúng (rất thật).
Khi đã rơi vào vòng kiềm tỏa của những thứ xúc cảm mãnh liệt ấy thì chúng ta cũng
sẽ có xu hướng nhìn thấy tất cả mọi sự hoặc là đen hay trắng, có nghĩa là xem
chúng hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu (hoặc thương hay ghét, hoặc đúng hay sai..., tất cả mọi khả
năng phán đoán đều mất hết). Chúng ta nên dựa vào các kinh nghiệm
trên đây để ý thức được sự tương tác giữa chúng ta với thế giới chung quanh xảy
ra như thế nào, và cũng nhân đó để nhận thấy thế giới ấy đã bị bóp méo ra sao
bởi các thứ cảm nhận sai lầm của chúng ta về các vật thể và sự kiện xảy ra khi
chúng ta cố tình xem chúng như hàm chứa một sự hiện hữu nội tại.
Nếu phân tích cẩn thận các xúc
cảm mãnh liệt, chẳng hạn như sự giận dữ, bám víu hay ganh ghét, thì chúng ta cũng
sẽ nhận thấy ngay một thứ cảm tính rất mạnh về "cái tôi" hay là
"cái ngã" tàng ẩn bên trong quá trình nguyên nhân hậu quả mang lại các
xúc cảm ấy. Những thứ cảm tính như "Tôi không thích cái này", "Tôi
cảm thấy yêu thích cái kia", hoặc "Điều đó khiến tôi kinh tởm"...,
sẽ không tránh khỏi mang lại cho chúng ta các kinh nghiệm cảm nhận trên phương
diện xúc cảm. Vậy phải làm thế nào để có thể nhận biết và ngăn chận các cảm
tính thật mạnh ấy về "cái tôi"? Trước hết là phải phân tích cảm tính ấy;
sau đó là tìm cách làm giảm bớt sức mạnh bám víu vào khái niệm cho rằng các đối
tượng của xúc cảm mang tính cách vững chắc.
Chúng ta hãy nêu lên một thí dụ thật thông thường, chẳng hạn như
khi bạn được làm sở hữu chủ một vật có một giá trị nào đó: một chiếc xe hay một
cái đồng hồ chẳng hạn. Nếu bạn hiện đang phát lộ một sự bám víu thật mạnh vào cái
đồng hồ (đang hãnh
diện và quý cái đồng hồ của mình) thì bạn cũng nên cố nhớ lại xem
cảm tính của mình ra sao trước khi mua nó, tức là khi mà nó còn bày trong tủ
kính của cửa tiệm, và sau đó bạn hãy so sánh cảm tính của bạn vào lúc ấy (thích cái đồng hồ
thế nhưng chưa phải là sở hữu chủ của cái đồng hồ) với sự bám víu
hiện nay tức là sau khi đã mua xong cái đồng hồ xem sao. Trong lúc này nó là
của bạn, cái đồng hồ được gắn chặt với sự phát lộ thật mạnh về "cái
ngã" của bạn, cái ngã ấy biểu lộ sự hiện hữu của "cái tôi" của
bạn. Khi còn đang đứng trong cửa tiệm thì
nhất định là bạn còn đang bị thu hút bởi cái đồng hồ, thế nhưng lúc đó nó vẫn
chưa thật sự gắn chặt với cảm tính về "cái tôi" của bạn, bởi vì nó
chưa phải là của bạn. Tóm lại thật hết sức dễ thấy là cùng một vật thể thế nhưng
nó lại có thể tạo ra nhiều thứ cảm tính khác nhau đối với mình.
Thói thường các xúc cảm như giận dữ và bám víu có thể phát lộ
ở những cấp bậc khác nhau, tương xứng với sức mạnh bám víu vào "cái tôi"
hay là ý nghĩ về sự "hiện hữu của tôi" (phía sau mỗi hành động bám víu đều tàng ẩn thật
kín đáo "cái tôi" hay "cái ngã" như là một chủ thể giữ vai
trò phát lộ sự bám víu đó. Bám víu và phát lộ "cái tôi" chính là nguyên
nhân sâu xa nhất buộc chặt chúng ta vào vòng luân hồi, tức là vào chu kỳ bất
tận của sự tái sinh, vì đấy là cách tạo ra các điều kiện cần thiết hầu giúp cho
chúng ta có thể tiếp tục bám víu. Do đó càng bám víu chúng ta lại càng buộc
chặt mình hơn vào vòng tái sinh để tiếp tục bám víu. Trong cuộc sống của mỗi
người chúng ta, nào chỉ có cái đồng hồ đâu! Chúng ta còn bám víu vào muôn ngàn
các thứ khác nữa!). Nói chung chúng ta có xu hướng hình dung "cái
tôi" như một thực thể độc lập với thân xác và tâm thức, tương tự như một
kiểm soát viên hàm chứa một thực thể độc lập và tự chủ (autosuffisant / self-sufficient / tự lập,
riêng biệt, nói một cách bình dân hơn thì đấy là một thứ "linh hồn" giữ
vai trò điều khiển chúng ta). Chúng ta bám víu vào cảm tính về cái
tôi ấy tương tự như là một thứ bản năng. Hãy lấy thí dụ trường hợp phải ghép
tim hay cắt bỏ một phần tứ chi thì chúng ta sẽ nhận thấy phẩu thuật ấy tất sẽ
mang lại lợi ích cho mình và chúng ta sẽ chấp nhận nó một cách dễ dàng, kể cả
trường hợp phải thay toàn bộ thân xác mình bằng thân xác của người khác (xinh đẹp và khỏe mạnh
hơn) nếu như chuyện ấy có thể thực hiện được. Cũng thế, biết đâu
chúng ta cũng có thể sẵn sàng trao đổi tâm thức mình với tâm thức của người
khác, nếu việc ấy tỏ ra có lợi cho mình (tâm thức của người khác thông minh hơn tâm thức của mình
chẳng hạn)? Sự bám víu đó cho thấy chúng ta hình dung ra một "cái
tôi" tương đối độc lập với thân xác và cả tâm thức (một thí dụ thật hết sức đơn giản và dễ hiểu:
"cái tôi" trú ngụ ở chỗ nào trong cơ thể, ở tim, tứ chi, toàn bộ thân
thể hay là trong tâm thức? Nếu trao đổi tất cả những thứ ấy với người khác thì
"cái tôi" hay "linh hồn" của mình có còn phải là "của
mình" nữa hay không? Thế nhưng chúng ta vẫn cứ tiếp tục nhận thấy
"cái tôi" của mình xuyên qua thân thể và tâm thức của người khác mà
mình muốn được trao đổi) Tịch Thiên qua tác phẩm của mình đã hùng
hồn chứng minh cho thấy là "cái tôi" ấy chỉ hiện hữu trong khuôn khổ
của một sự cấu hợp mà thôi; nó không hề mang một thể tính (identity) nào có thể
gọi là "cái tôi" thuộc bên ngoài thân xác và tâm thức (nó chỉ đơn giản là
kết quả vận hành của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn).
Những
gì vừa được trình bày trên đây cho thấy là sự kiện ý thức được sự vắng mặt của "cái
tôi" sẽ làm giảm bớt đi sự bám víu vào "cái tôi" ấy, nói cách
khác là bám víu vào cảm tính về sự vững chắc mà chúng ta đã áp đặt cho "bản
ngã" của mình. Như tôi đã nói đến trên đây, sự kiện biết xem tất cả mọi sự
vật bên ngoài đơn giản chỉ là những phóng ảnh của tâm thức - tức có nghĩa là
những thứ sáng tạo tâm thần mang đầy sai lầm - sẽ làm giảm bớt đi thật nhiều sự
bám víu của chúng ta vào những thứ ấy. Cũng tương tự như thế, khi khởi sự nhận biết
được sự vắng mặt của "cái tôi" mang tính cách độc lập, tự chủ, thì
sức mạnh bám víu mang tính cách bản năng của mình vào "cái tôi" của
mình cũng sẽ theo đó mà suy yếu dần.
Tâm thức và ảo giác
Tiết 26. (quan điểm Duy Thức) Nếu cho rằng một đối tượng ảo giác là một
thứ gì đó khác với tâm thức thì đấy là một điều sai; hoặc nếu cho rằng nó cũng chỉ
đơn thuần là tâm thức thì cũng sai nốt.
(quan điểm Trung Quán)
Nếu quý vị nói rằng tâm thức là thật, làm thế nào đối tượng lại có thể mang một
bản chất khác hơn được, bởi vì theo quý vị thì đối tượng không thật? Nếu tâm
thức có cùng một bản chất với đối tượng mang tính cách không thật thì làm sao
tâm thức lại có thể thật cho được?
Theo sự khẳng định của nhóm Duy
Thức, thì ảo giác không khác với tâm thức, thế nhưng cũng không hoàn toàn giống
với nó - ảo giác không phải là tâm thức; nó không thuộc cùng thể loại với tâm
thức, thế nhưng cũng không tách rời ra khỏi tâm thức, do đó nó chỉ có thể là
phóng ảnh của tâm thức mà thôi (các khám phá khoa học ngày nay giúp tìm hiểu sự kiện này
chi tiết hơn. Thí dụ đối với thị giác chẳng hạn: chúng ta không "nhìn thấy"
một vật thể mà chỉ duy nhất "trông thấy" ánh sáng phản chiếu từ vật
thể ấy hắt vào mắt và lọt vào con ngươi của mình, các tia sáng ấy xuyên qua
thủy tinh thể - tương tự như xuyên qua ống kính của một chiếc máy ảnh - và tạo
ra hình ảnh thu nhỏ và đảo ngược của vật thể rồi in vào võng mạc của mắt. Các
tia sáng tạo ra hình ảnh thu nhỏ và đảo ngược ấy sẽ tác động đến các tế bào
nhạy sáng của võng mạc, các tế bào này sẽ chuyển các tác động ấy thành các tín
hiệu điện, các tín hiệu này sẽ được truyền lên não bộ nhờ vào các dây thần kinh
thị giác. Não bộ sẽ phối kiểm và diễn đạt các tín hiệu nhận được để tái tạo lại
hình ảnh của vật thể mà các tia sáng đã phản chiếu trên đó. Hai con mắt nhìn
một vật thể từ hai góc cạnh khác nhau do đó cũng sẽ truyền lên não bộ hai hình
ảnh hay đúng hơn là hai nhóm tín hiệu khác nhau, não bộ tiếp nhận và phối kiểm
các tín nhiệu truyền lên từ hai mắt để tạo ra một hình ảnh nổi tức là "ba chiều"
của vật thể. Gần hai ngàn năm về trước Long Thụ và Vô Trước không hề được thừa
hưởng những hiểu biết khoa học trên đây và do đó dù đã phạm vào một vài sai lầm
thứ yếu - sẽ giải thích bên dưới - thế nhưng cả hai đã đưa ra các học thuyết
Trung Quán và Duy Thức với nhiều khía cạnh liên quan đến tính cách vô-thực-thể
của hiện thực mà ngày nay khoa học và triết học vẫn chưa theo kịp. Dầu sao những
hiểu biết khoa học hiện đại mà chúng ta hiện đang có cũng đã thừa đủ để chứng
minh tính cách ảo giác và chủ quan của những vật thể mà chúng ta cảm nhận được
bằng mắt cũng như các cơ quan giác cảm khác).
Tịch Thiên cho rằng nếu ảo giác chỉ
hiện hữu bên ngoài thì làm thế nào để có thể xác định được rằng đấy là một
phóng ảnh của tâm thức? Trên một khía cạnh khác, nếu ảo giác không hàm chứa một
thực tại bên ngoài và chỉ đơn giản là sản phẩm của tâm thức thì làm thế nào chúng
ta có thể xác định được các vật thể trong cuộc sống thường nhật dưới dạng hình
tướng, chẳng hạn như cái lọ, cái bàn có thể hiện hữu thật, khi mà quan điểm
trên đây (của
học phái Duy Thức) xem chúng không hề biểu trưng cho một sự hiện
thực nào?
(Thật ra quan điểm của cả hai học phái đều đúng:
a)- quan điểm Trung Quán: vật thể bên ngoài
đúng thật là "hiện hữu" bởi vì nó phải "có" thì ánh sáng
mới có thể phản chiếu - khúc xạ - từ vật thể ấy để hướng vào con ngươi và thủy
tinh thể của mắt, và hình ảnh của vật thể ấy do não bộ tạo ra chỉ là một ảo
giác. Sự kiện một vật thể phải có thật trong bối cảnh bên ngoài thì ánh sáng
mới có thể từ đó phản chiếu vào mắt cho thấy quan điểm của Trung Quán là đúng
thêm một lần thứ hai. Thế nhưng tại sao Trung quán lại cho rằng các vật thể bên
ngoài thật ra cũng chỉ là ảo giác, vậy đấy có phải là một sự mâu thuẫn hay
không? Dưới một góc nhìn khác thì vật thể bên ngoài dù có thể hiện ra dưới dạng
hình tướng để ánh sáng phản chiếu vào đấy, thế nhưng thật ra hình tướng ấy là
một thể dạng cấu hợp phức tạp và luôn biến động. Sau khi não bộ nhận được tín
hiệu phát sinh từ hình tướng của vật thể ấy thì vật thể ấy cũng đã đổi thay vì
bản chất vô thường của nó, và do đó đã khiến nó không còn hiện hữu đúng như
trước nữa, và đấy chính là bản chất ảo giác của nó, tóm lại quan điểm này cho
thấy Trung Quán đúng thêm một lần thứ ba. Tính cách ảo giác và "không
thật" ấy cũng chính là Tánh Không của mọi hiện tượng nói chung. Điều này
cho thấy toàn bộ quan điểm của Trung Quán về thế giới hiện tượng rất chính xác,
minh bạch và không có gì mâu thuẫn cả.
b)- quan điểm Duy Thức: hình ảnh mà mắt trông
thấy thật ra chỉ là một sự diễn đạt chủ quan của tâm thức căn cứ vào các tín
hiệu mà nó nhận được từ mắt, vì thế những hình ảnh đó chỉ là "ảo
giác". Điều này cho thấy quan điểm của Duy Thức là đúng. Thế nhưng nếu cho
rằng có một cơ sở mang tính cách rất "thật" đứng ra giữ vai trò chủ
động để nhận biết các tín hiệu ấy thì không đúng. Tri thức (consciousness) phát
sinh từ sự vận hành của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn, tất sẽ phải mang tính
cách cấu hợp và vô thường, nói cách khác là nó "không thật". Điều này
cho thấy quan điểm của Duy Thức cho rằng tri thức hay tâm thức hiện hữu thật là
không đúng. Tuy nhiên cũng xin hiểu rằng Duy Thức nêu lên một thể dạng của tri
thức gọi là a-lại-da thức (alayavijnana) mang tính cách "rất thật" vì
đó là "cơ sở" cất chứa và chuyển tải các vết hằn của nghiệp xuyên qua
không gian và thời gian. Khái niệm về
a-lại-da thức cho thấy một sự hữu lý nào
đó hay ít ra là không hoàn toàn mâu thuẫn với quan điểm cho rằng duy nhất chỉ
có tâm thức là thật. Đây là điểm độc đáo và siêu việt của Duy Thức).
Các người thuộc học phái Duy Thức khẳng
định rằng: ngay cả trong trường hợp nếu các vật thể bên ngoài chỉ tương tự như
ảo giác và không hề hiện hữu thì cũng vẫn có thể quan sát được chúng.
Tiết 27. (quan điểm Trung Quán) Quý vị cho
rằng một vật thể ảo giác, không hàm chứa một sự hiện hữu thật, cũng có thể nhận
biết được: vậy thì một tri thức ảo giác, không thật sự hiện hữu, cũng phải có
khả năng giúp nó nhận biết.
(quan điểm Duy Thức) Thế giới luân hồi được
chống đỡ bởi một thứ gì đó có thật (tức là tâm thức), nếu không thì thế giới đó cũng chỉ
là một khoảng không gian trống không (tâm thức tạo ra thế giới, nếu không có tâm thức mang tính
cách rất thật thì thế giới cũng sẽ trống không hay là không có).
Tịch Thiên đáp lại rằng cũng tương tự như thế, mặc dù
tâm thức không hiện hữu trong lãnh vực của sự thật tối hậu, thế nhưng chúng ta
vẫn có thể bảo rằng nó phải là một thứ gì đó có thể quán thấy được. Nhóm Duy Thức
phản kháng lại và cho rằng trên thực tế cõi luân hồi phải có một nền tảng mang
tính cách thực thể và khách quan nào đó, nếu không thì nó cũng sẽ chẳng khác gì
như không gian trống không tức là mang tính cách hoàn toàn trừu tượng (hay tưởng tượng).
Tác giả tập Hành trình đến Giác Ngộ
lại nhấn mạnh thêm một lần nữa là nếu dựa vào quan điểm của những người Duy Thức
thì chỉ có tâm thức mới hàm chứa một sự hiện hữu thật mà thôi.
Tiết 28. (quan
điểm Trung Quán) Tại sao một thứ gì đó không thật (cõi
luân hồi) khi dựa vào một thứ gì khác mang
tính cách rất thật (tức là tâm thức, bởi vì theo học phái
Duy Thức duy nhất chỉ có tâm thức là thật) lại có thể hàm chứa một chức năng nào đó? Vậy tâm thức của quý vị chỉ có
thể tìm thấy một người bạn đồng hành (compagnon / companion) duy nhất: là hư
vô.
Tiết 29. Nếu tất cả các đối tượng được loại
bỏ khỏi tâm thức thì tất cả chúng sinh cũng sẽ đều là Phật (bởi vì tính cách
nhị nguyên - tức chủ thể / đối tượng - sẽ không còn nữa). Do đó nếu bảo
rằng tất cả chỉ là tâm thức thì phải chăng cũng chỉ là vô ích mà thôi? (nếu đã cho rằng
tất cả chỉ là tâm thức thì tất nhiên sẽ không còn tính cách nhị nguyên nữa, và
nếu không còn tính cách nhị nguyên nữa thì đương nhiên tất cả chúng sinh đều là
Phật, vậy bày ra Duy Thức để làm gì?)
Nếu muốn tránh mọi sự mâu thuẫn thì học phái Duy Thức bắt buộc
phải chấp nhận quan điểm cho rằng tâm thức hiện hữu một cách tự chủ, không liên
hệ gì với bất cứ một đối tượng nào khác, bởi vì ở cấp bậc tối hậu duy nhất chỉ có
tâm thức là hiện hữu. Nếu đúng thật như thế thì điều ấy sẽ gợi lên thể dạng
Pháp Thân (Dharmakaya
/ còn gọi là Thân Đạo Pháp hay Thân Tối Thượng của một bậc Giác Ngộ),
và trong thể dạng đó tất cả các quá trình tư duy thuộc thế giới bên ngoài đều
tan biến hết và không còn lưu lại bất cứ một dấu vết nhị nguyên nào (dấu vết nhị nguyên
có nghĩa là dấu vết tạo ra bởi sự phận biệt giữa chủ thể và đối tượng và đấy
chính là tác động của nghiệp).
Tóm lại nếu những người Duy Thức cho
rằng ngoài tâm thức ra chẳng có gì hiện hữu cả thì bắt buộc họ cũng phải chấp
nhận rằng trong trường hợp đó tâm thức sẽ phải hoàn toàn tự chủ và thoát ra
khỏi mọi sự tạo dựng nhị nguyên, bởi vì những sự tạo dựng ấy chỉ đơn giản là ảo
giác nên không hề hiện hữu. Vậy nếu dựa vào quan điểm ấy thì đương nhiên cũng
có nghĩa là phải chấp nhận rằng tất cả các chúng sinh có giác cảm và hàm chứa một
tâm thức đều thoát khỏi các thứ cảm nhận nhị nguyên và các khái niệm sai lầm: nói
cách khác họ đều là Phật và đều đạt được sự Giác Ngộ hoàn hảo. Thiết nghĩ những
gì trình bày trên đây phải chăng cũng đã thừa đủ để chứng minh rằng các quan
điểm của học phái Duy Thức đưa đến những kết luận mâu thuẫn và phi lý?
Phương pháp tiếp cận của Trung Quán
Tịch Thiên giải thích tại sao nên chọn con đường Trung Quán
bằng cách nêu lên một sự tranh luận làm nổi bật tính cách ưu việt của học phái
này. Trước hết ông đưa ra các luận cứ phủ nhận quan điểm Trung Quán chủ trương không
có sự hiện hữu nội tại (sau đó mới đưa ra các luận cứ khác phản biện lại các luận
cứ này):
Tiết 30. (hỏi) Vậy thì khi đã quán thấy được
tính cách ảo giác của tâm thức thì có phải là nhờ đó mà mọi dục vọng cũng sẽ bị
loại bỏ hay không? Nếu đúng như thế thì nào có khác gì như một ảo thuật gia tạo
ra một người đàn bà ảo giác và say mê chính người đàn bà ấy? (ý nói theo quan
điểm Trung Quán thì tâm thức chỉ là ảo giác, nếu tâm thức chỉ là ảo giác thì dục
vọng do tâm thức tạo ra cũng phải là ảo giác, và nếu đúng như thế thì nào có
khác gì như trường hợp một ảo thuật gia (tức tâm thức) tạo ra một người đàn bà
ảo giác (tức dục vọng) và say mê người đàn bà ấy, tương tự như tâm thức ảo giác
bám víu vào dục vọng ảo giác do chính nó tạo ra).
Sau khi nêu lên sự chỉ trích
trên đây Tịch Thiên phản biện lại bằng câu trả lời dưới đây:
Tiết 31. (quan điểm Trung Quán) Nhà ảo
thuật không xóa bỏ được những dục vọng phát sinh từ thói quen thường nhật xem những gì mà
mình trông thấy đều đúng là thật, và do đó khi nhìn vào sự sáng tạo của mình
thì vì thói quen nhìn mọi sự vật như là thật nên sự phân biệt của hắn còn quá
yếu (để có
thể giúp hắn nhìn thấy tính cách giả tạo của người đàn bà do mình sáng tạo ra, và
do đó đã khiến cho hắn không sao tránh khỏi phát lộ cảm tính si mê người đàn bà
ấy).
Tịch Thiên cho biết chuyện ấy
không phải là lạ, ngay cả một ảo thuật gia khi tạo ra một người đàn bà ảo giác,
đôi khi cũng có thể phát lộ những cảm tính dâm ô đối với sự sáng tạo ấy của
mình, mặc dù vẫn ý thức được đấy chỉ là ảo giác. Các cảm tính đó phát sinh từ các
xung năng và phản ứng tâm thần theo thói quen sẵn có (đã quen với những phản ứng tự động và máy móc
mang tính cách bản năng, chẳng hạn như những cám tính dâm ô trước thân thể của
người phụ nữ). Ngay cả đối với những người dù đã quán nhận được Tánh
Không của mọi hiện tượng và xem chúng chỉ là ảo giác (những người tu hành chẳng hạn) thế
nhưng họ vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng bởi thói quen trước đây cho rằng các sự vật và
biến cố mang một sự hiện hữu nội tại. Đấy chính là hậu quả mang lại từ các thói
quen do bản năng tạo ra và tồn lưu từ hết kiếp này sang kiếp khác.
Mỗi khi đề cập đến các vấn đề liên quan đến chủng tử và những
gì tiềm ẩn (tức
là nghiệp) thì thật hết sức hệ trọng phải hiểu rằng có hai thể loại
vết hằn khác nhau (tức là hai thể loại nghiệp). Thể loại thứ nhất là các chủng
tử làm dấy lên trong tri thức một số xung năng đã được ghi khắc từ trước; thể
loại thứ hai là các xu hướng tiềm ẩn tồn lưu trong tâm thức dưới hình thức các sơ
đồ quen thuộc (schémas
habituels / habitual or accustomed patterns / có thể hiểu như những phản ứng tự
động và quen thuộc mang tính cách bản năng của tâm thức), chúng sẽ ảnh
hưởng đến sự cảm nhận và cả cách hành xử của chúng ta (có nghĩa là các chủng tử và các xu hướng bản
năng tiềm ẩn trong tâm thức - nói chung là hai thể loại nghiệp - sẽ tạo ra các
tác động ảnh hưởng đến sự cảm nhận, tác ý và các cách hành xử trong cuộc sống
thường nhật của chúng ta).
Tịch Thiên cho biết rằng khi nào đã cảm nhận được Tánh Không một
cách thường xuyên thì chúng ta cũng sẽ dần dần loại bỏ được tác động của những
phản ứng bản năng quen thuộc trên đây. Khi nào sự bám víu vào các xúc cảm cực đoan
(sự thèm muốn,
si mê, giận dữ...) đã bị loại trừ thì các xu hướng mang tính cách
nhị nguyên và bám víu cũng sẽ theo đó mà biến mất (nói cách khác là hóa giải được tác động phát
sinh từ các xung năng của nghiệp). Do đó nếu biết cố gắng triển khai
thường xuyên sự hiểu biết sâu xa ấy thì rồi chúng ta cũng sẽ có thể loại bỏ
được các thứ xu hướng quen thuộc khích động chúng ta bám víu vào ý nghĩ về sự
hiện hữu nội tại.
Điều quan trọng hơn hết là phải loại bỏ tận gốc rễ vô minh căn
bản và phải thực hiện cho bằng được Tánh Không dưới thể dạng tinh tế nhất của
nó, có nghĩa là phải phủ nhận toàn bộ các cấp bậc hiện thực mang tính cách thực
thể và nội tại. Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả là chớ bao giờ để cho việc
thực hiện Tánh Không còn bị khiếm khuyết, không như trường hợp của học phái Duy
Thức (vẫn còn
coi tâm thức là thật). Những người Duy Thức không công nhận sự hiện
thực của thế giới bên ngoài và cho rằng chỉ có tâm thức (spirit) hay là tri
thức (consciousness) là hàm chứa một thể dạng hiện thực tuyệt đối nào đó, và
cũng vì thế mà họ vẫn còn duy trì một cơ sở vững chắc để bám víu vào đấy (ghi chú trên đây
về thị giác cho thấy quan điểm của Duy Thức thật hết sức đúng khi xem thế giới
bên ngoài hoàn toàn là ảo giác, bởi vì đấy chỉ là những tạo tác tâm thần ở bên
trong tâm thức khi não bộ nhận được các tín hiệu. Thế nhưng trên thực tế đối
tượng của sự tạo tác ấy phải "có thật" ở bên ngoài để các tia sáng rọi
vào và hắt các tia khúc xạ vào mắt. Do đó thế giới bên ngoài không hoàn toàn là
vô thực thể, và chính đấy là sự "khiếm khuyết" của Duy Thức. Vô Trước
thành lập học phái Duy Thức vào thế kỷ thứ IV tức là cách nay đã mười bảy thế
kỷ, khi đó các hiểu biết khoa học trên đây chưa có, tuy thế ông cũng đã nhìn
thấy tính cách tạo dựng của những hình ảnh bên trong tâm thức về thế giới bên
ngoài, điu ềnày đáng để cho chúng ta khâm phục. Dầu sao Duy Thức cũng đã góp
phần không nhỏ vào việc tìm hiểu tri thức thật chi tiết. Theo học phái này thì tri
thức gồm có tám thể loại, và thể loại tinh tế và sâu kín nhất gọi là
a-lại-da-thức (alayavijnana), có thể tạm
hiểu như "tiềm thức" trong ngành tâm lý học hiện đại. Nghĩa từ chương
của chữ này là "tri thức căn bản cho tất cả", alaya có nghĩa là kho
cất chứa, chữ Himalay (Hy-mã-lạp sơn) là do chữ này mà ra và có nghĩa là "nơi
cất chứa" tuyết. A-lại-da thức mang tính cách "rất thật" vì đấy
chính là cơ sở tiếp nhận và tồn lưu các vết hằn của nghiệp. Cái tôi hay cái ngã
(atman) mang tính cách phi-cá-thể, phi-thời-gian nhưng lại hàm chứa một đặc
tính thực thể (substantial) nào đó, trái lại a-la-da thức thì hoàn toàn
phi-cá-thể, phi-thời-gian và phi-thực-thể. Vô Trước hình dung a-lại-da thức như
một dòng luân lưu bất tận giữ vai trò cất chứa và chuyển tải các vết hằn của
nghiệp trong kiếp sống hiện tại và tiếp tục luân lưu từ kiếp sống này sang kiếp
sống khác. Đó là những gì "rất thật" trong tâm thức của mỗi cá thể. Tóm
lại mỗi học phái đều đưa ra một số quan điểm mang ít nhiều "vững
chắc" nhằm góp phần mô tả, giải thích và triển khai giáo huấn của Đức Phật
ngày càng sâu rộng hơn).
Chi phái Trung Quán - Y Tự Khởi Tông (Madhyamika -
Svatantrika) tiến xa hơn một bước so với học phái Duy Thức khi chi phái này cho
rằng tâm thức và cả các đối tượng bên ngoài đều không hàm chứa bất cứ một sự
hiện hữu mang tính cách thực thể nào cả (các vật thể phản chiếu ánh sáng giúp mắt tạo ra các tín
hiệu, não bộ diễn đạt các tín hiệu nhận được và biến chúng thành những hình ảnh
tâm thần. Thế nhưng các vật thể ấy thật ra cũng là ảo giác bởi vì chúng luôn
biến động, lúc thì hiện hữu, lúc thì biến mất). Tuy nhiên chi phái
này vẫn còn công nhận một hình thức tinh tế nào đó về hiện thực nội tại của tâm
thức và cả đối tượng của nó nữa; do đó sự hiểu biết Tánh Không của chi phái Trung
Quán - Y Tự Khởi Tông vẫn chưa hoàn toàn đạt đến chỗ tột cùng.
Chi phái Trung Quán - Cụ Duyên Tông (Madhyamika - Prasangika) phủ
nhận tất cả mọi hình thức hiện thực nội tại, điều đó cho thấy quan niệm về Tánh
Không của chi phái này hoàn hảo và trọn vẹn hơn, tránh khỏi bất cứ một xu hướng
bám víu nào vào các hiện tượng và xem chúng là tuyệt đối. Đấy chính là cách
hiểu biết đúng đắn nhất về Tánh Không.
Tịch Thiên đưa ra tiết sau đây nhằm nhắc nhở chúng ta phải
luôn nghĩ đến bản chất Tánh Không của mọi hiện tượng:
Tiết 32. Khi nào ý nghĩa của sự trống không
đã thấm nhuần trong từng tư duy của chúng ta thì thói quen xem các hiện tượng
hàm chứa một sự hiện hữu thật cũng sẽ biến mất; nếu thường xuyên tự nhắc nhở mình
rằng mọi sự đều không thật, thì ngay cả ý nghĩ về Tánh Không rồi cũng sẽ dần
dần biến mất khỏi tâm thức mình (tức là nhìn thấy Tánh Không của tất cả mọi hiện tượng một
cách tự nhiên, không cần phải nhắc nhở mình là các hìện tượng ấy trống không, cũng
không cần phải lý luận hay phân tích mới có thể quán thấy được Tánh Không của
chúng).
Tịch Thiên khuyên
chúng ta không được vật thể hóa (réifier / reify / có nghĩa là cụ thể
hóa một thứ gì đó thật trừu tượng nhằm giúp cho sự quán nhận được dễ dàng hơn) Tánh Không, bởi vì chúng ta cũng có thể nghĩ rằng Tánh Không là một thứ
gì đó mang tính cách tuyệt đối, dù rằng
tất cả mọi vật thể và sự kiện đều hoàn toàn trống không về sự hiện hữu nội tại (sự
trống không hay vắng mặt của sự hiện hữu nội tại không phải là một "thể
dạng" hay một "đặc tính" mang tính cách tuyệt đối của hiện thực). Tuy nhiên
Tịch Thiên cũng cho biết rằng khi nào sự quán thấy Tánh Không đã trở nên
hoàn hảo thì ngay cả thói quen vật thể hóa Tánh Không và hình dung nó
như một thứ gì mang tính cách tuyệt đối cũng sẽ biến mất. Mặc dù có đôi chút khác
biệt giữa hai cách diễn đạt của Khentchen Kunzang
Palden và Minyak Kunzang Seunan về điểm trên đây, thế nhưng sau cùng cả hai đều
đưa ra các nhận xét tương tự nhau: sự thực hiện hoàn hảo về Tánh Không sẽ không
cho phép chúng ta quán nhận nó như một sự hiện hữu thật (nói
cách khác là phải quán nhận được Tánh Không của Tánh Không). Trong hai tiết sau đây Tịch Thiên sẽ chứng minh
cho thấy rằng việc thiền định về Tánh Không sẽ giúp chúng ta đạt được thể dạng phi-khái-niệm
(vượt thoát khỏi thế giới quy ước).
Tiết 33. Khi chúng ta cho rằng không có gì
hiện hữu cả thì ngay cả đối tượng của sự tiếp cận ấy - tức có nghĩa là chính
hiện thực - cũng sẽ không thể nào có thể nhận biết được. Vậy thì sự
phi-hiện-thực khi đã mất hết cơ sở chống đỡ nó thì nó sẽ hiện ra trong tâm thức
như thế nào?
Tiết 34. Khi không còn một thể dạng hiện-thực
hay phi-hiện-thực nào hiện ra trong tâm thức thì mọi phương cách tiếp cận (tìm cách nắm bắt)
cũng sẽ không còn nữa và nhờ đó tri thức sẽ được giải thoát khỏi mọi khái niệm
và sẽ lắng xuống (cũng xin nhắc lại là theo huyền thoại thì khi Tịch Thiên giảng
đến câu này thì bất thần bay bổng lên không trung và đứng lơ lửng bên cạnh
Bồ-tát Văn Thù).
Đứng vào vị thế Trung Quán, Tịch Thiên công nhận sự vững chắc
của tất cả các quy ước thuộc thế giới tương đối - chẳng hạn như quy luật nguyên
nhân hậu quả và việc tu tập có thể mang lại hiệu quả giúp cho người tu tập vượt
thoát khỏi chu kỳ hiện hữu (tức là vòng luân hồi). Điều ấy nào có khác gì
với những người chủ trương thuyết Duy Thực (Realism / còn gọi là chủ nghĩa hay chủ thuyết Hiện Thực, trong
số này gồm một vài chi Phái Phật Giáo xưa và hầu hết các tín ngưỡng thời bấy
giờ) khi họ chủ trương mọi vật thể và sự kiện hiện hữu đích thật và đồng
thời cũng nói đến con đường đưa đến sự giải thoát hoàn toàn và khả năng giúp
đạt được mục đích đó. Theo tác giả của tập Hành
trình đến Giác Ngộ thì dù cho rằng trên phương diện tối hậu không có bất cứ
một thứ gì mang bản chất hiện thực và nội tại, thì quan điểm ấy cũng không phải
là một sự trở ngại khi nêu lên việc thực hiện Phật Tính (một mặt thì không chấp nhận bất cứ gì hiện
hữu, một mặt thì chủ trương việc tu tập sẽ giúp đạt được Phật Tính, vậy đấy có
phải là một sự mâu thuẫn hay không?); điểm này sẽ được trình bày trong
các tiết sau đây:
Tiết 35. Cũng
chẳng khác gì như một tảng đá mầu nhiệm hay một gốc cây linh thiêng giúp thực
hiện những lời cầu xin của chúng sinh, chư Phật cũng có thể hiển lộ được (tức
là các vị Bồ-tát có thể phát hiện được Phật Tính và trở thành Phật) nhờ vào những lời ước nguyện mang lại sự an lành cho
tất cả chúng sinh.
Tiết 36. Tuy rằng vị tu sĩ Bà-la-môn Shanku
đã qua đời từ lâu thế nhưng ngôi Chùa Ca-lâu-la (Garuda) do ông ta để lại vẫn
tiếp tục chữa lành những người uống nhầm thuốc độc hoặc bị tai ương.
Tiết
37. Cũng tương tự như thế ngôi Chùa do những vị Chiến Thắng (những vị Bồ-tát
đắc đạo đã chiến thắng được vô minh) lưu lại vẫn tiếp tục bảo toàn được
hiệu quả của những lời ước nguyện của họ trước đây trên đường tu tập hướng về Giác
Ngộ, dù các vị Bồ-tát ấy đã hoàn toàn tịch diệt.
Tịch Thiên tự đặt mình vào vị
trí những người phản kháng lại ông bằng cách nêu lên câu hỏi sau đây:
Tiết 38 a,b (quan điểm Thanh Văn Thừa -
Sharavaka) Làm thế nào mà việc thờ phụng một người mà tư duy không còn bị tản
mạn nữa (tức
là Đức Phật, một người đã thực hiện được sự chú tâm tối thượng và loại bỏ được
các tư duy tản mạn / pensées discursives / discursives thoughts) lại có
thể mang lại hiệu quả?
Tịch Thiên đáp lại câu hỏi trên
đây như sau:
Tiết 38 c,d.
(quan điểm Trung Quán) Như đã được nói đến trên đây: thờ phụng một vị Phật còn sống
hay một vị Phật đã tịch diệt thì cũng chẳng có gì khác nhau.
Tiết 39. Dù có cho rằng những điều đạo hạnh biểu trưng bởi Phật Tính
chỉ toàn là ảo giác đi nữa, hoặc là theo quan niệm của quý vị (những người Duy
Thực) cho rằng những điều ấy là
thật đi nữa, thế nhưng kinh sách đều xác nhận rằng dù trong bất cứ trường hợp
nào và dù có xem Đức Phật là thật hay không thật, thì kết quả mang lại cũng sẽ
giống như nhau (dù Đức Phật và Phật Tính chỉ là ảo giác theo quan điểm của
Trung Quan, hay là tất cả những thứ ấy là thật theo quan điểm của Duy Thực
(Realism), thì việc tu tập cũng vẫn đưa đến sự Giác Ngộ như nhau. Tuyệt vời
thay câu kết luận của Tịch Thiên nêu lên trong tiết 39 trên đây, sau khi bài
bác chủ thuyết Duy Thực (Realism, chương IV) và cả học thuyết Duy Tâm
(Cittamatra, chương V).
THIỀN ĐỊNH
Đến đây, chúng ta
hãy dành ra vài phút để thiền định. Chúng ta hãy hình dung mình đang phát lộ một
xúc cảm thật mạnh, chẳng hạn như đang nổi cơn thịnh nộ hay đang bám víu vào một
người nào đó, và chúng ta tưởng tượng xem các phản ứng của mình đối với người
ấy dưới sự chi phối của những thứ xúc cảm trên đây sẽ như thế nào. Sau đó chúng
ta hãy so sánh các cảm tính ấy với các cảm tính mà mình cảm nhận được đối với các
người khác trong những lúc bình thường. Sự so sánh ấy sẽ giúp chúng ta theo dõi
được quá trình tâm lý liên hệ đến những xúc cảm bấn loạn cực mạnh, chẳng hạn
như sự giận dữ, và nhờ đó chúng ta cũng sẽ hiểu được tại sao sự kiện bám víu
vào một vài đặc tính chủ quan đã được "cụ thể hóa" (réifier / reify)
mà chúng ta cố tình áp đặt cho một người nào đó lại là nguồn gốc mang lại mọi
thứ đớn đau và khổ nhọc cho mình.
6
Tính cách đích thật của Đại Thừa
Tạo
ra nguyên nhân mang lại hạnh phúc
Trong tập Dẫn nhập về Con
Đường Trung Quán (Madhyamakavatara / Nhập Trung Luận), Nguyệt Xứng
(Chandrakirti) khẳng định rằng thế giới, trong đó gồm chúng sinh có giác cảm và
môi trường sống của các chúng sinh ấy, là kết quả phát sinh từ một tổng thể kết
hợp bởi vô số nguyên nhân và điều kiện. Khi nói lên điều ấy Nguyệt Xứng muốn
nhấn mạnh đến sự kiện là nghiệp (karma)
của chúng sinh là do rất nhiều nguyên nhân và điều kiện tạo ra. Mỗi cá thể (con người và sinh
vật nói chung) sinh ra trong thế giới, tan rã và chấm dứt sự hiện
hữu của mình - nếu nhìn vào chuỗi níu kéo liên tục (continuum) của các nguyên
nhân và điều kiện (điều kiện ở đây có thể hiểu như là cơ duyên) thì chúng ta sẽ
nhận thấy ngay đấy chính là nghiệp (và dòng níu kéo đó chính là sự luân lưu của nghiệp),
và nghiệp thì cũng có thể là tiêu cực hay tích cực. Nghiệp tàng ẩn bên trong tâm
ý và xu hướng của một cá thể, tức là những gì phản ảnh thể dạng tâm thức của cá
thể ấy. Chúng ta đều hiểu rằng một thể dạng tâm thức bình lặng và cảnh giác sẽ
mang lại các cảm nhận an bình và tích cực, trái lại một thể dạng tâm thức mang
một xung năng tiêu cực tất sẽ đưa đến những cảm nhận đau buồn và khổ sở. Có rất
nhiều kinh sách khác nhau ghi chép lại lời của Đức Phật dạy rằng tâm thức chính
là kẻ sáng tạo ra tất cả chúng sinh có giác cảm, cõi luân hồi (samsara) và cả niết bàn (nirvana). Thật vậy, dưới một góc nhìn
nào đó tâm thức quả đúng là kẻ sáng tạo ra luân hồi và cả niết bàn (khi tâm thức cảm
nhận được sự an bình và phúc hạnh thì đấy là niết bàn, khi nó cảm nhận được sự
đớn đau và sợ hãi thì đấy là cõi luân hồi).
Tất cả mọi cá thể đều bình đẳng với nhau trên phương diện mong
cầu hạnh phúc và lẫn tránh khổ đau. Nếu muốn thực hiện đuợc ước vọng đó thì
phải tạo ra các nguyên nhân và điều kiện nào mang lại hạnh phúc, và đồng thời
phải loại bỏ các nguyên nhân và điều kiện nào đưa đến khổ đau và lo buồn. Đấy
cũng chính là cốt lõi của việc tu tập Đạo Pháp.
Thể dạng tâm thức của chúng ta đang trong lúc này - có nghĩa
là đang được hạnh phúc hay phải lo buồn, hoặc bất cứ một thể dạng xúc cảm nào khác - là do nhiều yếu tố tạo ra,
các yếu tố ấy lắm khi cũng chỉ đơn giản liên quan đến thân xác, chẳng hạn như
cảm thấy mệt mỏi hay thoải mái. Tuy nhiên cũng có vô số các quá trình tư duy
khác không nhất thiết là tùy thuộc vào
các điều kiện vật chất. Nói một cách vắn tắt là phải biến cải nội tâm mình mới
có thể mang lại những thể dạng tâm thức mà mình mong muốn.
Khi đề cập đến tâm thức (spirit) hay tri thức (consciousness)
thì chúng ta phải gạt bỏ ngay ý nghĩ cho đấy là một thứ gì đó mang một thể tính
độc lập và toàn diện (monolithic / toàn khối, đơn thuần, độc tôn..., tóm lại là
không nên nghĩ rằng tâm thức hay tri thức mang tính cách thuần nhất, chuyên
biệt, biểu trưng cho một "cái ngã" hay một "cái tôi" nào đó). Nếu
có vô số các chủ đề để suy tư thì cũng có vô số các thể dạng tri thức hiện ra
trong thế giới nội tâm của mình, tức là các xu hướng tâm thần khác nhau, thí dụ
như các thể dạng tâm thức, các quá trình tư duy, v.v... (nói cách khác là nếu có vô số chủ đề khiến
chúng ta phải quan tâm đến chúng thì cũng sẽ có vô số những thế dạng tri thức
phát sinh trong nội tâm của mình liên quan ít nhiều đến các chủ đề ấy. Một cách
tổng quát tâm thức là một guồng máy vận hành thật phức tạp và đa dạng)
Đối với các vật thể vật chất bên ngoài, chúng ta có thể nhận thấy dễ dàng một
số mang lại lợi ích và một số khác thì có hại; sự phân biệt đó, một mặt sẽ giúp
chúng ta biết tránh xa những thứ nguy hiểm và một mặt tìm cách làm gia tăng
thêm hiệu quả của những thứ mang tiềm năng tích cực. Cũng tương tự như thế, đối
với thế giới nội tâm - và nhờ vào khả năng biết phân biệt ấy - chúng ta biết
lựa chọn các thể dạng tâm thức nào cần phải phát huy nhằm mang lại cho mình
chẳng những một sự thanh thản ngắn hạn, mà còn tạo ra trong lâu dài các thể
dạng tâm thần tích cực và hạnh phúc hơn.
Một số các tư duy và xúc cảm có thể bất thần tạo ra cho chúng
ta những bấn loạn tâm thần đưa đến một tâm trạng tiêu cực. Một số ngay khác
trong lúc đầu có thể mang lại các cảm tính thích thú hay hạnh phúc, thế nhưng
sau đó thì bản chất tàn phá của chúng cũng sẽ hiện ra. Vì thế quả là một điều
hệ trọng là phải nhận ra các thể dạng tâm thần nào mang tính cách nguy hại và
các thể dạng nào lợi ích.
Ngay cả đối với các thể dạng tâm thần lợi ích thì chúng ta
cũng phải phân biệt xem những thứ lợi ích nào có tính cách ngắn hạn và những
thứ lợi ích nào lâu bền hơn. Khi phải lựa chọn thì không được đắn đo gì cả,
phải chọn ngay những lợi ích lâu dài. Một vài thể dạng tâm thức lúc đầu có thể
mang lại cho mình ít nhiều bực bội, những điều không vừa ý hoặc không thích thú
gì cả. Thế nhưng nếu biết giữ sự bình thản để đương đầu với chúng - sẵn sàng
giải quyết những khó khăn xảy đến - thì chúng ta cũng sẽ cải thiện được hoàn
cảnh đó hầu mang lại cho mình những thể dạng tâm thức thăng bằng và hạnh phúc
hơn. Khi nào biết cân nhắc giữa những hiệu quả ngắn hạn và lâu dài thì khi đó
chúng ta mới có thể phát huy được những thể dạng tâm thức tích cực, mang lại
những hậu quả mà mình mong đợi.
Khi cần phải chọn lựa giữa
các hành động và những thể dạng tâm thức nào nên thực thi và các hành động cũng
như các thể dạng nào nên loại bỏ, thì phải hết sức thận trọng. Khả năng biết
phân biệt và chọn lựa dựa vào các tiêu chuẫn khác nhau thường được gọi là "tri thức phân biệt" (conscience
discriminante / discriminating awareness / sự nhận thức mang tính cách phân
biệt), là một trong những nét
tiêu biểu nhất của loài người. Mặc dù tất cả chúng sinh có giác cảm đều ngang
hàng với nhau trên phương diện mong cầu từ bản năng đạt được hạnh phúc và tránh
khỏi khổ đau, thế nhưng chỉ có con người là có nhiều khả năng hơn cả, tức biết
cân nhắc giữa những hậu quả ngắn hạn và lâu dài. Nhờ vào khả năng biết suy nghĩ
bao quát hơn nên con người cũng phát huy được một tiềm năng to lớn hơn giúp họ
thực hiện những hoài bão của họ.
Trong số các thể loại tri thức
phân biệt (discriminating
awareness / sự nhận thức phân biệt) thì thể loại giúp quán thấy được
bản chất tối hậu của hiện thực là hệ trọng hơn cả - và đấy cũng chính là khả
năng giúp thực hiện Tánh Không. Có rất nhiều phương pháp không quá tầm với của
chúng ta thế nhưng lại có thể giúp chúng ta phát huy được sự hiểu biết tối
thượng ấy. Một trong trong số các phương pháp quan trọng nhất là cách nghiên
cứu kinh sách giải thích về triết học Tánh Không, và đấy cũng là những gì sẽ
được trình bày trong quyển sách này.
Hai nền văn hóa về sự hiểu biết mang hai
khuynh hướng khác nhau
Một cách tổng quát và trong lãnh vực hiểu biết trí thức, chúng
ta có thể cho rằng các triết gia Đông Phương quan tâm nhiều hơn đến việc tìm
hiểu bản chất của thế giới nội tâm - nhất là đối với tín ngưỡng Phật Giáo -
trong khi đó nền văn hóa Tây Phương lại có vẻ chú trọng đến việc tìm hiểu thế
giới bên ngoài nhiều hơn. Do đó chúng ta có thể nghĩ rằng Đông Phương và Tây
Phương có hai nền văn hóa khác biệt nhau, và đặt những tầm quan trọng khác nhau
về thế giới nội tâm cũng như thế giới bên ngoài. Nếu đã là con người thì chúng
ta cũng nên tìm hiểu cả hai.
Ở thế giới Đông Phương khoa học và kỹ thuật không
được phát triển đúng mức. Trái lại ở Phương Tây nền văn hoá trí thức hướng vào
việc khám phá thế giới bên ngoài lại được chú trọng hơn, và cũng chính vì thế
nên các ngành tâm lý học và khoa học nhân văn của Phương Tây còn ở vào tình
trạng mới mở mang (ngành tâm lý học hiện đại của Tây Phương chỉ mới bắt đầu được hình thành
vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX với Sigmund Freud và Carl Jung, trong khi
dó các khía cạnh tâm lý học và phân tâm học trong giáo lý Phật Giáo đã được Đức
Phật nói đến hơn hai ngàn năm trăm năm trước, và Vô Trước cũng đã thiết lập học
phái Duy Thức từ thế kỷ thứ IV). Tóm lại Đông Phương phải cố gắng
hơn về khoa học và kỹ thuật (chẳng hạn như trường hợp của Nhật Bản và Hàn Quốc),
thế giới Tây Phương ngược lại cần phải phát triển thêm về sự hiểu biết tâm
linh, tức là phải tìm hiểu tri thức và khái niệm về "cái tôi" (tức "cái ngã")
là gì (tiếc thay
có một số quốc gia Đông Phương vẫn chưa nhìn thấy điều đó, có nghĩa là thay vì
một mặt phải biết khai thác gia tài có sẵn của mình là những sự hiểu biết thuộc
lãnh vực tâm linh tức là cũng có nghĩa là những gì liên hệ đến tín ngưỡng và
đạo đức, và một mặt phải dồn mọi nỗ lực vào việc bắt kịp Tây Phương trên phương
diện khoa học và kỹ thuật, thì lại cứ
tiếp tục quan tâm đến những vấn đề thiển cận, thấp kém, không mang một
giá trị đạo đức cũng như tinh thần nào cả, hầu giúp xứ sở bắt kịp đà tiến hóa
chung của nhân loại).
Điều này cho thấy tại sao
lại có rất nhiều người Tây Phương quan tâm đến các tôn giáo Đông Phương đến
thế. Sự quan tâm đó không nhất thiết chỉ nhằm vào mục đích tìm kiếm một con
đường tâm linh cho cá nhân mình mà thật ra đã được thúc đẩy bởi sự tò mò mang
tính cách trí thức (nhiều học giả và triết gia Tây Phương
không phải là người Phật Giáo thế nhưng họ rất say mê trong việc nghiên cứu và
tìm hiểu Phật Giáo). Theo tôi thì
điều này rất chính đáng, bởi vì khi nghiên cứu những gì khác hơn với các quan
điểm có sẵn của mình sẽ giúp mình khám phá ra những tầm nhìn mới góp phần tái
tạo lại thế giới - và cả cuộc đời của chính mình nữa (khi
nhìn vào sự hăng say đó của người Tây Phương thì chúng ta, những người Á Châu
trong một số quốc gia, nên ý thức rằng không nên khư khư ôm lấy quan điểm của
mình mà phải nhìn vào những đường hướng tiến bộ chung của cả thế giới hầu giúp
mình nhận thấy những sai lầm của mình nhằm đưa dân tộc và quê hương mình không
đi ngược lại đà tiến hóa chung của nhân loại).
BINH GIẢI
Tính cách đích thật của Đại
Thừa và Tánh Không
Đến đây chúng ta lại tiếp tục bình
giải một phân đoạn phụ trong tác phẩm của Tịch Thiên bắt đầu từ tiết 40. Trong
phân đoạn phụ này Tịch Thiên nói đến sự cần thiết phải thực hiện Tánh Không nếu
muốn đạt được sự giải thoát khỏi chu kỳ hiện hữu hay cõi luân hồi, tức là những
gì đối nghịch lại với sự Giác Ngộ hoàn hảo. Hai cách bình giải của Phật Giáo
Tây Tạng đã được nói đến trên đây phân chia phân đoạn này theo hai cách khác
nhau.
Khentchen Kunzang Palden trong tập
bình giải của mình cho biết rằng bắt đầu từ phân đoạn này cần nhất phải nêu lên
vấn đề đích thật của Đại Thừa. Trái lại đối với Minyak Kunzang Seunam thì phải
chứng minh cho thấy là việc thực hiện Tánh Không là điều tối cần thiết, dù chỉ
đơn giản ước mong thoát khỏi cõi luân hồi cũng thế (muốn đạt được sự Giác Ngộ phải phát huy trí
tuệ tức là phải thực hiện được Tánh Không, trong khi đó việc tu tập nhằm vào
mục đích thoát khỏi vòng luân hồi sẽ không cần đến trí tuệ và cũng có nghĩa
là không cần đến sự hiểu biết Tánh
Không). Sự khác biệt giữa hai quan điểm trên đây (của hai nhà sư Tây
Tạng) về phân đoạn này tất nhiên sẽ đưa đến hai cách bình giải khác
nhau.
Cách lập luận được trình bày dưới đây
sẽ làm nổi bật tầm quan trọng trong việc tìm hiểu Tánh Không do nhóm Trung Quán
chủ trương. Tịch Thiên trước hết tự đặt mình vào vị trí của những người chống
đối lại quan điểm này bằng cách đưa ra câu hỏi như sau: "Trong phạm vi của
quan điểm cho rằng chỉ cần suy nghiệm về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế)
cũng đủ để đạt được sự giải thoát khỏi vòng luân hồi, thì tất nhiên chỉ cần
thấu hiểu được Bốn Sự Thật ấy cũng là đủ, nào có cần đến việc thực hiện Tánh
Không để làm gì?".
Tiết 40. (quan điểm Đại Tỳ Bà Sa Luận -
Vaibhashika - một tông phái xưa của Tiểu Thừa) Nếu đạt được sự giải thoát bằng
cách quán thấy Tứ Diệu Đế thì sự quán thấy Tánh Không sẽ chẳng còn ích lợi gì
nữa?
(quan điểm Trung Quán) Bởi vì, theo kinh
sách (kinh
Bát-Nhã Ba-la-mật-đa) thì không thể nào đạt được sự Giác Ngộ bên ngoài
con đường đó.
Tịch Thiên đáp lại như sau: theo kinh sách ghi chép thì chính
Đức Phật cũng đã từng nói rằng nếu không bước vào con đường tu tập Tánh Không,
thì sẽ không thể nào đạt được sự giải thoát khỏi chu kỳ hiện hữu - kinh sách mà
Tịch Thiên muốn nói đến chính là bộ kinh Đại Thừa Hoàn Thiện Trí tuệ (Prajnaparamita / Kinh Bát Nhã Ba-la-mật-đa).
Trong kinh này Đức Phật giảng rằng khi nào vẫn còn
xem mọi hiện tượng hàm chứa một sự hiện hữu thật thì sẽ không sao có thể tìm
thấy sự giải thoát. Dù chỉ muốn đạt được thể dạng niết bàn đi nữa thì nhất
thiết cũng phải thực hiện Tánh Không. Dầu sao đi nữa, nếu muốn chủ trương quan
điểm đó thì nhất thiết phải chấp nhận kinh sách Đại Thừa là giáo huấn đúng thật
của Đức Phật.
Các tông phái Phật Giáo khác chẳng hạn như Tiểu Thừa vẫn
thường nêu lên sự nghi ngờ về tính cách đích thật của kinh sách Đại Thừa, và
không cho rằng các kinh sách ấy đã ghi chép lại những lời giảng của Đức Phật.
Vì thế nên Tịch Thiên đã dồn tất cả nỗ lực vào việc chứng minh tính cách đích
thật của kinh sách Đại Thừa. Những người không chấp nhận quan điểm này đưa ra
những lời bài bác qua tiết sau đây:
Tiết
41. (quan điểm Đại Tỳ Bà Sa Luận,) Thế nhưng (kinh sách) Đại Thừa không hề được
chứng minh (là
đích thật).
(quan
điểm Trung Quán) Thế thì kinh sách của quý vị có được chứng minh (là đích thật)
hay không?
(quan
điểm Đại Tỳ Bà Sa Luận) Chính quý vị đã chấp nhận cả hai loại kinh sách kia mà (Phật Giáo Đại Thừa
chấp nhận tính cách đích thật của cả hai loại kinh sách Tiểu và Đại Thừa).
(quan
điểm Trung Quán) Vậy thì có phải là trước chúng tôi các kinh sách ấy chưa được
chấp nhận?
Tịch Thiên đáp lại sự chỉ trích trên đây bằng cách nêu
lên câu hỏi như sau: "Quý vị chứng minh (tính cách đích thật của) tông
phái của quý vị như thế nào?". Câu này muốn nói là những người Trung Quán
cũng nghi ngờ cả nguồn gốc của cả kinh sách Tiểu Thừa. Những người Đại Tỳ Bà Sa
Luận cho biết rằng kinh sách Tiểu Thừa được chấp nhận bởi cả Tiểu Thừa lẫn Đại
Thừa, trong khi đó tính cách đích thật của kinh sách Đại Thừa lại không được
Tiểu Thừa công nhận. Về điểm này, những người Trung Quán đáp lại rằng sự đích
thật của kinh sách Tiểu Thừa cũng chưa hẳn là một sự hiển nhiên bởi vì không
được chứng thực từ nguyên thủy: điều này có nghĩa là những người Tiểu Thừa có
thể đưa ra các luận cứ chính xác để chứng minh tính cách đích thật của kinh
sách của họ hay không?
Trong tiết dưới đây Tịch Thiên lại
phát biểu thêm như sau: nếu quý vị tìm hiểu vì những lý do nào chúng tôi chấp
nhận kinh sách Đại Thừa thì rồi quý vị cũng sẽ phải chấp nhận sự vững chắc của
các kinh sách ấy mà thôi.
Tiết 42. Nếu quý vị tin tưởng vào tính cách
đích thật của kinh sách của quý vị nhờ vào những lý do nào thì chính những lý
do ấy cũng có thể áp dụng cho trường hợp của kinh sách Đại Thừa. Nếu sự đích
thật chỉ cần đòi hỏi phải có sự thỏa
thuận của hai người, thì các kinh Phệ-đà (Veda, là các kinh được chấp nhận đồng loạt
bởi Phệ-đà Giáo, Bà-la-môn Giáo và cả Ấn Giáo) và cả các kinh sách khác
nữa (nếu
được nhiều người chấp nhận) cũng phải được xem là đích thật hay sao?
Nếu theo quý vị cho rằng chỉ
cần hai phía - Tiểu và Đại Thừa - đồng ý chấp nhận sự vững chắc của kinh sách
Tiểu Thừa thì cũng đã đủ để thừa nhận tính cách đích thật của các kinh sách ấy,
thì quý vị cũng phải chấp nhận cả những lời giáo huấn trong kinh Phệ-đà chẳng
hạn, bởi vì quý vị sẽ luôn luôn nhận thấy có hai phe chấp nhận sự đích thật của
các kinh sách này (như đã được chú thích trên đây, kinh Phệ-đà được chấp nhận rộng rãi ở Ấn
Độ).
Tịch Thiên lại tiếp tục nêu lên cách lập luận của mình trong
tiết sau đây: nếu đơn giản chỉ cần có người phản đối sự vững chắc và tính cách
đích thật của kinh sách Đại Thừa là cũng đủ để bác bỏ sự vững chắc của các kinh
sách ấy hay sao, nếu đúng như thế thì cũng phải nêu lên sự nghi ngờ về tính
cách vững chắc của cả kinh sách Tiểu Thừa nữa.
Tiết 43. (quan điểm Đại Tỳ Bà Sa Luận) Có
nhiều nghi vấn đối với kinh sách Đại Thừa.
(quan điểm Trung Quán) Những người ngoài
Phật Giáo cũng như những người thuộc các học phái Phật Giáo khác cũng có thể
nêu lên nghi vấn về kinh sách của quý vị. Vậy tại sao quý vị lại không loại bỏ
ngay các kinh sách của quý vị đi!
Lúc nào cũng có thể có những người Phật Giáo cũng như ngoài
Phật Giáo nghi ngờ về tính cách đích thật của một số kinh sách Tiểu Thừa. Sự
kiện một vài cá nhân hoài nghi tính cách đích thật của một số các kinh sách ấy
không có nghĩa là phải hoàn toàn không được tin vào tính cách đích thật của
chúng. Một cách ngắn gọn, bất cứ những luận cứ nào mà những người Tiểu Thừa nêu
lên để chứng minh tính cách đích thật của kinh sách của họ cũng đều có thể áp
dụng để chứng minh tính cách đích thật của kinh sách Đại Thừa. Trên đây là cách
lập luận của Tịch Thiên nhằm chứng minh kinh sách Đại Thừa đúng thật là giáo
huấn của Đức Phật.
Ngoài
ra cũng còn nhiều luận cứ khác nêu lên tính cách đích thật của kinh sách Đại
Thừa. Chẳng hạn như theo Long Thụ nếu không có giáo huấn Đại Thừa - tức là một
hệ thống giáo lý chủ trương nhiều cấp bậc khác nhau: gồm các địa giới (thập
địa) và các chặng đường tu tập -
thì chúng ta cũng sẽ không thể nào đạt được sự Giác Ngộ hoàn hảo. Ngay cả phép
tu tập về ba mươi bảy phẩm tính phụ trợ của Giác Ngộ (bodhipaksikadharma
/ Tam thập thất đạo phẩm, tức là ba mươi bảy yếu tố hay phẩm tính hỗ trợ người
tu tập trên đường đưa đến Giác Ngộ, gồm: bốn phẩm tính của sự chú tâm, bốn sự
buông xả, bốn phẩm tính diệu kỳ, năm khả năng, năm nghị lực, bảy yếu tố giúp
quán nhận được Tứ Diệu Đế, con đường gồm tám điều đúng đắn gọi là Bát Chánh
Đạo) mà chính giáo huấn Tiểu Thừa
cũng chủ trương, sẽ không sao hội đủ khả năng giúp mang lại Giác Ngộ được. Con
đường của ba mươi bảy phẩm tính phụ trợ là con đường chung hướng vào cả ba mục
tiêu ở ba cấp khác nhau: a) đạt được cấp bậc a-la-hán theo chủ trương của Thanh
Văn Thừa (Shravakayana / một thừa Phật Giáo chủ trương chỉ cần
nghe thuyết giảng về kinh sách thuộc "vòng quay thứ nhất" của bánh xe
Đạo Pháp cũng có thể đạt được Giác Ngộ), b) đạt được cấp bậc a-la-hán nhờ vào sự tu tập đơn độc (pratyekabouddha
/ Bích Chi Phật, tức là một người tự tu tập và trở thành a-la-hán không cần đến
sự chỉ dạy của ai cả), c) đạt
được cấp bậc a-la-hán của một vị Phật hoàn hảo. Nếu có một sự khác biệt rõ rệt
ở cấp bậc kết quả thì đương nhiên cũng phải có một sự khác biệt thật quan trọng
ở cấp bậc nguyên nhân. Long Thụ khẳng định rằng phải dựa vào các kinh sách Đại
Thừa mới có thể quán thấy được con đường tu tập vững chắc đưa đến Giác Ngộ.
Phật tính và khái niệm về tam thân
Theo kinh sách sou-tra (soutra là tiếng Pa-li. Theo quy ước chung thì khi nào
gọi kinh sách là "sou-tra" thì đấy có nghĩa là các kinh sách Tiểu
Thừa bằng tiếng Pa-li, khi nào gọi là "su-tra", tiếng Phạn là sutrạ,
thì đấy có nghĩa là các kinh sách bằng tiếng Phạn của Đại Thừa) của Tiểu Thừa thì
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong khoảng thời gian từ thuở ấu thơ đến năm hai
mươi chín tuổi, chỉ là một vị hoàng tử (như những vị hoàng tử bình thường khác). Sau khi bắt đầu tu tập thiền định và sống khổ hạnh
trong suốt sáu năm ròng rã thì Ngài mới đạt được sự Giác Ngộ hoàn hảo vào lúc
ba mươi lăm tuổi. Kể từ đó và suốt trong bốn mươi lăm năm liên tiếp Ngài không
ngừng xả thân vì sự an vui của tất cả chúng sinh có giác cảm. Cho đến một hôm,
lúc ấy Ngài đã tám mươi tuổi và ở nơi thị trấn Câu-thi-na (Kushinagara) cảnh
giới bát-niết-bàn (parinirvana) vụt hiện
ra với Ngài. Nếu hiểu theo kinh sách Tiểu Thừa, thì Ngài biến mất trong hư vô,
đánh dấu sự chấm dứt của dòng tiếp nối liên tục của tri thức Ngài. Nếu đúng
thật như thế thì chúng ta phải chấp nhận quan điểm theo đó sau khi gom góp
những điều đạo hạnh và phát huy trí tuệ suốt trong ba khoảng thời gian vô tận (tức
là kalpa hay "kiếp" là một khái niệm Phật Giáo chỉ định một khoảng
thời gian rất dài, tương quan với một chu kỳ tiến hóa rất lớn và kéo dài rất
lâu của vũ trụ) thì Đức Phật chỉ
thuyết giảng về con đường giải thoát cho các chúng sinh có giác cảm khác chỉ
được vỏn vẹn bốn mươi lăm năm tròn thế thôi! Theo sự tin tưởng của tôi thì tôi
không nghĩ rằng dòng tiếp nối liên tục của tri thức sẽ chấm dứt sau khi hòa
nhập vào thể dạng phi-hiện-hữu - tức là niết bàn - mà đúng hơn vẫn còn tiếp tục
luân lưu, dù cho điều đó có nghĩa là vẫn còn lưu lại trong chu kỳ hiện hữu (Đức
Phật tiếp tục hiện hữu dưới các thể dạng Tam Thân).
Trái lại theo kinh sách Đại Thừa
thì hoàng tử Tất-đạt-đa đã đạt được sự Giác Ngộ hoàn hảo từ trước. Thân xác của
của vị hoàng tử ấy chỉ là một hình thức Ứng Thân (Nirmanakaya), còn gọi là Hóa Thân (hay Ứng Hóa Thân) của một vị Giác
Ngộ (tức là thân
hình tướng của một vị Phật hiển hiện trở lại trong thế giới luân hồi với mục
đích cứu độ chúng sinh). Hiện thân của Vị ấy biểu trưng cho bản thể
đích thật của một vị Phật (hay Phật Tính) và được gọi là Pháp Thân (Dharmakaya) hay Thân Đạo Pháp. Trong
khung cảnh đó (tức
trong phạm vi của khái niệm Tam Thân) vị ấy còn mang một thân khác
nữa gọi là Báo Thân (Sambhogakaya / hay Thụ Dung Thân) tức là thân
tái sinh, nhờ vào thân này một vị Phật có thể hiện ra dưới nhiều hình tướng vật
chất thật đa dạng (xin lưu ý Tam Thân không có nghĩa là ba thể dạng thân xác khác nhau mà
đấy chỉ là ba phương tiện hay ba cách diễn đạt khác nhau nhằm chỉ định một
Vị Giác Ngộ). Dưới một khía
cạnh nào đó thì cách diễn đạt trên đây về bản thể của Phật tỏ ra khó có thể
hình dung được (inconcevable
/ không thích nghi, khó để chấp nhận vì tính cách đa dạng trong sự biểu trưng một
vị Phật). Tuy nhiên dưới một góc nhìn khác thì cách diễn đạt ấy lại
cho thấy một sự hợp lý thật tuyệt vời khi chúng ta đã hiểu rằng phải cần có một
sự kết hợp vô cùng phức tạp của thật nhiều nguyên nhận và điều kiện mới có thể
đưa đến thể dạng Giác Ngộ hoàn hảo (có nghĩa là sự Giác Ngộ của một vị Phật là kết quả của một
sự kết hợp gồm thật nhiều nguyên nhân và điều kiện. Sự đa dạng của nguyên nhân
và điều kiện tất sẽ phải đưa đến sự đa dạng của kết qua. Một vị Phật Giác Ngộ
sẽ có thể hiện ra dưới muôn hình tướng khác nhau). Theo tôi, khái
niệm trên đây về Phật Tính mang nhiều ý nghĩa hơn so với thể dạng phi-hiện-hữu
nêu lên trong kinh sách Tiểu Thừa (sự Giác Ngộ không nhất thiết chỉ đơn giản là một sự đình
chỉ (nirodha) theo quan điểm Tiểu Thừa; khái niệm Tam Thân nói lên sự mở rộng
của thể dạng Giác Ngộ hay Phật Tính: các vị như A-dục, Long Thụ, Vô Trước, Huệ
Năng, Đạo Nguyên... cho đến Đức Đạt-Lai Lạt-Ma XIV ngày nay, hoặc đơn giản hơn
chỉ là những hình tướng mang tính cách biểu trưng chẳng hạn như một nhịp cầu,
một con đò, một bóng mát, đều là những cách hiển lộ hay là những biểu hiện của
Tam Thân, nói một cách khác thì đấy chính là các Ứng Thân của một vị Phật. Khi
chúng ta trông thấy một nhịp cầu, một dòng suối, một bóng cây bên vệ đường, một
pho tượng..., hoặc nghe một tiếng chuông hay một lời tụng niệm, thì cũng có
nghĩa là chúng ta trông thấy Phật và nghe thấy tiếng nói của Phật)
Tác động mang lại từ sự hiểu biết siêu nhiên
Đức
Phật giảng rằng hậu quả luôn luôn liên đới với nguyên nhân tạo ra nó. Đấy cũng
chính là nguyên tắc tổng quát của quy luật nhân quả. Vô minh - là nguyên nhân -
sẽ khích động một cá thể thực thi đủ mọi hành động. Các hành động ấy có thể
mang tính cách tiêu cực hay tích cực, và sẽ tạo ra vô số hậu quả khác nhau,
chẳng hạn như tái sinh vào nhiều cảnh giới khác nhau. Chỉ cần một sự tái sinh
duy nhất cũng đủ cho thấy là có vô số hậu quả, chẳng hạn như bối cảnh trong đó
một cá thể sẽ tái sinh (chỉ cần một kiếp người thế nhưng cũng có khi khổ sở, đau
buồn, có lúc lại được hạnh phúc, khoẻ mạnh. Kiếp sống đó lại được liên hệ với
đủ mọi bối cảnh, chung đụng và tiếp xúc với không biết bao nhiêu chúng sinh
khác. Đấy là sự phức tạp của hậu quả phát sinh từ vô số những nguyên nhân đa
dạng và phức tạp phát sinh trước đó, và đấy cũng là cách phải nhìn vào quy luật
nguyên nhân và hậu quả). Chúng sinh thật hết sức đa dạng, chẳng qua
đấy là vì các nguyên nhân và điều kiện tạo ra chúng cũng hết sức đa dạng. Tất
cả các thể dạng hiện hữu khác biệt ấy đều chất chứa toàn là khổ đau. Nếu chỉ
cần một nguyên nhân, chẳng hạn như tâm thức vô minh, có thể tạo ra sự đa dạng
của các hậu quả, thì cũng có thể hình dung các nguyên nhân của trí tuệ cũng có
thể mang lại thật nhiều kết quả khác biệt. Dầu sao đi nữa nếu chúng ta nghĩ
rằng chỉ cần đến tác động duy nhất của trí tuệ cũng đủ để đưa đến thể dạng Giác
Ngộ hoàn hảo, và dù điều đó không hề mang lai sự an vui cho các chúng sinh khác
đi nữa, thì chúng ta cũng sẽ có thể nghĩ rằng vô minh có thể là nguyên nhân
quan trọng nhất trong số các nguyên nhân khác có thể mang lại thật nhiều kết quả
khác biệt nhau. Các điều này hoàn toàn không mang ý nghĩa gì cả! (câu trên này có
nghĩa là trí tuệ không phải là một nguyên nhân "duy nhất" mang lại sự Giác
Ngộ, và vô minh cũng không phải là nguyên nhân "duy nhất" đưa đến sự
tái sinh. Trí tuệ cũng như vô minh là kết quả mang lại từ sự kết hợp của thật
nhiều nguyên nhân và điều kiện khác, hai thể dạng tâm thức đó cũng sẽ mang lại
đủ mọi thứ hậu quả khác nhau. Nguyên tắc về sự "đa dạng" về nguyên
nhân và cả hậu quả rất quan trọng trong Phật Giáo: không thể có một nguyên nhân
duy nhất nào có thể tạo ra được thật nhiều hậu quả mang tính cách đa dạng. Khi
đã thấu hiểu được nguyên tắc ấy thì cũng sẽ hết sức khó cho chúng ta có thể
hình dung ra một vị Sáng Tạo "duy nhất", tức là độc tôn và không do
bất cứ một nguyên nhân hay hậu quả mang tính cách đa dạng nào làm phát sinh ra
Vị ấy, và như thế nếu Vị ấy đúng thật là một nguyên nhân "duy nhất"
thì Vị ấy cũng sẽ không thể nào lại có thể "sáng tạo" ra cả thế giới
vô cùng đa dạng và phức tạp này. Nói cách khác, nếu như chúng ta có thể hình
dung ra được một vị Sáng Tạo theo ý nghĩa trên đây, thì đấy chính là do
"thật nhiều" nguyên nhân vô cùng phức tạp và đa dạng phát sinh trong
đầu của mình: đấy là vô minh).
Nguồn gốc kinh sách Đại Thừa
Thật hết sức
quan trọng là tất cả các tông phái và học phái Phật Giáo phải chấp nhận giáo
huấn về Bốn Sự Thật Cao Quý, bởi vì đấy là nền móng của toàn bộ con đường Phật
Giáo. Vì thế tôi đã nêu lên trên đây là nếu muốn thấu triệt trọn vẹn về Sự Thật
Thứ Ba, tức là sự Chấm Dứt Khổ Đau, thì nhất thiết phải dựa vào kinh sách Đại
Thừa. Nếu không nhờ vào sự phân tích tỉ mỉ của kinh sách Đại Thừa về Sự Thật
này thì sẽ hết sức khó cho chúng ta có thể hiểu được đầy đủ sự chấm dứt khổ đau
là gì.
Có thể chúng ta có cảm tưởng rằng phần lớn kinh sách Tiểu
Thừa, chẳng hạn như các kinh sách ghi chép bằng tiếng Pa-li, đều mang tính cách
đích thật vì lý do là tất cả các học phái đều công nhận đấy là những lời phát
biểu đúng thật của Đức Phật, và các kinh sách Đại Thừa thì không chính thống,
bởi vì các kinh sách này không được hình thành từ ba lần kết tập Đạo Pháp tổ
chức sau khi Đức Phật tịch diệt (lần kết tập thứ nhất được tổ chức một năm sau khi Đức Phật
tịch diệt, lần kết tập thứ hai được tổ chức khoảng 110 năm sau khi Đức Phật tịch diệt, lần kết tập thư ba khoảng
235 năm sau khi Đức Phật tịch diệt, tức là vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch,
trong khi đó Phật Giáo Đại Thừa chỉ bắt đầu được hình thành vào khoảng thế kỷ
thứ I trước Tây Lịch, vì thế kinh sách của tông phái này chỉ được hình thành
sớm nhất kể từ thế kỳ thứ I trước Tây Lịch. Dù sao cũng xin lưu ý là theo Phật
Giáo Tây Tạng thì Đại Thừa đã có từ thời kỳ của Đức Phật còn tại thế và Ngài
chỉ giảng về Đại Thừa riêng cho một số đệ tử). Nhằm để phản biện lại
sự chỉ trích trên đây, Thanh Biện (Bhavaviveka) trong phần Tự Phê (Tarkajvala) trong
quyển sách của ông mang tựa là Các Tiết
Đoạn Tâm Điểm Của Trung Quán Luận (Madhyamakabrdayakarika)
cho biết rằng các kinh sách Đại Thừa là do chính các vị Bồ-tát (trong thời kỳ Đức Phật
còn tại thế) thu góp và biên tập, trong số họ có thể kể ra vị Kim
Cương Thủ Bồ-tát (Vajrapani
/ một vị Bồ-tát cầm "kim cương chử" và đảm đang trọng trách bảo vệ
Đức Phật).
Hầu hết những gì đã được ghi chép trong các kinh sách Tiểu
Thừa là những bài thuyết giảng, trong khi đó kinh sách Đại Thừa lại không không
quan tâm đến phần giáo huấn mang tính cách đại chúng. Vì thế đối với cá nhân
tôi thì tôi nghĩ rằng không nên đánh giá kinh sách Đại Thừa bằng cách duy nhất
chỉ dựa vào các tiêu chuẩn lịch sử, tức là những gì chỉ mang tính cách quy ước.
Thiết nghĩ nên tìm hiểu sự tiến hóa của kinh sách Đại Thừa theo một góc nhìn
thiêng liêng hơn (trong
một ghi chú trên đây chúng ta cũng đã thấy rằng Tam Thân Phật có thể hiển hiện
dưới muôn nghìn thể dạng: từ các vị đại sư trong quá khứ cho đến Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma XIV ngày nay, và hơn thế nữa một bóng cây, một con đò hay một bến sông
cũng có thể xem là Ứng Thân của một vị Phật, do đó các kinh sách xuất hiện
muộn, tức là sau khi Đức Phật đã tịch diệt, biết đâu cũng có thể đã phát sinh
từ các cảm ứng của chính Ngài truyền sang cho các vị đại sư sau này? Dầu sao
thì một tín ngưỡng nếu không theo kịp sự tiến hóa của xã hội và kiến thức của
nhân loại thì sớm muộn gì cũng sẽ bị đào thải mà thôi. Kinh sách Đại Thừa là
một thí dụ điển hình cho thấy Phật Giáo là một tín ngưỡng mang những khả năng
thích ứng thật tuyệt vời với các nền văn minh của con người và sự tiến bộ chung
của nhân loại). Chẳng hạn như nhiều kinh sách của tông phái Kim
Cương Thừa đã được Đức Phật giảng dạy xuyên qua hình tướng và cá tánh
(identity) của các vị thần linh thiền định (câu này có nghĩa là các vị đại sư trong quá khứ thiền định
bằng phép quán tưởng các vị thần linh, và Đức Phật, qua trung gian của các vị
thần linh ấy, đã truyền sang cho các vị đại sư các cảm ứng thiêng liêng giúp họ
trước tác ra các kinh sách của Kim Cương Thừa). Do đó nhiều bài
giảng huấn của Đức Phật không nhất thiết đã được Ngài thuyết giảng trong kiếp
nhân sinh của Ngài trên hành tinh này.
Nhiều người tự tu tập đã tạo được nhiều nghiệp lành giúp họ
quán thấy được các vị thần linh hiện lên qua các mạn-đà-la (tiếng Phạn là mandala, có nghĩa là bầu không
gian diệu kỳ của một vị thần linh, thường được tượng trưng bằng một biểu đồ rất
tỉ mỉ và được sử dụng như một phương tiện trợ lực cho việc thiền định),
kể cả về sau này tức là sau khi Đức Phật đã tịch diệt. Những sự tiếp xúc thần
bí đó đã đưa đến sự hình thành của kinh sách. Ngày cả ngày nay người ta vẫn
thường thấy nhiều vị đại sư khám phá ra những "kho tàng tâm linh" (tiếng Tây Tạng là terma, có nghĩa là các kinh sách "dấu
kín"). Các vị này nhờ vào các khả năng đặc biệt của mình (linh cảm)
có thể phát hiện ra các kinh sách được dấu kín (tuy nhiên cũng có thể xem các kinh sách này
là các trước tác của họ nhờ vào những cảm ứng linh thiêng mà họ cảm nhận được
trong khi thiền định). Tất nhiên chúng ta phải thật cảnh giác để lột
mặt nạ những kẻ lường gạt (phải thật cảnh giác vì chung quanh chúng ta không hiếm
những người tự cho mình mang những khả năng thần bí nhằm mục đích lường gạt
những người dễ tin và nhẹ dạ)! Tuy nhiên sự kiện trên đây cũng cho
thấy là không nhất thiết phải hướng sự tu tập của mình ngược về vị Phật lịch sử
(có nghĩa là
không nhất thiết phải tu tập theo Phật Giáo Theravada mà có thể tu tập theo các
học phái được hình thành sau này, chẳng hạn như Thiền Học hay Kim Cương Thừa.
Dầu sao cũng cần hiểu rằng Phật Giáo Theravada luôn biểu trưng cho một chặng
đường vô cùng thiết yếu - có thể nói là không thể thiếu sót - giúp một người tu
tập bước những bước thật vững chắc trên con đường đưa đến Giác Ngộ).
Tuy nhiên một số các
học giả ngày nay không hẳn đã chấp nhận quan điểm trên đây (tức
là không công nhận tính cách chính thống của kinh sách Đại Thừa) bằng cách nêu lên luận cứ cho rằng các thể văn (hay
văn phong) sử dụng trong phần lớn
kinh sách Đại Thừa mang tính cách khá mới mẻ (có nghĩa là các kinh sách
này chỉ được trước tác vào các thời kỳ sau khi Đức Phật đã tịch dìệt), chẳng hạn như các kinh thuộc chung trong Kinh về sự Hoàn Thiện Trí Tuệ (Prajnaparamita-sutra
/ Kinh Bát Nhã Ba-la-mật-đa, một bộ kinh đồ sộ gồm rất nhiểu bản kinh khác
nhau; Tâm kinh và Kinh Kim Cương là hai bản kinh nổi tiếng nhất trong số các
bản kinh thuộc chung trong Kinh Bát Nhã), các thể văn của các kinh này không phải là các thể văn thưòng thấy
trong thời kỳ của Đức Phật. Do đó các học giả trên đây cho rằng các kinh sách
ấy không mang tính cách chính thống. Họ nêu lên
trưởng hợp của Kinh Thời Luân
(Kalachakra / Kinh Bánh Xe Thời Gian, là một trong số các
kinh quan trọng nhất của Kim Cương Thừa) như là một thí dụ điển hình để chứng minh quan điểm trên đây. Tôi nhìn
nhận văn phong của kinh này không phản ảnh đúng với văn phong trong những lời
thuyết giảng của Đức Phật. Tuy nhiên cũng có thể cho rằng sở dĩ có sự khác biệt
về văn phong là vì có nhiều người biên tập khác nhau. Phật Giáo Tây Tạng thường
sử dụng nhiều văn bản khám phá (gọi là terma, đã được nói đến trên đây) và cho rằng các văn bản này là do chính
Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) trước tác, thế nhưng vì lý do đào tạo và cũng có
thể là vì ảnh hưởng từ tánh khí của các vị thầy giảng dạy, nên các văn bản này
cũng đã trở nên đa dạng (Liên Hoa Sinh là một vị đại sư người Ấn mang Phật Giáo vào
Tây Tạng từ thế kỷ thứ VIII, sau đó tức là vào những thời kỳ sau này, vì nhu
cầu đào tạo khóa sinh nên thể văn - tức là cách diễn đạt và các thuật ngữ - của
các văn bản gốc đã được sửa đổi cho mới mẻ hơn nhằm để thích nghi với việc
giảng dạy. Hơn nữa cá tính và xu hướng của các vị thầy đứng ra giảng dạy đôi
khi cũng có thể đã ảnh hưởng ít nhiều đến văn phong của các văn bản này?).
Vì các lý do đó nên kinh sách Đại Thừa dù được xem là do chính Đức Phật giảng
dạy thế nhưng lại cho thấy nhiều cách hành văn khác nhau, đấy chẳng qua là vì
có nhiều người ghi chép khác nhau, và họ đã phát hiện được những cảm ứng thần
bí riêng cho mình trong khi biên tập.
Một sự tìm hiểu mang tính cách cá nhân
Cách bênh vực của tôi
về tính cách chính thống của kinh sách Đại Thừa có thể sẽ được quý vị cho là
khá mạo hiểm. Vì thế phương pháp đáng tin cậy nhất giúp chứng minh sự đích thật
của các văn bản Đai Thừa có thể sẽ là phương pháp khoa học: vậy quý vị hãy tự
mình xét đoán xem sao. Theo tôi thì việc chứng minh các lời giảng huấn của Đức
Phật được ghi chép trong kinh sách có trung thực hay không chẳng phải là một
điều quan trọng lắm; những gì hệ trọng hơn là phải thẩm định xem các kinh sách
ấy có mang lại hiệu quả hay không. Giả thử chúng ta có thể chứng minh những lời
thuyết giảng ấy đúng là của Đức Phật, thế nhưng những lời giảng ấy chẳng mang
lại một lợi ích nào, có nghĩa là không tạo được một ảnh hưởng tích cực nào đối
với mình, thì quả thật những lời giáo huấn ấy chẳng có giá trị gì cả. Trái lại,
một lời giảng dù không thể chứng minh được là có phải do chính Đức Phật nói ra
hay không, thế nhưng lại cho thấy thật hết sức hữu ích và hiệu quả, thì lời
giảng ấy vẫn mang một giá trị lớn lao.
Hãy tạm gác sang một bên
các chuyện xảy ra ở Ấn độ và chỉ cần đề cập đến cuộc đời của một số các vị thầy
Tây Tạng tiền bối thiết nghĩ cũng đủ. Thật vậy dù có thổi phồng ít nhiều tiểu
sử của các vị lạt-ma đi nữa (tiếng Tây Tạng là "bla ma",
là một tước hiệu mang tính cánh tôn kính dùng để gọi các nhà sư cao thâm, hoặc
để chỉ các vị sư tái sinh) thì
chúng ta cũng không thể nào xem thường các trước tác của họ bằng cách cho rằng
đấy chỉ là những thứ sáng chế đơn thuần. Thật hết sức hiển nhiên, trong quá khứ
đã từng có không biết bao nhiêu vị tu hành đã đạt được những cấp bậc thật thâm
sâu. Do đó thật hết sức quan trọng là đừng để mình hoàn toàn bị đánh lạc hướng
bởi những sự biện luận thuần lý như trên đây mà tốt hơn nên chú tâm vào sự tu
tập của mình. Đấy mới chính là cách chắc chắn nhất giúp củng cố lòng tin của
mình về sự đích thật trong những lời giảng dạy của Đức Phật (càng
tu tập chúng ta sẽ càng nhận thấy tính cách siêu việt và thâm sâu trong những
lời thuyết giảng của Đức Phật, bởi vì chúng ta sẽ ngày càng nhận thấy những lời
giảng ấy đã thực sự mở rộng tâm trí và cả con tim của chính mình và biến cải
được cả cuộc đời mình). Tôi nghĩ
rằng điều đó quan trọng hơn nhiều so với thái độ chỉ biết mải mê với những thứ
biện luận đơn thuần. Nói như thế có nghĩa là dầu sao thì các "luận
cứ" giúp chúng ta vững tin vào tính cách đích thật của kinh sách Đại Thừa
cũng thật hết sức quan trọng. Bởi vì một khi đã nghi ngờ tính cách đích thật
của các kinh sách ấy, tất nhiên chúng ta sẽ cứ muốn được giải tỏa những thắc
mắc của mình. Chính vì lý do đó nên các cách lập luận nêu lên trong các tiết
trên đây (trong tác phẩm của Tịch Thiên) quả
thật là vô cùng quý báu.
THIỀN ĐỊNH
Đến đây chúng ta hãy
thiền định về tâm thức xem sao. Tâm thức giữ vai trò sáng tạo, vì thế cõi luân
hồi hay cảnh giới niết-bàn cũng chỉ là hai thể dạng của tâm thức: trường hợp
thứ nhất (luân
hồi) phát sinh từ một tâm thức bất trị, trường hợp thứ hai (niết bàn)
phát sinh từ một tâm thức canh giác. Vì thế tâm thức luôn giữ một vai trò vô
cùng hệ trọng. Trong buổi thiền định này chúng ta sẽ tìm hiểu xem tâm thức thật
sự là gì, nói cách khác là sẽ tìm cách để nhận diện nó.
Trên phương diện tổng quát mỗi khi chúng ta cảm
nhận được các vật thể thuộc bối cảnh bên ngoài thì thông thường sự thu hút của
chúng ta đối với chúng sẽ biến chúng trở nên quen thuộc với mình hơn. Sự quen
thuộc ấy sẽ khiến cho tâm thức bám chặt vào dáng dấp của các vật thể ấy. Thí dụ
khi trông thấy một cái bình thì chúng ta sẽ phát hiện được những kinh nghiệm
cảm nhận về cái bình ấy nhờ vào các tín hiệu giác cảm của cơ quan thị giác; sự
cảm nhận ấy phát sinh tùy thuộc vào dáng dấp của cái bình. Chúng ta có cảm giác
là sự cảm nhận của mình mang tính cách xác thực. Trong phạm vi của sự cảm nhận
ấy tức có nghĩa là khi tâm thức hội nhập (hay tương tác và hòa
nhập) với vật thể ấy (có
nghĩa là tâm thức xem vật thể ấy "ngang hàng" với nó và do đó nó sẽ
hiện ra như là một đối tượng của tâm thức, và tâm thức sẽ trở thành chủ thể) thì đấy cũng chính là lúc mà tâm thức bị lừa
phỉnh, và nó sẽ tiếp tục giữ nguyên bản chất u mê (sai
lầm) của nó. Sự sai lầm ấy của tâm
thức sở dĩ xảy ra là một phần cũng vì chúng ta đã áp đặt một tầm quan trọng quá
đáng vào thế giới bên ngoài - tức là cách mà chúng ta "cụ thể hóa" (reify) thế giới chung quanh (có
nghĩa là hình dung thế giới đó thật "cụ thể" và xem nó như một đối
tượng) - và một phần là vì tư duy của
mình thường xuyên quay ngược trở về những kỷ niệm quá khứ và lo sợ hay hy vọng
những gì sẽ xảy đến trong tương lai. Tóm lại là gần như thường xuyên chúng ta
bị chi phối bởi các thứ tư duy nuối tiếc (quá khứ) và ham muốn (tương lai). Các tư duy đó chứng tỏ cho thấy tâm thức của
chúng ta đang lâm vào tình trạng u mê.
Vậy những gì cần phải
làm là phải ngăn chận không cho tâm thức mình quay ngược về quá khứ hoặc phóng
nhìn vào tương lai. Thật ra cũng chỉ cần tập trung vào giây phút hiện tại và
ngăn chận không cho tâm thức đuổi bắt những vật thể hay các sự kiện bên ngoài.
Không nên "cụ thể hoá" (hay vật thể hóa / reify) mọi sự vật, hãy thường trú
trong một thể dạng tâm thức tự nhiên, tức là hội nhập với hiện tại. Đấy là
phương cách hiệu quả nhất giúp chúng ta thực hiện được những kinh nghiệm cảm
nhận về thể dạng trong sáng của tâm thức.
Có thể so sánh quá trình
trên đây với nước chẳng hạn. Nước trong tình trạng khuấy động sẽ tạo ra sóng và
bọt, và như thế chúng ta sẽ không sao nhận thấy được sự trong suốt của nó. Khi
tình trạng khuấy động giảm xuống thì chúng ta sẽ có thể quan sát được những gì
bên dưới mặt nước. Cũng tương tự như thế, chúng ta phải để cho tâm thức nghỉ
ngơi tức là tìm cách loại bỏ bọt và các ngọn sóng tư duy đang xoáy lộn trong
tâm thức mình. Chúng ta hãy cố gắng thường trú trong thể dạng phi-khái-niệm
đó.
Dầu sao tôi cũng phải
thú nhận rằng những gì trình bày trên đây chưa phải là một phép thiền định mang
tính cách sâu xa lắm. Nhiều truyền thống tín ngưỡng ngoài Phật Giáo cũng biết
đến phép thiền định này.
Tóm lại chúng ta hãy tập
thiền định hướng vào sự mở rộng đó, tức là thể dạng trong suốt được mô tả trên
đây. Hãy hòa mình với bầu không gian thực tại, hoàn toàn trống không, nói cách
khác là chỉ nghĩ đến giây phút hiện tại và hòa nhập với thể dạng
phi-khái-niệm.
7
Tánh Không theo học phái
Trung Quán
BÌNH GIẢI
Tâm thức của các vị A-la-hán
Theo Khentchen Kungzang Palden thì
trong phần này Tịch Thiên đưa ra các luận cứ nhằm nêu lên tính cách thượng
thặng của con đường Trung Quán.
Tiết 44. Đạo Pháp bắt nguồn từ cuộc sống
xuất gia chân chính nơi tu viện, tuy nhiên muốn trở thành một nhà sư chân chính
thì không phải là chuyện dễ: khi tâm thức còn bám víu vào mọi khái niệm thì quả
thật hết sức khó để đạt được niết bàn.
Tiết 45.
(quan điểm Đại Tỳ Bà Sa Luận) Sự giải thoát sẽ hiện ra tức khắc sau khi buông
xả mọi dục vọng.
(quan điểm Trung Quán) Thế nhưng
người ta vẫn nhận thấy hậu quả của nghiệp luôn tiếp tục tác động ngay cả đối
với những người không còn dục vọng nữa.
Theo Tịch Thiên thì nếu cho
rằng mục đích giáo huấn của Đức Phật là việc xây dựng tăng đoàn, không cần đến
giáo lý Tánh Không, thì nhất định những vị trong các tăng đoàn ấy sẽ không sao
đạt được thể dạng a-la-hán.
Về điểm này, những người Tiểu Thừa (xin nhắc lại là
Đại Tỳ Bà Sa Luận là một học phái xưa thuộc Tiểu Thừa nhưng thuộc truyền thống
Phạn Ngữ, Phật Giáo Theravada còn tồn tại đến ngày nay cũng thuộc Tiểu Thừa
nhưng thuộc truyền thống Pa-li. Cũng xin lưu ý là chữ Tiểu Thừa sử dụng trong
quyển sách này là nhằm để nói lên sự khác biệt giữa Tiểu Thừa và Đại thừa trong
bối cảnh của thế kỷ thứ VIII khi tập Hành Trình đến Giác Ngộ được trước tác)
có thể phản biện lại bằng cách cho rằng việc xây dựng một tăng đoàn gồm các vị
a-la-hán là một việc có thể thực hiện được không cần phải học hỏi giáo lý Tánh
Không, bởi vì khi đã thấu triệt được Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) thì cũng đủ để giúp
mình đạt được sự giải thoát toàn vẹn khỏi chu kỳ hiện hữu. Những người Trung
Quán phản kháng lại và cho rằng nếu muốn thoát khỏi chu kỳ hiện hữu thì việc
thực hiện Tánh Không là một sự bắt buộc, bởi vì nguyên nhân quan trọng nhất
buộc chặt chúng ta vào cõi luân hồi là vô minh khiến chúng ta tin vào tính cách
hiện thực của các hiện tượng. Nếu không nhổ bỏ tận rễ được nguyên nhân vô minh
đó thì sẽ không thể nào có thể đạt được sự giải thoát. Nếu chỉ thiền định về
Tánh Không nhưng không thực hiện được Tánh Không một cách thích đáng thì cũng
chỉ đơn giản là một cách thường trú trong thể dạng phi-khái-niệm thế thôi (thiền định về Tánh
Không giúp chúng ta thường trú trong một thể dạng "trống không"
phi-khái-niệm, trong khi đó "thực hiện" Tánh Không là cách "hòa
nhập" với Tánh Không để trở thành chính Tánh Không, nói cách khác là trở
thành "Một" với Tánh Không). Nếu chỉ biết ngăn chận không
cho tư duy hiển hiện thì không thể nào đưa đến sự giải thoát khỏi chu kỳ hiện
hữu được.
Tiết 46 dưới đây sẽ cho thấy sự khác
biệt giữa hai cách bình giải:
Tiết 46. (quan điểm Đại Tỳ Bà Sa Luận)
Nhất định họ (những
người gia nhập tăng đoàn Tiểu Thừa) có thể hóa giải được các xung năng
tạo ra nguyên nhân đưa đến sự tái sinh.
(quan điểm Trung
Quán) Họ không còn vướng vào bất cứ một xung năng nào liên quan đến dục vọng,
thế nhưng tại sao họ lại không thể vướng vào các xung năng liên quan đến sự lầm
lẫn ? (tức là vô
minh hay sự hoang mang tâm thần khiến không nhận ra được bản chất của hiện
thực).
Các người Tiểu Thừa phản kháng lại rằng mặc dù các vị
a-la-hán đã được giải thoát khỏi luân hồi thế nhưng cũng có thể là họ chưa loại
bỏ được hết những vướng mắc liên quan đến những biểu đồ quen thuộc phát sinh từ
sự lầm lẫn (cho
rằng mọi hiện tượng hàm chứa một sự hiện hữu nội tại), thế nhưng nhờ
đã đạt được sự giải thoát tức là loại trừ được cội rễ của chu kỳ hiện hữu, nên
họ cũng sẽ được thoát khỏi mọi sự tái sinh.
Tịch Thiên xác nhận rằng chỉ có cách bước vào con đường thực
hiện vô ngã về con người (khái niệm không có "cái tôi" của cá thể con người
theo quan điểm Tiểu Thừa) và cả vô ngã về mọi hiện tượng (khái niệm Tánh
Không của tất cả mọi hiện tượng theo quan điểm Đại Thừa), thì mới có
thể đạt được thể dạng hiểu biết toàn năng một cách hoàn hảo, tức là sự Giác Ngộ
của một vị Phật. Con đường đó nhất thiết chỉ được nêu lên trong các kinh sách
Đại Thừa, và các kinh sách này cũng được xem như trội hơn các kinh sách giáo
huấn của Tiểu Thừa. Về phần các vị a-la-hán thì dù cho họ có đạt được sự giải
thoát khỏi luân hồi đi nữa, thế nhưng người ta vẫn nhận thấy nơi họ các tác
động phát sinh từ những vết hằn của nghiệp. Thí dụ như trường hợp của Xá Lợi
Phất (Shariputra) và Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) (là hai vị đệ tử trực tiếp của Đức Phật)
dù cho cả hai đã đạt được sự giải thoát khỏi luân hồi thế nhưng cả hai vẫn chưa
tự giải thoát cho mình khỏi những biểu đồ quen thuộc tạo dựng bởi những thể
dạng tâm thức u mê có sẵn từ trước (họ chưa thành Phật và còn là đệ tử của Đức Phật).
Tiết 47.
Các xung năng phát sinh từ giác cảm, và giác cảm thì vẫn còn hiện ra với những
người a-la-hán. Vì thế nên họ vẫn còn tạo dựng khái niệm và sẽ còn bị vướng mắc
vào các khái niệm ấy.
Những
người được cho là a-la-hán ấy và được nhóm Tiểu Thừa xem như đã hoàn toàn được
giải thoát khỏi luân hồi, có thể đã tránh khỏi mọi sự "thèm khát",
thế nhưng vì họ còn vướng vào vô minh căn bản nên đã khiến họ tiếp tục nuôi
dưỡng "cái ngã", thì tất nhiên họ sẽ còn phát lộ một hình thức bám
víu nào đó (tức là chưa loại bỏ được hết dục vọng hay sự
"thèm khát"). Nhằm phủ
nhận cách lập luận này, nhóm Tiểu Thừa khẳng định rằng người a-la-hán không còn
phát lộ bất cứ một dục vọng nào nữa, bởi vì tâm thức họ đã được giải thoát khỏi
những yếu tố bấn loạn. Những người Trung Quán giữ vững lập trường của mình bằng
cách cho rằng những người được xem là a-la-hán ấy, vì lý do vẫn còn phát lộ sự
cảm nhận (sensation / feeling) và các cảm tính (sentiments / emotions) nên họ sẽ vẫn còn bám víu vào những thứ ấy và xem
chúng là thật, đấy chính là nguyên nhân tạo ra tình trạng vướng mắc: tóm lại là
ngay cả đối với quan điểm Tiểu Thừa các vị được xem là a-la-hán cũng chưa phải
là đã hoàn toàn thoát khỏi cảnh giới luân hồi, lý do là họ vẫn còn mang một
tiềm năng (tức là sự vướng mắc trên đây) khiến họ phải tái sinh.
Trong tiết dưới đây Tịch Thiên cho biết rằng khi nào tâm thức
của một cá thể vẫn còn bám vào khái niệm hiện hữu của các vật thể và sự kiện
thì nó sẽ không thể nào loại bỏ được sự bám víu và cả sự thèm khát.
Tiết 48.
Một tâm thức đình chỉ thì cũng tương tự như một thể dạng lắng sâu vào vô thức,
nếu không thực hiện được Tánh Không thì nó sẽ tái hiện. Vì thế chúng ta phải
thực hiện Tánh Không.
Cho
đến khi nào dục vọng còn tồn tại thì các điều kiện đưa đến sự tái sinh cũng sẽ
còn nguyên trên dòng tiếp nối tâm thức của mỗi cá thể. Vì thế đối với một dòng
tâm thức khi chưa thực hiện được Tánh Không thì các yếu tố trói buộc một cá thể
vào chu kỳ hiện hữu sẽ còn trở lại.
Chúng ta có thể nêu lên thí dụ về trường hợp một người đã lắng sâu vào
thể dạng phi-khái-niệm và không còn một tư duy nào hiển hiện nữa: thế nhưng khi
người này ra khỏi thể dạng đó thì quá trình vận hành của tư duy mang tính cách
khái niệm lại tiếp tục khởi động trở lại. Vì thế, nếu muốn được giải thoát hoàn
toàn khỏi những xu hướng bám víu vào khái niệm về sự hiện hữu thật của mọi vật
thể thì bắt buộc phải thực hiện Tánh Không.
Phải thực hiện Tánh Không mới có thể giúp mình
giải thoát khỏi luân hồi
Theo cách bình giải của Minyak Kunzang Seunam thì các
tiết trên đây cho thấy rằng dù chỉ muốn đạt được sự giải thoát khỏi luân hồi (xin nhắc lại là sự
giải thoát khỏi luân hồi không có nghĩa là thành Phật) cũng phải
thực hiện Tánh Không (loại bỏ vô minh và thành Phật là điều chủ yếu, thoát khỏi
luân hồi chỉ là một hậu quả hiển nhiên và thứ yếu của sự Giác Ngộ tức là khi đã
thành Phật). Nhóm Tiểu Thừa phản biện lại bằng cách đưa ra câu hỏi
sau đây: " Nếu tu tập đúng với giáo lý về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế)
thì cũng có thể đạt được sự giải thoát khỏi luân hồi, vậy thực hiện Tánh Không
để làm gì?" (Bốn
Sự Thật Cao Quý là cấu trúc của toàn bộ giáo lý của Đức Phật và đã được Đức
Phật nêu lên trước nhất. Sau đó Ngài mới thuyết giảng sâu xa hơn và chi tiết
hơn về giáo lý đó và đưa ra các phương tiện thích nghi để thực hiện Con Đường
do giáo lý đó nêu lên. Trong số này, Tánh Không là một phương tiện tuyệt vời,
siêu việt, trực tiếp và thích nghi nhất giúp chúng ta bước theo Đức Phật trên
Con Đường đó. Thoát khỏi luân hồi chỉ là một yếu tố hay kết quả phụ thuộc khi
chúng ta đã đi hết Con Đường ấy. Sự thực hiện Tánh Không không những giúp chúng
ta quán thấy được bản chất đích thật của con người và vũ trụ nhằm mang lại cho
chúng ta sự Giác Ngộ hoàn hảo mà còn tạo ra một hậu quả phụ thuộc khác nữa đó
là cách giúp chúng ta hiểu được và mở rộng cả con tim của chính mình).
Các tiết 44 đến 48 trong tác phẩm của Tịch Thiên cho biết nếu như nền tảng giáo
lý của Đức Phật chỉ là tăng đoàn gồm các vị a-la-hán, và trong phạm vị không
cần đến sự thực hiện Tánh Không, thì chẳng những không sao đạt được sự Giác Ngộ
hoàn hảo tức là thể dạng Phật Tính, mà cũng không thể giải thoát cho mình khỏi
luân hồi. Khi nào tâm thức vẫn còn vướng mắc vào xu hướng "cụ thể
hoá" các đối tượng thì sẽ không thể nào có thể đạt được sự giải thoát.
Nếu có ai cho
rằng chúng tôi (những
người Tiểu Thừa) có thể đạt được sự giải thoát bằng cách chỉ cần tu
tập theo con đường thiền định về mười sáu phẩm tính phụ trợ của Bốn Sự Thật Cao
Quý, chẳng hạn như vô thường, và nhờ đó sẽ có thể phủ nhận "cái ngã"
như là một hiện thực mang tính cách nội tại và tự chủ, thì những người phái
Trung Quán tất sẽ phản kháng lại ngay bằng cách cho rằng việc thực hiện được tính
cách "vô ngã" ở một cấp bậc thô thiển sẽ không thể nào mang lại sự
giải thoát toàn vẹn được. Theo quan điểm của những người Tiểu Thừa thì một vị
A-la-hán là một sinh linh đã hoàn toàn đạt được giải thoát, thế nhưng thật ra
thì sinh linh ấy chưa phải là một vị a-la-hán bởi vì từ bên trong dòng tiếp nối
liên tục của tâm thức của vị ấy vẫn còn tàng ẩn sự bám víu vào sự hiện hữu đích
thật và nội tại của mọi hiện tượng. Cá thể ấy vẫn còn biểu lộ xúc cảm và tư
duy, chẳng hạn như sự thèm khát (dục vọng), và đấy cũng chính là hậu quả phát
sinh từ nghiệp và các sơ đồ quen thuộc..., và cứ tiếp tục như thế (các "sơ
đồ" quen thuộc là các "phản ứng đã trở thành thói quen": mỗi khi
chúng ta nhìn vào các hiện tượng và tự động cho chúng là thật một cách nội tại.
Các phản ứng đó sẽ làm phát sinh ra xúc cảm và tư duy, tức là một hình thức
vướng mắc và bám víu).
Những người Tiểu Thừa vẫn có thể cho
rằng cá thể ấy nhờ vào sức mạnh mang lại từ sự quán nhận "vô ngã" có
thể loại bỏ được mọi sự thèm khát giác
cảm. Tuy nhiên những người Trung Quán cũng cho biết rằng khái niệm về sự thèm
khát của những người Tiểu Thừa không được trọn vẹn, bởi vì chỉ liên quan đến
các cấp bậc thô thiển, tức là các thứ thèm khát phát lộ rõ rệt và có thể ý thức
được. Trong tâm thức của người a-la-hán, luôn luôn vẫn còn các thể dạng thèm
khát thật tinh tế mà những người Tiểu Thừa không cho rằng đấy là những thứ ô
nhiễm. Dầu sao thì những người Tiểu Thừa cũng vẫn chấp nhận có hai thể loại vô
minh khác nhau: một thể loại là căn nguyên mang lại sự tái sinh, và một thể
loại thật tinh tế. Vì thế chúng ta có thể cho rằng có hai loại thèm khát khác
nhau: một loại phát lộ rõ rệt có thể ý thức được, và một loại tinh tế hơn. Do
đó trong tâm thức của vị gọi là A-la-hán ấy vẫn còn sự bám víu tinh tế vào khái
niệm về sự hiện hữu thật. Cho đến khi nào xu hướng "vật thể hoá" các
đối tượng và tin vào sự hiện hữu thật của mọi sự vật vẫn còn thể hiện sâu kín
trong tâm thức thì chúng ta vẫn chưa có thể tự cho rằng mình đã được giải thoát
khỏi sự thèm khát và bám víu.
Nếu chỉ quán nhận được vô-ngã ở những cấp bậc thô
thiển thì quả thật là chưa đủ; do đó nhất thiết phải thực hiện được Tánh Không
về sự hiện hữu nội tại của con người và của mọi hiện tượng. Khi nào sự hiểu
biết sâu xa về bản thể của Tánh Không vẫn còn thiếu sót, và dù cho tư duy và
các thứ xúc cảm bấn loạn có tạm thời suy giảm ở các cấp bậc thô thiển đi nữa,
thì chúng vẫn có thể sẵn sàng trổi dậy trong phạm vi mà chúng vẫn còn giữ được
một tiềm năng nào đó trong tâm thức của chúng ta. Vì thế, việc thực hiện Tánh
Không thật hết sức cần thiết không những để đạt được sự Giác Ngộ mà cả sự Giải
Thoát khỏi các chu kỳ hiện hữu nữa.
Sự hiểu
biết Tánh Không theo quan điểm của Cụ Duyên Tông (Prasangika) và Y Tự Khởi Tông
(Svatantrika)
Trong khi luyện tập về sự quán nhận Tánh Không thì quả thật
hết sức quan trọng là phải hiểu rằng các học phái triết học Phật Giáo quan niệm
không giống nhau về khái niệm này. Các người Trung Quán - Y Tự Khởi Tông cho
rằng rằng tất cả mọi hiện tượng đều không hàm chứa một sự hiện hữu đích thật,
thế nhưng thật ra họ muốn nói lên điều gì? Tuy rằng họ phủ nhận sự hiện hữu nội tại thế nhưng họ
lại khẳng định rằng tất cả mọi hiện tượng đều hàm chứa một bản-thể-tự-nhiên nào
đó (tiếng Phạn
là svabhava / nature-en-soi / own-being, own-becoming / kinh sách gốc Hán ngữ
gọi là "tự-tính" hay "tự- thể", tức có nghĩa là "bản
chất tự nhiên" của một hiện tượng. Khái niệm này thường thấy nêu lên trong
các tín ngưỡng ngoài Phật Giáo, nhất là Ấn Giáo, tuy nhiên vì tính cách
"khá" siêu hình, nếu không muốn nói là mang ít nhiều tính cách
"thần bí", chẳng hạn như trường hợp của Ấn Giáo, nên khái niệm này
cũng có thể "khá" gần với một sự tưởng tượng chăng?), và
do đó đương nhiên họ chấp nhận một sự hiện hữu khách quan ở một mức độ nào đó.
Họ hình dung bản-thể hay là phương-cách-hiện-hữu-tự-nhiên (tự tính) đó trong khuôn khổ của
một sự nhận thức không bị lừa phỉnh. Vì thế phải chăng họ cũng chấp nhận rằng
không có một phương-cách-hiện-hữu nào có thể độc lập và tự chủ đối với tâm thức
nhận biết được nó ("bản-thể-tự-nhiên" hay "tự tính" thuộc lãnh vực của
sự nhận thức không bị lừa phỉnh; trái lại các "phương-cách-hiện-hữu"
bình thường khác của mọi sự vật - có nghĩa là hình tướng - thì luôn luôn liên
hệ với tâm thức nhận biết được chúng, do đó sự hiện hữu của chúng mang tính
cách lệ thuộc). Trái lại, học phái Trung Quán - Cụ Duyên Tông phủ
nhận khái niệm về bản-thể-tự-nhiên (tự tính), và cho rằng tất cả mọi hiện tượng
không hàm chứa một bản thể nội tại hay một phương-cách-hiện-hữu-khách-quan nào
cả.
Theo quan điểm của những người Cụ Duyên Tông thì tất cả những
sự cảm nhận bình thường của chúng ta, bằng cách này hay cách khác, đều mang
tính cách lừa phỉnh. Thí dụ sự cảm nhận thị giác của chúng ta về một cái bình
chẳng hạn sẽ mang tính cách vững chắc đối với chính cái bình ấy trong phạm vi
mà vật thể ấy (tức
là cái bình) hiện hữu thật sự (tức có thật trước mắt, không phải là một ảo giác hay một sự
tưởng tượng), thế nhưng sự cảm nhận ấy vẫn không có nghĩa là không
bị lừa phỉnh, bởi vì nó nhận biết cái bình như hàm chứa một sự hiện hữu độc lập
- tương tự như cái bình là một thứ hiện thực mang tính cách nội tại nào đó.
Trái lại, theo những người thuộc Y Tự Khởi Tông sự cảm nhận thị giác đó về cái
bình không những vững chắc đối với cái bình mà còn vững chắc đối với cả bản
chất hiện thực nội tại của vật thể ấy nữa, tức là một vật thể mà nó nhận biết
như là hiện hữu một cách khách quan và hàm chứa một bản thể tự tại. Hơn nữa,
nếu muốn cho sự cảm nhận mang tính cách vững chắc thì nó phải phản ảnh trung
thực bản thể nội tại của vật thể được cảm nhận. Đối với những người Cụ Duyên
Tông, cái bình không có một sự hiện hữu nội tại và khách quan nào cả, ngay cả
trong lãnh vực ngôn từ quy ước, bởi vì họ không chấp nhận sự hiện hữu của
bản-thể-tự-nhiên (có
nghĩa là học phái này không chấp nhận sự hiện hữu của "tự tính" hay
"tự thể" nơi các hiện tượng). Vì thế, sự cảm nhận bằng thị
giác nhận biết được đối tượng của nó như là có thật một cách khách quan và hàm
chứa một bản thể tự tại, bắt buộc phải là một sự cảm nhận sai lầm.
Trong phạm vi mà những người Y Tự Khởi Tông tin
vào một hình thức bản-thể-tư- nhiên (tự tính hay tự thể) nào đó, thì tất nhiên khi dựa vào sự tin tưởng đó
thì họ sẽ không chấp nhận ý kiến cho rằng sự thu hút (attirance / attraction) đối với các vật thể ấy là sai lầm. Trái lại,
những nguời Cụ Duyên Tông thì lại khẳng định rằng sự thu hút đó hoàn toàn sai
lầm và đấy là một hình thức xúc cảm tiêu biểu cho sự khổ đau. Do đó, vì hai học
phái quan niệm khác nhau về cách xác định (identification / nhận
diện, nhận dạng) các đối tượng
cần phải phủ nhận cũng như cách định nghĩa về thể dạng vô minh tinh tế, nên cả
hai đều hiểu khác nhau về bản chất của các thể dạng tâm thức phát sinh từ vô
minh.
Các cấp bậc khác nhau về Tánh Không của cá thể
con người
Chúng ta hãy dành ra vài phút để suy tư và phân tích một
cá thể con người xem sao. Tánh Không của một cá thể có thể được hình dung theo
nhiều cấp bậc khác nhau. Thí dụ chúng ta có thể xem một cá thể không hàm chứa
một thực tại trường tồn, duy nhất và độc lập, cũng không hề mang một thực thể
tự chủ (có nghĩa là nó không thể tự nó hiện hữu không
cần nhờ vào sự kết hợp của các nguyên nhân hay điều kiện khác) hay
một sự hiện hữu đích thật nào, và cũng không hàm chứa bất cứ một sự hiện hữu
nội tại nào cả. Do đó, Tánh Không của một hiện tượng duy nhất - trong trường
hợp trên đây là cá thể con người - có thể nhận biết được theo nhiều cấp bậc
khác nhau, qua nhiều mức độ tinh tế khác nhau
Khái niệm về một cái tôi độc tôn (duy nhất), trường tồn và độc lập
còn gọi là atman hay "cái
tôi" (atman
là tiếng Phạn, kinh sách Hán ngữ gọi là "cái ngã", có thể hiểu như là
"linh hồn") đuợc chủ trương bởi các học phái ngoài Phật
Giáo thuộc các truyền thống tín ngưỡng lâu đời của Ấn độ. Cái tôi ấy được xem
như độc lập với những thứ cấu hợp vật chất và tâm thần và do đó được hình dung
như một kiểm soát viên hay một người quản lý hàm chứa một thực tại (reality) mang tính cách thực thể (substantial), đứng ra điều khiển một cá thể.
Sự phủ nhận khái niệm đó thuộc vào một trong các cấp bậc của Tánh Không. Ở một
cấp bậc khác (của
Tánh Không), người ta hình dung sự "vắng mặt" hay
"Tánh Không của một cá thể" như là căn bản hay là quy chiếu (reference / cơ sở
chỉ định) đích thật nhằm nói lên ý nghĩa của thuật ngữ "con
người". Dù rằng cá thể là quy chiếu (reference / cơ sở dùng để tham chiếu hay chỉ định)
của thuật ngữ "con người", thế nhưng nó không phải thuộc vào quy
chiếu đó một cách nội tại - có nghĩa là nó không thể độc lập với ngôn từ và tư
duy. Sự tương quan giữa cá thể và thuật
ngữ "con người" chỉ là một quy ước mà thôi. Tiếp theo trong phần dưới
đây chúng ta sẽ xét đến Tánh Không của một con người đang thật sự hiện hữu,
đúng theo cách định nghĩa của nhóm Y Tự Khởi Tông, và sau cùng sẽ nói đến Tánh
Không thuộc cấp bậc tinh tế nhất về sự hiện hữu nội tại của một cá thể, Tánh
Không này sẽ phủ nhận toàn bộ tất cả các cấp bậc khác về thể tính (identity)
nội tại của một cá thể.
Tóm lại chúng ta có thể phân chia một thể tính (identity / cá tính,
đặc tính nhân
dạng) duy nhất, tức là con người, thành năm cấp bậc nhận thức khác
nhau về "không-có-cái-tôi" (vô ngã) hay là Tánh Không. Ngược lại chúng ta
cũng có thể xác định được năm cấp bậc "vật thể hóa" (reify / cụ thể
hóa) mang tính cách sai lầm. Năm cấp bậc này được phân bố từ thật
thô thiển đến thật tinh tế. Cũng tương tự như thế, chúng ta có thể xác định
được các mức độ xúc cảm bấn loạn khác nhau - như giận dữ, hận thù, bám víu,
ganh ghét... - tương quan với các cấp bậc vật thể hoá con người.
Những gì có thể xác định
được trong các tiết trên đây chính là sự hiểu biết liên quan đến những xúc cảm
và tư duy bấn loạn đúng theo cách hiểu của Tiểu Thừa còn tương đối thô thiển và
khiếm khuyết: một cá thể nếu chỉ vượt thoát được cấp bậc xúc cảm và tư duy bấn
loạn ở cấp bậc đó thì chưa có thể gọi là một bậc a-la-hán, có nghĩa là chưa
được xem là một sinh linh đã được giải thoát khỏi chu kỳ hiện hữu. Tịch Thiên
cho biết rằng một cá thể - dù đã loại bỏ được những cảm nhận sai lầm đúng như
cách hiểu của Tiểu Thừa - vẫn chưa phải là đã xóa bỏ được vô minh và sự tin
tưởng vào sự hiện hữu nội tại của các hiện tượng, bởi vì cá thể ấy vẫn còn lưu
giữ trên dòng tiếp nối của tâm thức mình các thể dạng bấn loạn, chúng sẽ bùng
lên dưới các hình thức xúc cảm và tư duy. Do đó cá thể ấy sẽ không thể nào đạt
được sự giải thoát khỏi thế giới luân hồi.
Ba tiết tiếp theo
Ba tiết sau đây sẽ tiếp tục nêu lên sự so sánh giữa các kinh
điển Tiểu và Đại Thừa. Một bình luận gia người Ấn là Prajnakaramati (một học giả Ấn Độ
thời cận đại, tác giả của một quyển sách bình luận về tập Hành Trình đến Giác
Ngộ, sách mang tựa là Bodhicaryāvatāra of Śāntideva with the Commentary Panjika
of Prajnakaramati, PL. Vaidya ed.,1960) cho rằng Tịch Thiên không
phải là người chủ xướng nêu lên sự so sánh này - các tiết nói đến trên đây (trong tác phẩm của
Tịch Thiên) thật ra chỉ là một đóng góp nhỏ vào những gì đã được đưa
ra tranh luận từ trước (có nghĩa là trước Tịch Thiên vấn đề thẩm định về tính cách
chính thống của kinh sách Tiểu và Đại Thừa cũng đã được tranh luận sâu rộng).
Tiết 49. Nếu quý vị chấp nhận những lời phát
biểu phù hợp với kinh sách sou-tra (tức là kinh sách Tiểu Thừa) là những lời thuyết giảng đích thật của Đức Phật, thì tại
sao quý vị lại không chấp nhận phần lớn những lời giáo huấn Đại Thừa khi mà
những lời này cũng đều phù hợp với những gì trong các kinh sách sou-tra ấy?
Tiết 50. Nếu quý vị phủ nhận toàn bộ Đại
Thừa chỉ vì một phần không có trong các kinh sách sou-tra của quý vị, thì tại
sao quý vị lại không thể chấp nhận toàn bộ Đại Thừa như những lời giảng huấn
của Đức Phật, bởi vì một phần lớn những lời giáo huấn này cũng giống hệt với
kinh sách sou-tra của quý vị?
Tiết 51.
Đối với những lời giảng mà chính Ma-ha Ca-diếp (Mahakashyapa / một đệ tử
trực tiếp và uyên bác của Đức Phật) cũng
không hoàn toàn lĩnh hội được, thì có ai dám bảo đấy là những lời giảng không
thể nào chấp nhận được, nhất là đối với quý vị bởi vì quý vị cũng không hiểu
được?
Tánh Không là một chiếc chìa khóa
Dường như còn có một chút khác biệt
nữa giữa hai cách bình giải mà tôi sẽ dựa vào đấy để giải thích các tiết sau
đây. Theo tôi dù rằng có sự khác biệt thế nhưng cả hai cách bình giải đều đưa
ra một kết luận như nhau: người Bồ-tát phải vượt lên trên cả hai thái cực là
chu kỳ hiện hữu và sự an trú đơn lẻ trong cõi Niết bàn (tức là đạt đựợc niết bàn cho riêng mình và
không nghĩ đến người khác, có nghĩa là thường trú trong cõi niết bàn một cách
đơn độc và lẻ loi).
Tiết 52. Khi đã thoát khỏi sự bám víu và sợ
hãi thì người Bồ-tát sẽ tiếp tục lưu lại trong thế giới luân hồi vì sự tốt lành
của chúng sinh còn đang phải gánh chịu khổ đau vì vô minh. Đấy chính là quả
mang lại từ sự thực hiện Tánh Không (đối với một người Bồ-tát khi đã đạt được Giác Ngộ thì ngay
cả niết bàn cũng chỉ là trống không, đối với họ chỉ có khổ đau của chúng sinh
mới là thật, sự thật cao quý thứ nhất trong số bốn sự thật mà Đức Phật đã nêu
lên).
Chỉ
có cách noi theo con đường tu tập về Tánh Không thì người Bồ-tát mới có thể đạt
được Phật Tính, bởi vì Tánh Không vượt lên trên cả hai thái cực trên đây. Tất
cả các tiết đã được đề cập trên đây đều nhằm vào chủ đích chứng minh chủ thuyết
cho rằng việc thực hiện Tánh Không thật cần thiết, không những giúp mang lại sự
Giác Ngộ hoàn hảo mà còn giải thoát chúng ta ra khỏi cõi luân hồi. Người Bồ-tát
lưu lại trong chu kỳ hiện hữu, và không chấp nhận một sự an bình lẻ loi cho
riêng họ trong cảnh giới niết bàn. Họ cố tình tái sinh trở lại trong cõi luân
hồi, vì sự thúc đẩy của lòng vị tha và cũng là quả mang lại từ sự suy nghiệm về
Tánh Không.
Không
có bất cứ một lý do thỏa đáng nào có thể phủ nhận được vai trò của Tánh Không,
thật vậy không có một chút nghi ngờ nào cả: nhất thiết phải phát huy cho bằng
được sự thực hiện Tánh Không.
Tiết 53. Sự chỉ trích Tánh Không của quý vị
thiếu vững chắc: không nên do dự gì cả trong việc tu tập Tánh Không.
Tiết 54. Tánh
Không là liều thuốc hóa giải bóng đêm dày đặc tỏa ra từ dục vọng và tấm màn u
mê bao phủ sự hiểu biết. Vì thế nếu muốn đạt được sự hiểu biết toàn năng thì
tại sao lại không phát huy sự thực hiện Tánh Không ngay đi?
Tiết 55.
Khiếp sợ những gì mang lại sự đau đớn, cũng có thể tạm hiểu được đi! Thế nhưng
Tánh Không làm giảm bớt sự đau đớn thì tại sao lại khiếp sợ nó?
Tiết 56. Sở dĩ khiếp sợ cái này hay cái kia,
ấy chẳng qua là vì chúng ta vẫn còn tin rằng "cái tôi" là một thứ gì
đó, điều ấy cũng tạm hiểu được! Thế nhưng nếu như không có "cái tôi"
thì sao, ai đứng ra để mà sợ hãi?
Tịch Thiên xác nhận
rằng thực hiện được Tánh Không sẽ làm biến mất các xúc cảm bấn loạn và tất cả
những gì cản trở sự hiểu biết. Vì thế nếu những ai mong cầu đạt được Giác Ngộ
hoàn hảo, Phật Tính và sự hiểu biết toàn năng, thì phải tức khắc trau dồi sự
hiểu biết Tánh Không.
Tịch
Thiên cũng nói rằng sự sợ hãi là một phản ứng tự nhiên trước một thứ gì đó mang
lại khổ đau (cái
chết chẳng hạn); thế nhưng trong tâm thức của một người đã đạt được
Tánh Không sẽ không còn chỗ nào dành cho khổ đau nữa, bởi vì khổ đau không còn
lý do gì để mà tồn tại.
Nếu vẫn còn có một thứ gì đó gọi là "cái
tôi" hay cái "của tôi" thì cũng sẽ còn lý do để mà sợ hãi. Trong
phạm vi không còn cái tôi, có nghĩa là chẳng còn ai nữa để mà sợ hãi, thì làm
thế nào sự sợ hãi lại có thể hiện ra được?
Tính cách vô ngã của con người
Một phân đoạn khác bắt đầu từ tiết 57 cũng rất quan
trọng. Phân đoạn này nêu lên một phương pháp lý luận thật chính xác giúp thiết
lập Tánh Không. Phần thứ nhất trong phân đoạn này nói đến việc thực hiện tính
cách vô ngã của con người. Như tôi đã nói trên đây, Tánh Không gồm có hai thể
loại: Tánh Không của con người (quan điểm Tiểu Thừa) và Tánh Không của mọi hiện
tượng (quan điểm
Đại Thừa). Thế nhưng trên phương diện bản chất thì giữa hai thể loại
đó không có gì khác biệt, dù là thật tinh tế đi nữa. Tuy nhiên Tánh Không về
con người được xem như dễ thực hiện hơn so với Tánh Không của mọi hiện tượng,
quan điểm này phản ảnh thứ tự đã được nêu lên trong kinh sách (có nghĩa là kinh
sách Tiểu Thừa nêu lên Tánh Không của cá thể con người trước và sau đó là Đại
Thừa nêu lên Tánh Không của tất cả mọi hiện tượng), và quan điểm này
cũng sẽ được nói đến trong tác phẩm của Tịch Thiên.
Thiết nghĩ cũng nên hiểu rằng sự
hiện hữu nội tại không phải như một căn bệnh thuộc thân xác cũng không phải là
một thể dạng hoang mang tâm thần mà sự Giác Ngộ có thể chữa lành hay xóa bỏ
được (sự hiên
hữu nội tại không phải là một thứ gì đó rất thật như là một căn bệnh, mà chỉ là
một "khái niệm"). Sự hiện hữu nội tại không phải là một
thứ gì hiện hữu có thể bị loại bỏ được bằng cách tu tập hay thiền định. Nó
không hề hiện hữu, trái lại sự u mê tâm thần thì có ("sự hiện hữu nội tại" của các hiện
tượng là một "khái niệm triết học siêu hình", sự u mê tâm thần là một
"tình trạng" lầm lẫn và hoang mang của tâm thức gọi là "vô minh").
Sự kiện "phủ nhận" nó khác với sự kiện "loại bỏ" sự u mê.
Do đó vấn đề phải được nêu lên như sau: "Nếu như sự hiện hữu nội tại chưa
bao giờ có thật, thì tại sao chúng ta lại cần phải phủ nhận nó?" Mặc dù nó
chưa bao giờ có thật, thế nhưng vì bị vô minh căn bản chi phối nên chúng ta lại
cứ cảm nhận nó như là một thực tại.
Sự nhận diện về cái
tôi cần phải được phủ nhận
Trong phần này chúng ta sẽ
bàn thảo với nhau về Tánh Không của cái ngã, thật hết sức quan trọng là phải
hiểu rõ những gì cần phải phủ nhận. Việc thiền định về Tánh Không đòi hỏi phải
xác định được một cách chính xác những gì cần phải phủ nhận. Mỗi khi đề cập đến
Tánh Không thì cũng nên hiểu thật rõ là khi bảo rằng mọi sự vật "trống
không về sự hiện hữu nội tại", thì đấy cũng không phải tương tự như khi
nói đến sự vắng mặt của "người ta" trong một ngôi chùa chẳng hạn (không
có ai trong ngôi chùa). Trong thí
dụ này, sự kiện một thứ gì đó được xác định là "trống không", tức
ngôi chùa; và sự kiện "không có ai trong đó" là hai thực thể (entity)
khác nhau (bản chất "trống không" của một thứ gì đó và sự
kiện một thứ gì đó đang trong tình trạng "không cất chứa" một thứ gì
cả:bản chất trống không và tình trạng không cất chứa "một thứ gì đó",
không mang cùng một ý nghĩa như nhau). Tuy nhiên mỗi khi nói đến sự phủ nhận sự hiện hữu nội tại, thì thứ gì
sẽ bị phủ nhận chính là phương thức hiện hữu (mode d'être / way of
being) bên ngoài của chính đối
tượng ấy.
Khi nói đến "vô
ngã" thì "cái ngã" (hay là "cái tôi") có nghĩa là gì? Trong tập bình giải về tác phẩm Bốn Trăm Tiết (Catuhsataka
/ Tứ Bách Luận) của Thánh Thiên (Aryadeva, sinh vào khoảng
cuối thế kỷ thứ II hay đầu thế kỷ thứ III ở Tích Lan, làu thông kinh sách
Theravada. Ông lên miền bắc Ấn để hành hương và tu học thêm. Ông gặp được Long
Thụ và được vị này nhận làm đệ tử. Nhờ đó ông được học hỏi về Trung Quán và tất
cả các kinh trong bộ Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita). Ông trở thành một
học giả thông thạo về tất cả mọi học phái Phật Giáo kể cả ngoài Phật Giáo và
được nhiều người biết đến. Một hôm ông được đại học Na-lan-đà mời đến để tranh
biện với một vị Bà-la-môn rất lỗi lạc là Durdhasakala mà từ trước đến nay không
ai thắng được ông ta. Trên đường đến Na-lan-đà ông gặp một bà lão xin ông một
con mắt để tu luyện, ông bèn móc mắt cho ngay, cử chỉ này cho thấy ông không
bám víu vào bất cứ một thứ gì kể cả thân xác và sự đau đớn của mình, và cũng từ
đó ông có thêm một biệt danh là Độc Nhãn Bồ-tát. Trong cuộc tranh biện ở đại
học Na-lan-đà ông thắng Dhurdhasakala, vị này bèn xin quy y Phật Giáo. Sau đó
ít lâu ông được mời giữ chức trụ trì của Na-lan-đà. Trong thời gian ở bắc Ấn
ông thiết lập được 24 tu viện, và khi đó đã lớn tuổi nên ông quay về quê nhà ở
miền nam) (Vì ghi chú này quá dài nên sẽ được trình
bày ở cuối trang như là một foot-note). Nguyệt Xứng
(Chandrakirti) lưu ý chúng ta rằng mỗi khi nói đến vô ngã thì chữ
"ngã" sẽ mang ý nghĩa là một sinh linh độc lập và tự chủ. Mỗi khi nói
đến bất cứ một vật thể hay một sự kiện nào và nếu chúng ta gán cho nó một
phương cách hiện hữu độc lập, tự chủ và hàm chứa một sự hiện hữu nội tại, thì
các đặc tính ấy sẽ là "cái ngã" và trở thành đối tượng của sự phủ
nhận. Trong khuôn khổ của giáo lý Tánh Không, phương cách hiện hữu (mang
tính cách tự chủ, độc lập và nội tại) ấy là điều mà chúng ta phải phủ nhận.
Khi bình giải về một tiết khá quan trọng trong tập Bốn Trăm Tiết (của Thánh Thiên) Nguyệt Xứng có nêu
lên định nghĩa của cái ngã như sau: không có bất một vật thể nào hay một sự
kiện nào có thể phát sinh từ một động lực (force / power / một sức mạnh) tự chủ. Chúng chỉ
có thể hiện hữu nhờ vào quy luật tương liên giữa nguyên nhân và điều kiện (kinh sách tiếng
Việt gốc Hán gọi là lý duyên khởi) - có nghĩa là phải nhờ vào thật
nhiều những yếu tố khác. Vì thế chúng không hề mang một cương vị độc lập và tự
chủ nào trên phương diện bản thể học (statut ontologique / ontological status)
để có thể gọi đấy là cái ngã. Trong phạm vi mà tất cả các hiện tượng không hàm
chứa một sự hiện hữu tự chủ (autosuffisant / self-sufficient / tự nó hội đủ các điều
kiện cần thiết để hiện hữu) và vô điều kiện thì có thể bảo rằng
chúng trống không về chính sự hiện hữu của chúng.
Cảm tính về cái tôi hay
tư duy cho rằng "chính thật đây là tôi" hiện lên trong tâm thức chúng ta mang nhiều thể dạng khác
nhau. Trong tập luận Dẫn nhập về Con Đường Trung Quán (Madhyamakavatara /
Nhập Trung Luận), Nguyệt Xứng có nêu lên hai khía cạnh khác nhau của
cảm tính về "cái tôi": a) sự gắn chặt của "cái tôi" vào tri
thức của chúng ta, b) một hình thức đối tượng mà chúng ta xem như hàm chứa một
sự hiện hữu nội tại. Chính khía cạnh thứ hai là điều mà chúng ta phải phủ nhận,
khía cạnh thứ nhất không liên hệ gì đến sự phủ nhận đó. Nguyệt Xứng xác nhận
rằng cảm tính về một "cái tôi" được gắn chặt vào "cái tôi"
quy ước (có nghĩa chính là tôi đây) tức như
là chủ thể giữ vai trò thực thi các hành động và nhận biết các cảm nhận. Vì bị
buộc chặt vào "cái tôi" ấy nên chúng ta cảm thấy nó như hàm chứa một
thực thể nội tại. Khái niệm về thực thể mang tính cách nội tại của cái tôi sẽ
tạo ra một tình trang hoang mang và các thứ xúc cảm bấn loạn. Nguyệt Xứng bảo
rằng đấy chính là khái niệm (sai lầm) mà người du-già (tức là những người hành thiền)
phải thấu triệt và loại bỏ.
Dựa vào các ngôn từ triết học (cách lập luận thuần lý) chúng ta
cũng có thể nhận thấy được sự khác biệt - cứ tạm gọi là như thế - giữa vật thể hiển hiện qua hình tướng bên ngoài
và một vật thể cảm nhận được bằng quy
chiếu (reference / sự chỉ định hay tên gọi quy ước của một sự
vật) của nó (cảm nhận được hình tướng của một vật thể và diễn đạt vật
thể ấy bằng cách gán cho nó một tên gọi quy ước). Dầu sao chỉ cần sử
dụng phương pháp nội quán (introspection / tức là cách nhìn vào nội tâm của mình để
suy nghiệm) để tìm hiểu cảm
tính thông thường về "cái tôi" thì cũng đủ giúp chúng ta khám phá ra
bên trong cảm tính đó một sự bám víu cực mạnh vào khái niệm về "cái
ngã", tức là một thực thể hàm chứa một sự hiện hữu nội tại (khi chúng ta nhìn
vào tâm thức mình - tức là sử dụng phép nội quán - thì chúng ta sẽ thấy ngay
là: "tôi muốn có cái này", "tôi muốn được trở thành như thế
kia", "tôi là thế này", "tôi là thế nọ"... Những gì ẩn
nấp phía sau những cảm tính ấy chính là
sự hiện hữu nội tại của "cái tôi" hay là ý niệm về sự trường tồn của "cái ngã").
Bên trong quan niệm cho rằng chúng ta hàm chứa một thể tính cá biệt, ẩn chứa
một sự tin tưởng từ bản năng rất mạnh về một tác nhân mang tính cách nhất thể (agent un / agent
one / duy nhất, độc tôn). Changkya (một luận sư uyên bác của tông phái Cách Lỗ -
Guelugpa, thế kỷ XVIII) nói rằng một số người (các luận sư và học giả) trong thời
đại ông có vẻ như tin vào một cái tôi hiện hữu một cách độc lập thuộc "bên
ngoài" (tức
là khác với thân xác) - có nghĩa là một đối tượng cần phải phủ nhận
- và họ cứ giữ nguyên cách cảm nhận ấy về cái tôi bẩm sinh ấy (inné / innate,
inborn). Thế nhưng thật ra thì không có một đối tượng phủ nhận nào
khác với "cái tôi" (độc lập với thân xác và nằm bên ngoài "cái tôi")
để có thể cảm nhận nó một cách bẩm sinh (innate) như là tự nó hiện hữu. Cái tôi hiển hiện
qua các kinh nghiệm cảm nhận bình thường trong cuộc sống thường nhật của chúng
ta tự nó cũng đã hội đủ các đối tượng cho sự phủ nhận. Nếu cách hiểu Tánh Không
là phải dồn tất cả nỗ lực vào việc loại bỏ "cái tôi", thì chúng ta sẽ
khó tránh khỏi rơi vào một cách chơi chữ (jeu verbal / verbal play / một trò định nghĩa và diễn đạt
bằng ngôn từ) bằng các thuật ngữ ngoại lai (exotic / lạ lùng, kỳ quặc) chẳng hạn như "sự hiện hữu đích
thật", "sự hiện hữu nội tại"..., và như thế chúng ta sẽ có thể
gặp phải nguy cơ cứ tiếp tục giữ nguyên sự bám víu bản năng của mình vào cái
tôi nguyên vẹn và không hề sứt mẻ (inentamé / intact, untouched): đấy là cách mà
chúng ta tìm kiếm một cái tôi tưởng tượng, vì trên thực tế cái tôi đó sẽ không
tạo ra một tác động nào ảnh hưởng đến cảm tính từ bản năng của chúng ta về cái
tôi cả (thí dụ
chúng ta cố gắng tìm hiểu "cái tôi" theo sự giải thích trong sách vở,
chẳng hạn như khi đọc quyển sách này của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, và khi xếp sách
lại thì chúng ta có thể cảm thấy mệt mỏi và uể oải, và cần phải đi chơi hay
nghe nhạc để "giải trí". Đấy là cách chứng tỏ vừa đây chúng ta cầm
quyển sách để đọc và để cố gắng tim hiểu về một cái tôi tưởng tượng, và hiện
đang trong lúc này, tức là sau khi xếp sách lại, thì cái tôi nội tại của mình
lại hiện lên để thúc dục mình "giải trí". Nếu nói theo cách của Đức
Đạt-Lai Lạt-Ma thì đấy là cách mà chúng ta vẫn tiếp tục giữ nguyên sự bám víu
"bản năng" của mình vào cái tôi của mình). Nếu rơi vào cạm
bẩy đó thì chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong việc phủ nhận cái tôi, và
như thế sự bám víu bẩm sinh (tự tại) sẽ vẫn còn nguyên. Khá lắm là chúng ta
có thể phủ nhận được một khía cạnh thô thiển nào đó của đối tượng mà chúng ta
phải phủ nhận thế thôi.
Vị đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa) có nói rằng một trong
những điểm khó nhất của triết học Trung Quán là vẫn duy sự hiện thực của thế
giới sự thật quy ước sau khi đã phủ nhận sự hiện hữu nội tại của tất cả mọi
hiện tượng. Như tôi đã nói đến trên đây, thắc mắc tất sẽ phải phát sinh trong
tâm thức mình, sự thắc mắc đó như sau: "Một khi đã phủ nhận sự hiện hữu
nội tại của mọi hiện tượng thì làm thế nào chúng ta có thể nói đến thể tính (identity / cá tính
hay đặc tính của một cá thể) mà không gây ra mâu thuẫn được. Thắc
mắc trên đây lả cả một vấn đề triết học. Thật hết sức cần thiết phải nhận thấy
được sự khác biệt giữa đối tượng bên ngoài và đối tượng quy chiếu (objet référent / referent object / "đối tượng quy
chiếu" hay "tham chiếu", tức là đối tượng được vay mượn để chỉ
định một đối tượng khác. Thí dụ cụ thể: "cái bàn" là một "đối
tượng quy chiếu" dùng để chỉ định một vật thể "bên ngoài" gồm "một
mặt phẳng và bốn chân), bởi vì điều đó bắt buộc chúng ta phải (suy nghĩ)
thật chính xác bằng cách không được phủ nhận sự hiện hữu thật của cái ngã. Nếu
hoàn toàn không có cái tôi thì tại sao chúng ta lại ước mong đạt được Giác Ngộ.
Sự mong cầu đó không mang một ý nghĩa nào cả bởi vì sẽ không có bất cứ ai cả để
mà bước theo con đường đó (đã là vô ngã thì ai tu tập?)!
Theo Tông Khách Ba, ngoai trừ trường hợp đã trực tiếp thực
hiện được Tánh Không ra, thì tất cả những nhận biết và các kinh nghiệm cảm nhận
của chúng ta đều bị ô nhiễm bởi sự nhận thức sai lầm về sự hiện hữu nội tại. Do
đó chúng ta phải nhận diện thật chính xác đối tượng cần phải phủ nhận. Chúng ta
phải sử dụng kinh nghiệm bản thân của mình để khảo sát xem quan niệm bẩm sinh (conception innée / innate concept / quan niệm tự nhiên và
có sẵn) mang tính cách bản năng của mình về cái tôi hiện ra như thế
nào, hầu giúp chúng ta cương quyết sửa đổi cách cảm nhận đó. Nếu như "cái
tôi" cần phải phủ nhận tỏ ra hiện hữu, thì nó hiện hữu như thế nào? Ít ra
chúng ta cũng phải ý thức được là nó giống với cái gì. Chỉ có cách khảo sát
thật cẩn thận phương cách mà chúng ta cảm nhận về "cái tôi" diễn tiến
như thế nào mới có thể giúp chúng ta hiểu được là cần phải thực hiện Tánh Không
như thế nào để phủ nhận sự nhận thức của chúng ta về sự hiện hữu nội tại.
Thánh Thiên (Aryadeva) trong tập luận Bốn Trăm Tiết có nói rằng "hạt giống" làm phát sinh ra
chu kỳ hiện hữu chính là tri thức, và chỉ có cách duy nhất là phải quán nhận
được tính cách vô ngã của các đối tượng - trong trường hợp này là vô ngã của
tri thức - thì chúng ta mới có thể loại trừ được mầm mống đó. Chỉ khi nào chúng
ta đã hiểu được Tánh Không của sự hiện hữu nội tại ở một mức độ thật thâm sâu,
thì tất nhiên sức mạnh của các xúc cảm bấn loạn chẳng hạn như sự giận dữ và bám
víu đối với các đối tượng của các thứ xúc cảm ấy, cũng sẽ giảm xuống một cách
ngoan mục. Tương tự như sự thực hiện như Tánh Không sẽ khiến cho các tư duy và
xúc cảm mang tính cách khổ đau phải nới lỏng "nanh vuốt" của chúng.
Trong một đám đông người, mỗi người đều mang những sợ sệt, hy
vọng cũng như khó khăn riêng. Trước mắt chúng ta hiện ra một cảnh hỗn độn gồm
thật nhiều tâm trạng khác nhau. Mỗi tâm trạng hiện ra không phải là không có
duyên cớ, mà là những duyên cớ thật rõ rệt, dù cho sự cảm nhận tâm trạng ấy chỉ
mơ hồ hay thật mãnh liệt. Tuy không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại nào thế
nhưng tâm trạng đó có vẻ rất thật, tượng tự như một màn ảo thuật do một ảo
thuật gia thật tài ba đang trình diễn.
Dù có phân tích kỹ lưỡng đến đâu thì cũng không sao tìm thấy được bản
chất của các tâm trạng ấy. Có phải là kỳ lạ hay chăng?
Trong cuộc sống thường nhật chúng ta thường phải làm việc thật
cam khổ, chẳng qua vì chúng ta luôn bị thúc đẩy bởi các thể dạng xúc cảm tâm
thần đủ loại, chẳng hạn như sự giận dữ, kiêu căng và bám víu (tiền bạc, danh
vọng...). Vậy thì các thứ xúc cảm mãnh liệt ấy hướng vào những đối
tượng chính xác nào ? Giả thử nếu phải tìm cho ra các đối tượng ấy thì thử hỏi
chúng ta có tìm thấy chúng hay chăng (bản chất cũa những đối tượng của những thứ xúc cảm ấy cũng
chỉ là Tánh Không)? Thật sự ra thì có một cái gì đó để mà tìm hay
không? Đấy là cách mà chúng ta phải tự hỏi về các kinh nghiệm cảm nhận thường
nhật của mình. Tuy nhiên nếu bạn nghĩ rằng thái độ nghi ngờ đó tất sẽ đưa đế
kết luận cho rằng việc mong cầu Phật Tính (tức là tu tập để trở thành Phật) cũng chả được
tích sự gì, bởi vì Phật Tính cũng chẳng mang một sự hiện hữu nội tại nào, thì
đấy cũng sẽ là dấu hiệu cho thấy bạn đang rơi vào chủ nghĩa hư vô.
Có
một lần Dromteunpa (1005-1064, đệ tử của Atisha (A-đề-sa), và cũng là người đã
sáng lập học phái Cam Đan - Kadampa) có nói rằng trong bối cảnh Tánh
Không thì bàn tay cũng chỉ là trống không và lửa cũng không có, thế nhưng nếu
bạn cứ đưa tay vào lửa thì nhất định bạn sẽ bị bỏng! Theo ý tôi, quả thật là
chí lý. Nếu bạn trông thấy một người nào đó thốt lên như thế này: "Ồ! quả
thật tất cả chỉ là ảo giác, chỉ như một giấc mơ, chẳng có gì thật cả!" thì
bạn cứ tiến đến gần hắn và dùng một cái kim đâm vào người hắn, thì bạn ta sẽ
thấy ngay là hắn sẽ phản ứng như thế nào. Hãy cứ để cho hắn tự khám phá xem có
một thực thể nào hay không (không cần phải cãi lý với hắn làm gì)!. Tôi
không hề nói rằng các vật thể không hiện hữu - các vật thể và các hiện tượng
hiện hữu, chúng tạo ra các tác động đưa đến các thứ cảm nhận như đau đớn hay
thích thú. Những gì tôi muốn nói là các sự vật không hiện hữu đúng theo phương
cách mà chúng ta áp đặt cho chúng (đây là một câu kết luận rất chí lý mà chúng ta cần phải suy
nghiệm để hiểu rằng không có một sự khác biệt nào giữa một người "bình
dị" và một ngưởi "suy tư" tức là một người "tu tập",
khi cả hai nhìn vào thế giới rất thật này. Sự khác biệt nếu có là người
"suy tư" nhìn vào thế giới bằng đôi mắt khác hơn, chỉ có thế thôi).
Không sao tìm thấy "cái tôi"
Sự cảm nhận của chúng ta về sự hiện hữu đích
thật mang hai sắc thái khác nhau: thứ nhất là sự nhận thức bẩm sinh (appréhension innée
/ innatte apprehension / sự nhận thức hay nhận biết tự động) mang
tính cách bản năng, sự nhận thức này cũng xảy ra với hàng súc vật; sắc thái thứ
hai là sự nhận thức về "cái tôi" dựa vào sự lý luận hay các tư duy
thuộc lãnh vực triết học. Sắc thái thứ hai này là sự bám víu vào cái tôi được
tạo dựng trên mặt trí thức. Sắc thái thứ nhất là sự sáp nhập từ bản năng vào
khái niệm về sự hiện hữu nội tại và cũng là nguyên nhân khởi động chu kỳ hiện
hữu. Nếu muốn làm bật rễ sự sáp nhập bẩm sinh hay bản năng đó thì trước hết
chúng ta không được bám víu vào sự hiện hữu nội tại của các hiện tượng, tạo
dựng bằng trí thức.
Như tôi đã nói trên đây,
thật hết sức rõ ràng là "cái tôi" - với tư cách là một cá thể đối tác
với những kẻ khác và thế giới và cảm nhận được mọi thứ khổ đau và thích thú -
tất nhiên là hiện hữu. Thế nhưng bên trong kinh nghiệm cảm nhận mang tính cách
bản năng về "cái tôi" ấy của chúng ta lại còn tàng ẩn cả một sự tin
tưởng cho rằng "cái tôi" là "Một", có nghĩa là hoàn toàn tự
chủ (duy nhất và độc lập) và hàm chứa một hiện thực tự tại nào đó. Nếu như cái "cái tôi"
ấy hiện hữu một cách nội tại thì chúng ta tất sẽ phải tìm thấy nó khi tìm kiếm
nó. Nếu càng dò tìm sự hiện thực của nó thì nó sẽ phải càng hiện ra với chúng
ta rõ rệt hơn (thế nhưng trên thực tế thì chúng ta
không sao tìm ra được nó). Thật
thế, "cái tôi" không thể nào hiện hữu độc lập với tổng thể thân xác
và tâm thức được, thế nhưng nó cũng không hiện ra đúng theo sự cảm nhận bẩm
sinh mang tính cách bản năng của chúng ta đối với nó. Dù cho có một "cái
tôi" mang tính cách nội tại thật sự hiện hữu đi nữa, thì nhất định nó cũng
phải hiện hữu bên trong những thứ cấu hợp vật chất và tâm thần tạo ra một con
người. Nói cách khác, nó phải được tìm thấy bên trong thân xác ta và tâm thức
chúng ta.
Long
Thụ (Nagarjuna) có nói trong tập luận Vòng
Hoa Những Viên Ngọc Quý (Ratnavali / Bảo Hành Vương Chánh Luận) rằng con người không nhất thiết là thành phần
đất, cũng không phải là thành phần lửa, nước, khí hay không gian, thế nhưng nó
cũng không hiện hữu độc lập với những thứ ấy. Vì thế nếu tìm kiếm "con
người" hay "cái tôi" thì chúng ta cũng sẽ không thể nào biết
được đích xác vị trí của nó thuộc vào thành phần cấu tạo nào trong cơ thể. Nếu
chúng ta nghĩ rằng vị trí của "cái tôi" nằm trong chuỗi tiếp nối
(continuum) của tri thức, thì chúng ta cũng sẽ không tìm thấy nó ở đấy. Tri
thức phải là tri thức của "một"
con người; nó "không phải"
là "con người" (chúng
ta có cảm giác là tư duy, xúc cảm biểu trưng cho "cái tôi" của mình,
là "chính mình", thế nhưng thật ra đấy cũng chỉ là các thứ tư duy và
xúc cảm phát sinh từ ngũ uẩn của một "con người" gọi là "ta"). Cũng thế, con người không phải là một tổng thể
gồm thân xác và tri thức cũng không phải là chuỗi tiếp nối (continuum) của tổng
thể ấy. Nếu chúng ta bắt buộc phải tìm cho ra quy chiếu (referent
/ sự chỉ định) đích thật phản ảnh
thuật ngữ "con người" hay "cái tôi", thì chúng ta tất sẽ
không sao tìm thấy nó tách rời và khác biệt với các thành phần của cơ thể, hay
là thuộc vào bất cứ một khoảnh khắc riêng biệt nào đó của dòng tri thức (dòng
tri thức được xem là một chuỗi tiếp nối liên tục của các đơn vị mang tính cách
thời gian, "con người" hay "cái tôi" không thuộc một đơn vì
nào cả trên dòng tri thức ấy).
Chúng ta cũng sẽ không tìm ra nó bên trong tổng thể thân xác và tâm thức, cũng
như bên ngoài tổng thể ấy. Tóm lại là không có bất cứ thứ gì có thể xem là quy
chiếu đích thật nhằm chỉ định "con người" hay "cái tôi" trên
dòng tiếp nối của tri thức cũng như bên trong thân xác .
Long Thụ trong tập luận Trung
Quán Luận Tụng (Madhyamakakarika) cho rằng ngay
cả đối với chính Như Lai - tức Đức Phật mà chúng ta đã đặt hết lòng tin và sự
tôn kính của mình - cũng sẽ không thể tìm thấy được, nếu chúng ta muốn biết quy
chiếu (ý nghĩa
chỉ định) đích thật của thuật ngữ Như Lai là gì (câu này trích từ chương XXII trong tập Nhập
Trung Quán Luận trên đây của Long Thụ). Các cấu hợp tạo ra Đức Phật,
tức là thân xác và tâm thức của Ngài, không thể được xem như là Đức Phật; Đức
Phật cũng không thể được xem như độc lập với thân xác và tâm thức của Ngài.
Ngài không sở hữu những cấu hợp một cách nội tại, những cấu hợp cũng không phải
là nền móng nội tại của Ngài. Khi phân tích theo cách thức trên đây thì ngay cả
Đức Phật cũng sẽ không tìm thấy. Chúng ta muốn nói lên chính xác điều gì khi
xác nhận rằng mọi vật thể và sự kiện đều trống không? Trong phạm vi mà tất cả
mọi vật thể và sự kiện đều phát sinh từ sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và điều
kiện - tức là những yếu tố khác với chúng - thì nhất định chúng sẽ không hàm
chứa bất cứ một bản chất độc lập và tự chủ nào cả. Sự vắng mặt về bản chất độc
lập hay thực thể mang tính cách nội tại ấy chính là Tánh Không. Nếu nghĩ rằng
Tánh Không là một thể loại mang tính cách bản thể nào đó (catégorie ontologique
/ ontological category) khác biệt với các vật thể và sự kiện, thì nhất định sẽ
là một điều sai lầm.
Vì thế nếu trở lại với tác phẩm của Tịch Thiên thì chúng ta
cũng sẽ thấy ngay điều mà ông ta muốn nêu lên: đấy là cách phải khảo sát các
thành phần của thân thể để tự hỏi xem "con người" thuộc vào thành
phần nào.
Tiết 57,58,59. Tôi không phải là răng, tóc,
móng tay, xương, chất nhờn, đờm, mủ, nước bọt (nước dãi), mỡ, mồ hôi, phổi, gan,
ruột, phẩn, nước tiểu, thịt, da, hơi ấm, hơi thở, các lổ hổng trong cơ thể, hay
là sáu thứ cảm nhận (ngũ giác và tri
thức).
Trong các phần sau tác giả
của tập Hành Trình đến Giác Ngộ sẽ
phân tích các khía cạnh khác biệt giữa tri thức và các nhân tố hiện hữu khác để
tự hỏi xem mỗi thành phần ấy có đúng thật là "con người" hay không.
THIỀN ĐỊNH
Đến đây chúng ta hãy tập
thiền định vể Tánh Không xem sao. Tịch Thiên có nêu lên trong tác phẩm của ông
như sau: thật hết sức hiển nhiên nếu muốn tìm kiếm xem "cái tôi" ở
đâu thì chúng ta sẽ không thể nào tìm ra được nó. Thế nhưng dù sao thì sự kiện
ấy không nhất thiết có nghĩa là "cái tôi" không có, bởi vì nhờ vào
các kinh nghiệm nhận biết của chính mình
mà mỗi người trong chúng ta cảm nhận được sự đau đớn hay thích thú.
Chúng ta hiểu rằng những kinh nghiệm cảm nhận ấy phải được nhận biết bởi một
thứ gì đó hay một người nào đó. Thế nhưng nếu chúng ta tìm kiếm xem "cái
tôi" ấy ở vào chỗ nào thì chúng ta lại không sao tìm ra được nó. Do đó bắt
buộc chúng ta phải kết luận rằng nó chỉ có thể hiện hữu bằng tên gọi, tức là
bằng cách nhờ vào hiệu năng của sự chỉ định mang tính cách khái niệm mà thôi.
Sau khi đã ghi nhận điều
ấy trong tâm thì chúng ta hãy nhìn vào mọi sự vật, kể cả "cái tôi"
của mình, xem chúng hiện ra trong tâm thức mình như thế nào. Có phải là chúng
chỉ là một danh xưng đơn thuần hay là còn hiện ra dưới một hình thức nào khác
nữa? Rõ ràng là chúng không nhất thiết chỉ tỏ ra hàm chứa một thực thể bằng tên
gọi (réalité nominale / nominative reality) mà hình như còn hàm chứa một sự
hiện hữu khách quan và nội tại nào đó - có vẻ như là tự chúng hiện hữu (không cần đến một
nguyên nhân hay điều kiện nào cả). Chúng không có vẻ đơn giản chỉ hiện
hữu nhờ vào sự chỉ định (bằng tên gọi) mà hình như còn tỏ ra hàm chứa một quy
chế khách quan và độc lập nào đó. Sự suy nghĩ ấy sẽ mang lại cho chúng ta sự
vững tin sâu xa rằng mọi sự vật không hiện hữu đúng với phương cách mà chúng
hiển hiện ra với chúng ta.
Khi
nào việc thiền định về Tánh Không đã đạt được thể dạng thăng bằng (tức là bền vững và
không xao động) thì chúng ta không nên để mình bị xâm chiếm bởi các bóng
mờ của các thứ cảm tính, chẳng hạn: "Đây đúng là Tánh Không" hoặc
"Tôi đang thiền định về Tánh Không"... (nếu suy nghĩ như thế thì Tánh Không sẽ là một
đối tương của sự suy nghĩ, và trong trường hợp đó Tánh Không sẽ không còn là
Tánh Không nữa). Trái lại chúng ta hãy lắng sâu vào thể dạng vắng bóng
của sự hiện hữu nội tại - có nghĩa là trong thể dạng đó chúng ta sẽ không sao
tìm thấy được các hiện tượng khi khảo sát chúng bằng sự suy luận và phán đoán (hiện tượng phát
sinh từ sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và điều kiện, nếu "phá vỡ"
sự kết hợp đó thì sẽ không thấy các hiện tượng đâu cả, và đấy cũng chính là
cách tạo ra một thể dạng "vắng bóng" của sự hiện hữu, nói cách khác
là không còn một hiện tượng nào hiện ra với người hành thiền nữa). Thể
dạng đó cũng không khác gì như thể dạng khi tâm thức hòa tan trong Tánh Không.
Chúng ta không nên để cho bất cứ một ý nghĩ nhị nguyên - gồm chủ thể và đối
tượng - nào có thể hiển hiện ra, chẳng hạn như khi quán sát một vật thể và nghĩ
rằng "đây chính là nó, nó đang ở ngay trước mắt". Hãy thiền định về
Tánh Không theo cách chỉ dẫn trên đây trong vài phút (vài phút ở đây có nghĩa là sau buổi giảng cửa
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Phép thiền định trên đây khá khó, cần phải luyện tập thường
xuyên và lâu dài hơn, không như các phép thiền định nêu lên trong các chương
trước).
8
Bản chất và sự hiện hữu
của "cái tôi"
Lòng từ bi phát sinh từ sự thực hiện Tánh Không
Long Thụ cho biết rằng Bồ Đề Tâm, (Bodhicitta) hay lòng
mong ước đạt được Giác Ngộ vì sự an lành của tất cả chúng sinh, là nền tảng của
sự tỉnh thức, thế nhưng sự ước vọng đó vẫn còn phải được bổ khuyết thêm bởi sự
hiểu biết (tức
là trí tuệ) thì mới có thể thực hiện được Tánh Không. Vì thế nếu
muốn đạt được sự Giác Ngộ hoàn hảo thì chúng ta phải khơi động nền tảng đó của
sự tỉnh thức trong lòng mình hầu giúp mình thực hiện mục tiêu mình mong cầu.
Các ước vọng vị tha trên đây bắt nguồn từ "lòng Từ Bi rộng lớn" và yếu tố bổ sung không thể thiếu sót là
sự hiểu biết siêu nhiên giúp thực hiện Tánh Không. Tóm lại cả ba thành phần đó
- Bồ Đề Tâm, lòng Từ Bi rộng lớn, và sự hiểu biết siêu nhiên về Tánh Không - là
cốt lõi của con đường đưa đến Giác Ngộ hoàn hảo. Tu tập về ba yếu tố đó sẽ giúp
chúng ta đạt được thể dạng của sự hiểu biết toàn năng; thật vậy không sao có
thể đạt được Phật Tính (thành Phật) nếu không thực hiện được ba yếu tố
trên đây. Chúng ta có thể khẳng định rằng cả ba thể dạng đó của con đường là
những điều kiện tối cần và đầy đủ nhằm giúp chúng ta đạt được thể dạng của một
vị Phật.
Sở dĩ chúng ta quan tâm đến quan
điểm về Tánh Không và phương cách mà sự hiểu biết siêu nhiên giúp thực hiện Tánh
Không, vì sự thực hiện ấy sẽ có đủ khả năng giúp chúng ta loại bỏ được vô minh
căn bản và giải thoát chúng ta khỏi mọi khổ đau. Thực hiện được Tánh Không sẽ
giúp mình quán thấy được một tâm thức vô minh bám víu vào sự hiện hữu nội tại
là một tâm thức méo mó. Thế nhưng sự méo mó ấy cũng chỉ là một thể dạng của tâm
thức, do đó có thể loại bỏ được nó. Chính vì thế nên bên trong tất cả mỗi chúng
sinh đều hiện hữu một tiềm năng giúp mình đạt được sự giải thoát. Chỉ khi nào
thực hiện được Tánh Không của sự hiện hữu nội tại thì mới có thể phát động được
lòng từ bi chân thật và mạnh mẽ đối với tất cả chúng sinh có giác cảm còn đang
vướng mắc trong chu kỳ hiện hữu chỉ vì vô minh căn bản không cho phép các chúng
sinh ấy quán thấy được bản thể của thực tại.
Sức mạnh của lòng từ bi
Lòng từ Bi thật hết sức quan
trọng đối với những người Phật Giáo thuần thành đã quyết tâm bước vào con đường
tâm linh. Thông thường, một người càng có lòng vị tha và từ bi sẽ càng hy sinh
vì sự an vui của kẻ khác dễ dàng hơn. Ngay cả trên phương diện lợi ích cá nhân,
nếu càng phát lộ được lòng từ bi mạnh mẽ thì mình cũng sẽ càng cảm thấy can đảm
và quả quyết hơn. Tất cả các tôn giáo lớn không những xem trọng và nêu cao các
phẩm tính của lòng từ bi, mà còn hết lòng quảng bá nữa. Giáo huấn của các tôn
giáo ấy đều đưa ra các phương pháp thực hành nhằm phát huy lòng từ bi. Tất
nhiên là có nhiều khác biệt trên phương diện triết học và siêu hình học, và đương
nhiên sự đa dạng ấy cũng sẽ đưa đến các quan điểm không hoàn toàn giống nhau về
lòng từ bi - chẳng hạn như trong lãnh vực tác động của nó, và vân vân... (trông
thấy những cảnh khổ đau khiến lòng mình trắc ẩn hoặc nhìn thấy những cảnh nghèo
đói khiến mình cảm thấy thương tâm và sẵn sàng hy sinh để giúp đỡ kẻ
khác...,thì đấy chỉ là những hình thức từ bi rất phổ cập nếu không muốn nói là sơ
đẳng. Những sự cảm thương ấy có thể mang tính cách bản năng nữa, và đôi khi
cũng không cần đến sự cổ vũ của tôn giáo. Lòng từ bi do Phật Giáo chủ trương mở
ra một bầu không gian rộng lớn hơn và một lãnh vực tác động sâu sắc hơn, bằng
cách hướng vào tất cả chúng sinh, trong đó kể cả hàng thú vật bởi vì chúng cũng
biết cảm nhận đớn đau và sợ hãi. Riêng đối với con người thì lòng từ bi Phật
Giáo không phân biệt bất cứ ai, dù họ nghèo đói hay giàu sang, mạnh khoẻ hay ốm
đau, xinh đẹp hay xấu xí, hung dữ hay hiền lành..., bởi vì tất cả họ trong đó
có kể cả chính mình đều khổ đau. Khổ đau đối với Phật Giáo không phải chỉ là
những cảnh tượng đớn đau và khổ nhọc trông thấy trước mắt, mà còn là những thứ
khổ đau ray rứt, sâu kín tàng ẩn bên trong thân xác và tâm thức của mỗi chúng
sinh, đấy là những thứ khổ đau mang lại bởi hiện tượng vô thường và sự vướng
mắc trong chu kỳ hiện hữu. Từ bi đối với toàn thể chúng sinh và với chính mình
sẽ mang một ý nghĩa to rộng hơn hầu giúp mở rộng con tim của mình và khiến mình
trở thành cao cả, bén nhạy và nhiều nghị lực hơn). Tuy nhiên tất cả các tôn giáo lớn đều gặp nhau ở
một điểm thật quan trọng về lòng từ bi, đó là sự kiện luyện tập về lòng vị tha
sẽ mang lại cho chúng ta khả năng phát lộ thật tự nhiên lòng thiện cảm nhằm
giúp mình biết chia sẻ khổ đau với kẻ khác.
Nếu chúng ta có một con tim nhiều thương cảm thì hình như nhờ
đó chúng ta cũng trở nên những con người can đảm và quyết tâm hơn. Tại sao lại
như thế? Tôi nghĩ rằng khi lòng từ bi hiện ra trong tim mình thì mình cũng sẽ
không còn bị tràn ngập bởi lo buồn và các sự xung đột trong nội tâm nữa, trái
lại mình sẽ biết quan tâm đến nỗi khổ đau và sự an vui của kẻ khác nhiều hơn,
và chính nhờ vào những kinh nghiệm ấy (trông thấy khổ đau và yêu thương kẻ khác) mà chúng
ta sẽ trở nên bén nhạy hơn hầu giúp mình ý thức được khổ đau một cách sâu xa
hơn (khổ đau với
khổ đau của người khác sẽ giúp mình nhận thấy những khổ đau sâu kín của chính
mình, và nhờ đó mình cũng sẽ có nhiều nghị lực hơn trong việc tu tập nhằm xóa
bỏ những khổ đau mênh mông đó cho mình và cho kẻ khác). Điều này có
thể sẽ làm biến cải được cách mà chúng ta nhìn vào những khổ đau của chính
mình, và trong một số trường hợp cũng có
thể biến cải được cả những kinh nghiệm cảm nhận về sự đau đớn cũng như các khó
khăn của chính mình (khi trông thấy sự đau đớn và những hoàn cảnh nan giải của
kẻ khác thì mình cũng sẽ cảm thấy sự đau đớn và các khó khăn của mình trở nên
nhẹ bớt đi và chúng cũng sẽ không hành hạ mình một cách quá đáng).
Những gì trước đây tỏ ra không thể chịu đựng nổi thì nay có thể xem chúng như
không đáng quan tâm, hay chỉ là những chuyện vụn vặt. Vì thế đối với một người
có lòng vị tha và trắc ẩn thì họ sẽ cảm thấy những xung đột nội tâm và những
khó khăn của riêng mình không đến nỗi nào là quá đáng, và chúng cũng sẽ bớt gây
ra ảnh hưởng đối với sự an bình trong tâm thức mình hơn.
Lòng từ bi phát lộ từ mối quan tâm sâu xa về sự an vui của tất
cả chúng sinh có giác cảm có thể đạt được nhờ vào một sự quan tâm duy lý (considération
raisonnée / reasoned consideration / một
sự quan tâm được cân nhắc cẩn thận), có nghĩa là nhờ vào những quá
trình suy luận chặt chẽ. Cảm tính mạnh mẽ trên đây (tức là lòng từ bi) cũng có thể làm
phát sinh ra một số các cảm tính thật mạnh khác kèm theo với nó (thí dụ khi trông
thấy một cảnh nghèo khổ và chúng ta muốn bố thí, thế nhưng đồng thời thì những
cảm tính ích kỷ cũng trổi dậy và ngăn chận chúng ta), thế nhưng dù
có bùng lên thì chúng cũng không sao tìm được một khoảng trống nào để khuấy
động tâm thức mình, bởi vì nó đã được bảo vệ thật vững chắc bởi những sự đắn đo
hợp lý (reasoned
considerations). Sở dĩ chúng ta phát huy được sự cân nhắc ấy một
phần cũng là nhờ vào trí thông minh của con người (thì dụ nếu chúng ta giúp đỡ một người nào đó
thì nhất định cũng sẽ khó tránh khỏi nhiều mất mát và thiệt thòi về phần mình.
Thế nhưng sau khi suy nghĩ và cân nhắc kỹ lưỡng thì chúng ta cũng nhận thấy
rằng dầu sao thì sự thiệt thòi của mình cũng không đáng kể so với những khổ đau
đang hành hạ một kẻ khốn cùng. Nếu biết ý thức hay suy nghĩ như thế thì những
cảm tính thiệt thòi không sao khuấy động được tâm thức mình). Trong
cuộc sống thường nhật, chúng ta thường gặp phải những cảnh huống và những sự
giao tiếp khiến làm bùng lên một số xúc cảm. Tôi nghĩ rằng các phản ứng trước
những rắc rối nhỏ nhặt (incidents triviaux / trivial incidents / những sự việc tầm
thường, không đáng quan tâm) là các nhân tố gây ra mọi sự bấn loạn,
bởi vì chúng chỉ mang lại sự hoang mang và làm cho tâm thức mất thăng bằng mà
thôi. Nếu các tư duy trắc ẩn, thấm đượm nhân từ luôn ngập tràn dòng luân lưu
của tâm thức mình, thì những thử thách trước đây vẫn thường kích động chúng ta
và tạo ra những phản ứng thật mạnh, sẽ không còn đủ sức đánh mất sự thăng bằng
của mình nữa, bởi vì nó đã được củng cố và thiết đặt trên một nền tảng vững
chắc.
Chia sẻ khổ đau với kẻ khác
Chúng ta thường nghĩ sai khi cho rằng lòng từ bi là một thứ
cảm tính thương hại và do đó khi nhìn vào người mà mình cảm thấy thương cảm thì
đồng thời mình cũng có thể tỏ lộ một chút khinh thị nào đó. Tôi nghĩ rằng như
thế không được đúng đắn lắm. Lòng từ bi đích thật chỉ có thể phát sinh khi nào
chúng ta quán nhận được là các chúng sinh khác cũng không khác gì với mình, tất
cả đều mong cầu đạt được hạnh phúc và tránh khỏi khổ đau, và cũng chỉ khi đó
thì sự thương cảm đích thật của mình mới có thể hiện ra khi trông thấy sự khổ
đau của kẻ khác. Đấy mới đúng là lòng từ bi đích thật. Chúng ta cảm thấy mình
mang một trách nhiệm đối với kẻ khác và một mối quan tâm sâu xa đến sự an lành
của họ. Tất nhiên điều này đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận một sự bình đẳng
hoàn toàn giữa họ và chúng ta. Chúng ta phải hoàn toàn tôn trọng ước vọng đạt
được hạnh phúc và vượt thoát khỏi khổ đau của họ, và thừa nhận quyền thực hiện
ước vọng đó của họ.
Khi suy tư sâu xa về khổ
đau của kẻ khác thì lòng từ bi sẽ hiện ra với mình hầu giúp mình biết chia sẻ
với họ những khổ đau đó của họ, thế nhưng tâm thức mình biết đâu cũng vì thế mà
có thể bị xao xuyến ít nhiều, đấy chẳng qua vì chúng ta cũng có thể tự hỏi:
"Phải chăng việc mở rộng lòng từ bi cũng là một cách rước thêm khổ đau cho
mình?" Vấn đề này quả thật là hết sức nghiêm trọng, do đó chúng ta cần
phải suy nghĩ thật chín chắn.
Theo tôi, trước hết có một sự khác biệt rất lớn giữa những
những đớn đau và bất hạnh mà mình cảm nhận được một cách tự nhiên vì đấy là
những gì phát sinh từ sự vướng mắc của chính mình trong chu kỳ hiện hữu, và
những đớn đau và bất hạnh của người khác mà mình cảm nhận được khi tự nguyện
chia sẻ những khổ đau ấy với họ. Đối với những đớn đau và khổ nhọc của riêng
mình thì mình cũng chỉ biết nhận chịu thế thôi và cũng chẳng biết phải tỏ lộ
thế nào. Chúng ta không chủ động được những kinh nghiệm mà chúng ta đang cảm
nhận. Trước những khổ đau của kẻ khác thì chúng ta cũng có thể bị dao động và
mất đi phần nào sự thăng bằng của mình, thế nhưng đấy là một sự tự nguyện mang
một mục đích rõ rệt, những khổ đau đó sẽ tạo ra những tác động khác hẳn trong
tâm thức mình. Chúng ta không bị tràn ngập bởi một thứ đớn đau hay khổ nhọc nào
cả, cũng không hề cảm thấy đấy là một gánh nặng đày đọa mình, mà trái lại chúng
ta cảm thấy một niềm hân hoan và tự tin hiện ra từ sức mạnh của chính mình.
Nếu muốn phát huy được một thể
dạng tâm thức thật mạnh với một giá trị tinh thần và những lợi ích thật lớn
chẳng hạn như lòng từ bi trên đây, thì không nên chỉ biết ngắm nhìn các cảnh
tượng khổ đau của người khác và xem như thế là đủ. Thật hết sức quan trọng là
trước hết phải nghĩ đến những khổ đau của chính mình và phải ý thức thật sâu xa
về tính cách tàn phá của những thứ khổ đau ấy. Y thức càng mạnh thì sẽ càng dễ
cho chúng ta phát lộ được sự cảm thương trước những khổ đau của kẻ khác.
Thông thường mỗi khi chúng ta
trông thấy cảnh tượng người khác đang phải gánh chịu những khổ đau quá mức, thì
lòng thương cảm của mình đối với họ cũng sẽ phát lộ một cách tự nhiên. Thế
nhưng nếu người ấy lại là một kẻ giàu có, quyền thế, bạn bè tấp nập xum xoe
chung quanh thì thay vì phát lộ lòng từ bi thì sự thèm muốn lại nổi lên (muốn được giàu
sang, quyền thế và có nhiều bạn bè chăm lo cho mình tương tự như người ấy).
Điều đó chứng tỏ rằng sự hiểu biết của mình về bản chất khổ đau nơi sự hiện của
con người chưa được sâu sắc lắm. Thật
hết sức thiết yếu là trước hết chúng ta phải phát huy được sự nhận thức sâu xa
về bản chất khổ đau của sự hiện hữu của chính mình (khi thấy được những khổ đau thật sâu kín
trong lòng mình thì mới biết thương người khác khi nhìn vào họ).
Thực thi từng bước một
Không phải chỉ có những thứ khổ
đau lộ liễu mới là những gì đau xót mà mình không muốn, mà còn có những thứ khổ
đau khác không kém phần nặng nề do vô thường tạo ra (mong muốn những gì đổi thay phải trường tồn),
và nhất là sự khổ đau cùng khắp của sự hình thành trói buộc (conditioning
production / khổ đau của sự hình thành là: già nua, bệnh tật và cái chết).
Do đó thật hết sức quan trọng là phải bước từng bước một trên con đường bằng
cách phối hợp giữa hai phép thiền định là sự phân giải và sự tập trung tâm thần
(hai phương pháp
thiền định chính yếu nhất của Phật Giáo). Trong phạm vi mà lòng từ
bi được xem như là một phẩm tính của tâm thức và tâm thức thì được xem như hàm
chứa một dòng luân lưu bất tận, thì nếu bước theo con đường trong một thời gian
lâu dài bằng cách phối hợp hai phép thiền định trên đây, thì tất chúng ta sẽ
phải đạt được một căn bản vững chắc trong việc tu tập của mình (cũng xin lưu ý là
không nên sợ hãi khi nghe nói đến việc thiền định phân giải và tập trung. Thật
sự ra thì đấy cũng chỉ là một "cách sống trong sự tinh khiết": thí dụ
như không đọc chuyện nhảm nhí, không xem bất cứ thứ gì vô bổ trên màn ảnh
truyền hình, vứt ngay những đĩa DVD gồm những phim truyện tràng giang vào sọt
rác, không nghe nhạc "trữ tình" hay kích động, không chơi các trò
chơi điện tử, không mưu đồ tính toán những chuyện làm ăn và tiền bạc..., tóm
lại là không đánh mất một giây phút quý báu nào trong kiếp sống phù du của
mình. Trái lại phải nghĩ đến cha mẹ mình, thương yêu những người chung quanh,
nhìn vào những khổ đau và khó khăn của họ, luôn nghĩ đến những lời giảng dạy
của Đức Phật, canh chừng từng hành động và lời nói của mình, ý thức từng động
tác của chân tay, ý thức được từng tư duy và xúc cảm hiện ra trong đầu mình...,
hoặc chỉ cần đơn giản ngắm nhìn một cọng cỏ nghiêng theo chiều gió, một con sâu
đang gặm một chiếc lá non... Đấy là những bước đầu cụ thể của một người tu tập
giúp mình phát động sự chú tâm cần thiết để bước vào con đường thiền định phân
giải để tìm hiểu sâu xa hơn về bảnh chất của thế giới này).
Sự luyện tập chuyên cần có thể giúp cho căn bản vững chắc trên
đây trở thành như một thành phần của chính tâm thức. Đối với những người tin
vào sự tái sinh thì cứ nhìn vào hai đứa bé sinh ra trong cùng một gia đình thì
tất sẽ thấy ngay đấy là những gì mà cả hai thừa hưởng từ quá khứ. Dù mang thân
xác mới mẻ, thế nhưng dòng tri thức của hai đứa bé là một dòng luân lưu kéo dài
từ quá khứ sang kiếp sống hiện tại.
Trái lại, các phẩm tính mang lại từ sự luyện tập thể dục thì
chỉ liên hệ đến phần thân xác, và mức độ phát triển của chúng cũng không thể
vượt quá một giới hạn nào đó. Chẳng hạn như một lực sĩ dù cho tài giỏi đến đâu
thì cũng không thể nhảy cao hơn kỷ lục của chính mình. Hơn nữa các phẩm tính ấy
cũng chỉ có thể phát lộ được khi nào các điều kiện thân xác còn duy trì được
nguyên vẹn. Các phẩm tính đó dầu sao cũng không thể giữ lại sang kiếp sống
tương lai. Trái lại các phẩm tính phát sinh từ tâm thức sẽ tồn tại lâu dài hơn.
Chính vì thế nên lòng từ bi, tình thương và sự hiểu biết siêu
nhiên về Tánh Không có thể phát huy rộng lớn được nhờ vào sự rèn luyện tâm
thức. Khi đã quen luyện tập thì chúng ta cũng có thể phát huy các phẩm tính ấy
đến những cấp bậc thật cao. Dầu rằng ngay từ lúc khởi sự phải phát động thật
nhiều nghị lực, thế nhưng khi đã đạt được một cấp bậc nào đó thì sự luyện tập
sẽ trở nên tự nhiên và dễ dàng hơn, và sẽ mang lại cho mình sự hăng say muốn đi
xa hơn nữa. Lúc ấy sẽ không còn phải cố gắng gì nữa cả. Chính vì thế nên chúng
ta có thể bảo rằng các phẩm tính ấy là những gì có thể phát huy đến vô tận (tức là đạt được
thể dạng của một vị Phật: từ bi, tình thương và sự hiểu biết siêu nhiên về Tánh
Không).
Nếu chúng ta ngưng việc luyện tập thể dục trong một thời gian
thì sau đó phải khởi sự lại từ đầu mới có thể tìm lại được cấp bậc mà mình đã
đạt được trước đây. Ngược lại, khi nào đã phát huy được các phẩm tính tâm thức
ấy ở một mức độ mà chúng có thể phát lộ một cách tự động (tức là đã trở thành thành phần của tâm thức,
và không phải chỉ là một cách hình dung hời hợt) thì dù chúng ta có
đặt chúng sang một bên trong một thời gian thật lâu thì sau đó cũng chỉ cần ôn
tập sơ qua cũng đủ để đưa các phẩm tính ấy trở lại các cấp bậc mà chúng ta đã
thực hiện được trước đây. Sở dĩ có sự khác biệt giữa hai thể loại phẩm tính
trên đây là vì các cơ sở chuyển tải chúng thuộc vào hai lãnh vực khác nhau: thể
xác và tâm thần.
Những gì trên đây cho thấy tại sao việc phát huy tâm thức lại
có thể thực hiện được xuyên qua nhiều kiếp sống liên tiếp. Dù chúng ta không
đạt được những tiến bộ khả quan trong kiếp sống này, thế nhưng các phẩm tính đã
đạt được sẽ tồn lưu và khởi động lại trong tương lai.
Nếu muốn phát huy tiềm năng của lòng từ bi đến một
cấp bậc tối thượng thì việc thực hiện Tánh Không sẽ thật hết sức là cần thiết. Chỉ
cần dựa vào các kinh nghiệm cá nhân thì chúng ta cũng có thể nhận thấy thật dễ
dàng rằng mỗi khi tâm thức rơi vào tình trạng hoang mang, do dự và u mê thì mỗi
phút giây dù thật thật ngắn ngủi trong cuộc sống cũng sẽ mang đầy khổ đau và
đọa đày. Khi tâm thức ngập tràn trí tuệ và sự hiểu biết thì ngay cả những thử
thách lớn lao phải đối phó cũng sẽ không phải là những gì khiến cho chúng ta
cảm thấy là mình phải sống trong sự đọa đày. Vì thế thật hết sức quan trong là
phải tăng cường trí tuệ bằng cách phát huy sự hiểu biết Tánh Không. Nếu muốn
thực hiện được điều đó thì nhất thiết phải học hỏi kinh sách, chẳng hạn như tập
Hành Trình đến Giác Ngộ này của Tịch
Thiên.
BÌNH GIẢI
Phủ nhận các quan điểm ngoài Phật Giáo về
"cái tôi" hay "cái ngã"
Chúng ta hãy trở lại vấn đề Tánh Không hay là
"không-có-cái-tôi" của con người và xem cách Tịch Thiên bác bỏ các
quan điểm về "cái tôi" của hai học phái triết học Ấn độ ra sao. Học
phái thứ nhất là Samkhya xem "cái tôi" như một thứ tri thức tự chủ và
độc lập, và học phái thứ hai là Vaisheshika xem "cái tôi" là một thực
thể vật chất, tự chủ và độc lập (chủ trương vật chất và cả "cái tôi" được tạo
thành bởi sự kết hợp của các hạt "nguyên tử"). Sự phủ nhận
hai quan điểm này sẽ được trình bày trong các tiết từ 60 đến 69.
Tuy không đi sâu vào chi tiết về sự
phủ nhận "cái tôi" theo các quan điểm của các học phái ngoài Phật
Giáo, thế nhưng tôi thiết nghĩ cũng nên giải thích sơ qua về bối cảnh mà các quan điểm đó đã được hình
thành. Phần chính yếu nhất trong chủ thuyết về "cái tôi" do các người
thuộc học phái Samkhya cổ xúy là một hệ thống phân loại hiện thực thành hai
mươi lăm thể loại, trong số này hai mươi ba thể loại là những biểu hiện của một
trong hai thể loại còn lại gọi là chất liệu nguyên thủy (substance primitive /
original substance) hay Nguyên Lý Sáng Tạo (Principe Créateur / Creative Principle), và thể loại
sau cùng là "cái tôi", được hình dung như một thứ tri thức nhận biết,
hàm chứa một thực thể tự chủ. Hai mươi ba thể loại được xem như những thể dạng
"thụ hưởng" (jouissance / enjoyment) của "cái tôi". Theo
những người thuộc học phái Samkhya thì cho đến khi nào chưa đạt được sự giác ngộ,
chúng ta vẫn chưa có thể ý thức được là
tất cả những thể loại trên đây đều phát sinh từ Nguyên Lý Sáng Tạo, và cũng có
nghĩa là chúng ta vẫn còn vướng mắc trong thế giới nhị nguyên và đa dạng. Tuy
nhiên, theo họ thì khi nào chúng ta đã hiểu được các thể loại ấy thực ra chỉ là
những biểu hiện của Nguyên Lý Sáng Tạo thì "cái tôi" sẽ được giải
thoát và thế giới nhị nguyên của các biểu hiện bên ngoài cũng sẽ biến mất. Sự
phủ nhận nhắm vào Nguyên Lý Sáng Tạo của học phái Samkhya - được định nghĩa như
là một thể dạng thăng bằng giữa ba sức mạnh: trung hoà, tích cực và tiêu cực -
sẽ được trình bày trong một phân đoạn sau. Trong các tiết đang được bàn thảo
này sẽ chỉ nói đến cách phủ nhận khái niệm về "cái tôi" do Tịch Thiên
đưa ra.
Theo những người thuộc học phái
Samkhya, "cái tôi" là một chủ thể giữ vai trò cảm nhận sự đau đớn và
thích thú: chính vì lý do đó nên người ta bảo rằng nó "thụ hưởng" (jouir / enjoy). Nó không hề được sinh ra và
cũng không chết, chính vì thế nên nó mang tính cách trường tồn. Bởi vì nó không
phải là kẻ sáng tạo ra bất cứ một biểu hiện nhị nguyên và đa dạng nào nên nó
hoàn toàn trống không về mọi chức năng. Vì lý do nó không hàm chứa các phẩm
tính thuộc ba thể dạng căn bản - trung hoà, tích cực và tiêu cực - nên nó không
hề vướng mắc vào các đặc tính này, không như trường hợp của Nguyên Lý Sáng Tạo (hàm chứa các đặc
tính ấy). Nó không giữ một chức năng đặc biệt nào cả. Vì mang đặc
tính hiện hữu cùng khắp (omnipresence) nên nó cũng không đảm trách một chức
năng đặc biệt nào cả. Từ bản chất nó biết "ý thức". Vì mang bản chất
không thể bị chia cắt nên nó là một thực thể độc nhất (réalité Une / reality
One), vô tận và không giới hạn: đây là định nghĩa về "cái tôi" của
học phái Samkhya (một
vài người đọc chưa quen với triết học siêu hình không nên hoang mang khi đọc
đoạn tóm lược quan điểm về "cái tôi" của học phái Samkhya trên đây,
mà chỉ cần hiểu "đại khái" đấy chỉ là những biện luận vô căn cứ mang
tính cách tưởng tượng đơn thuần, nếu không muốn nói là khôi hài, đầy phi lý và
mâu thuẫn). Trong các tiết sau đây Tịch Thiên sẽ nêu lên những điểm
mâu thuẫn trong khái niệm này. Nói như thế để hiểu rằng sẽ không phải là một
chuyện đáng ngạc nhiên khi quý vị nhận thấy có nhiều học giả người Ấn ngoài
Phật Giáo đưa ra đủ mọi thứ luận cứ để bênh vực quan điểm của họ! (văn hóa Ấn Độ nói
chung rất phong phú và sâu sắc trên phương diện "tâm linh", do đó
cũng không thiếu những sự biện luận siêu hình thật đa dạng, và sự đa dạng đó sẽ
khó tránh khỏi những khía cạnh "tưởng tượng" và những sự "tự
biện" chủ quan. Ấn Giáo chịu ảnh hưởng rất nặng nề từ nền "văn
hóa" đó).
Các tiết nói đến trên đây nêu lên một
sự giả định như sau: nếu tri thức thính giác (conscience du son / awareness of sound / tri
thức nhận biết được âm thanh) là "cái tôi" trường tồn, thì
những người Samkhya làm thế nào có thể xác nhận được là nó mang một chức năng
nhận biết?
Tiết 60. Nếu như tri thức thính giác là
trường tồn thì âm thanh phải được nhận biết liên tục (âm thanh kéo dài vô tận vì tri thức
"nhận biết" nó trường tồn tức là kéo dài bất tận). Mặt khác,
nếu không có đối tượng của sự cảm nhận thì làm thế nào có thể nói đến tri thức được?(tri thức chỉ hiện
hữu khi nào có một đối tượng cho nó cảm nhận, trong phạm vi đó nếu nó
"trường tồn", tức là theo quan điểm của học phái Samkhya, thì đối
tượng cũng bắt buộc phải trường tồn để nó có thể liên tục hiện hữu: thí dụ tri
thức thính giác sẽ nghe thấy âm thanh kéo dài bất tận).
Tiết 61. Nếu người ta có thể gán một tri
thức cho một thứ gì không có đặc tính hiểu biết thì một khúc củi cũng có thể
mang khả năng "ý thức". Và đấy chính là cách xác nhận sự kiện là nếu
không có đối tượng được nhận biết thì cũng sẽ không có tri thức.
Làm
thế nào chúng ta có thể gán cho "cái tôi" phẩm tính hiểu biết? Vì như
thế đương nhiên là cách xem "cái tôi" là tri thức thính giác; âm
thanh tất sẽ phải được nhận biết một cách thường xuyên. Mặt khác, nếu chúng ta
chấp nhận là sự nhận thức có thể có ngay cả trong trường hợp không cần phải có
đối tượng của sự nhận thức - chẳng hạn như âm thanh - thì một thanh củi cũng có
thể có tri thức. Như thế thì cũng phải chấp nhận rằng nếu không có đối tượng của
sự nhận thức thì cũng sẽ không có sự nhận thức (cách lập luận nêu lên sự
mâu thuẫn trong quan điểm của học phái Samkhya về "cái tôi" trường
tồn thật hết sức tinh tế và siêu việt). Tích Thiên lại phát biểu thêm:
Tiết 62.
(quan điểm Samkhya) Nếu không có âm thanh thì tri thức ấy có thể nhận biết được
hình tướng.
(quan
điểm Trung Quán) Vậy thì tại sao nó lại không tiếp tục nghe? (xin lập lại lập luận của tiết 60 trên
đây: nếu tri thức thính giác mang tính cách trường tồn thì nó phải liên tục
nghe thấy âm thanh, thế sao nó lại không tiếp tục nghe mà lại nhận thấy hình
tướng).
Tiết
63,64. Nếu những gì mang bản chất nhận biết được âm thanh thì làm thế nào lại
có thể nhận biết được hình tướng?
(quan điểm Samkhya) Chỉ là một người duy
nhất thế nhưng có thể hình dung người ấy vừa là một người cha vừa là một người
con (đây là
một cách lập luận "lạc đề" vì không thuộc cùng một lãnh vực so sánh).
(quan
điểm Trung Quán) Đồng ý, thế nhưng đấy không phải là bản chất tối hậu của nó.
Mặt khác, khái niệm cha con chẳng liên hệ gì đến chủ thuyết của quý vị về ánh
sáng (sattva), sự sinh hoạt (rajas) và bóng tối (tamas) (người đọc chỉ cần
hiểu đây là một sự mâu thuẫn giữa sự bào chữa của những người Shamkhya và giáo
lý do họ đưa ra). Người ta chưa bao giờ quan sát thấy một tri thức hình
tướng lại có thể nhận biết được âm thanh (xin nhắc lại là đối với Phật Giáo thì có sáu
thể loại tri thức: tri thức thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác,
và tri thức tâm thần, mỗi tri thức giữ một chức năng riêng biệt).
Tiết 65. (quan điểm Samkhya) Tri thức thính
giác nhận biết được hình tướng bằng một thể dạng khác của nó: tương tự như một
diễn viên thay đổi vai trò.
(quan điểm Trung Quán) Trong trường hợp đó
nó sẽ không trường tồn (nếu tri thức giữ nhiều vai trò hay có nhiều khả năng thì
tất nó phải là một sự cấu hợp, và đã là một sự cấu hợp thì nó sẽ không trường
tồn).
(quan
điểm Samkhya) Tại sao lại không, nó vẫn chỉ là một, thế nhưng nó hiện ra dưới
một hình thức khác.
(quan điểm Trung Quán) Quả thật là một thứ
"nhất thể" chưa hề có!
Tiết 66. (quan điểm Samkhya) Các thể dạng
khác biệt ấy không hàm chứa một thực thể nào.
(quan điểm Trung Quán) Vậy thì hãy nói cho
chúng tôi biết bản chất đích thật của nó là gì?
(quan điểm Samkhya) Đấy là khả năng nhận
biết (được
các thể dạng khác nhau).
(quan diểm Trung Quán) Trong trường hợp đó
tất cả chúng sinh cũng chỉ mang một thể tính duy nhất và hoàn toàn giống nhau
hay sao! (có
nghĩa là mỗi chúng sinh không thể có một
"cái tôi" giống nhau giúp nhận biết được tất cả).
Tiết 67. Hơn nữa, sự linh hoạt (animé / animate,
tức là bản chất linh hoạt của tri thức, học phái Shamkhya gọi bản chất này là
purusha) và thể dạng không-có-sinh-khí (inanimé / inanimate / không có sinh khí, vô
tri giác, tức có nghĩa là phần vật chất nguyên thủy, học phái Samkhya gọi thành
phần này là prakriti) chỉ là một, bởi vì chúng hiện hữu chung với nhau.
Nếu các thể dạng khác nhau của tri thức được
xem là không thật (tiết 66), vậy thì cơ sở đích thật chung của chúng là
gì?
(một cách vắn tắt là các tiết trên đây cho thấy Tịch Thiên
nêu lên tính cách mâu thuẫn và phi lý trong chủ thuyết của học phái Samkhya về
sự hiện hữu của "cái tôi")
Dưới đây là cách phủ nhận
chủ thuyết về "cái tôi" của học phái Vaisheshika. Theo chủ thuyết này
thì "cái tôi" là một chất liệu vật chất phi-sinh-khí (inanimé
/ inanimated / bất động, không linh hoạt, dưới thể dạng các hạt "nguyên
tử").
Tiết
68. (quan điểm Trung Quán) "Cái tôi" hay atman, không thể bất động
được, bởi vì bất động tức là không có tri thức, tương tự một cái bình.
(quan
điểm Naiyayika) Nó sẽ trở thành tri thức (consciousness) sau khi kết hợp với
tâm thức (spirit) (Naiyayika và Vaisheshika là hai học phái triết học của Ấn Giáo
cùng chủ trương các quan điểm và cách lập luận dựa vào tam đoạn luận khá tương
tự nhau).
(quan
điểm Trung Quán) Vậy thì đặc tính không tri thức (phi-sinh-khí) của nó sẽ phải bị hủy
hoại (không
tồn tại được).
Tiết
69. Nếu "cái tôi" bất biến (immuable / immutable, unalterable / trường tồn), vậy
thì tri thức sẽ tạo ra nhũng hậu quả nào (tác động như thế nào) đối với chính
nó? Thế ra người ta cũng có thể xem một không gian vô thức và phi-sinh-khí
(inert) là phẩm tính của cái tôi à!
Sự liên tục của một "cái tôi" quy ước
Phần trình bày ngắn gọn sau đây, gồm các tiết từ 70 đến 77, sẽ nêu lên các cách phản biện
của Tịch Thiên nhằm bác bỏ các quan điểm không thừa nhận sự trống không của
"cái tôi", và một trong các quan điểm ấy là nếu cho rằng "cái
tôi" không có thì có phải là quy luật nhân quả cũng sẽ không gây ra được
một tác động nào hay không? Đấy cũng là quan điểm chung do các học phái ngoài
Phật Giáo nêu lên nhằm phản kháng lại sự bác bỏ của những người Trung Quán về
khái niệm hiện hữu của một "cái tôi" do các học phái ấy chủ trương.
Tiết 70. Thế nhưng, người ta vẫn bảo rằng
nếu không có cái tôi thì sự tương liên giữa hành động và hậu quả tất sẽ không
thể nào xảy ra được. Nếu chủ thể của hành động biến mất sau khi thực thi hành
động ấy, thì ai sẽ nhận lảnh hậu quả? (vấn đề này được Phật Giáo giải thích trong nhiều kinh sách,
một trong số các kinh này là Ni Lan Đà Vấn Kinh / Nilanda Panha. Ngũ uẩn của
một cá thể dù luôn chuyển động và đổi thay thế nhưng vẫn giữ một sự liên tục
nào đó).
Điểm chính yếu nhất nêu lên trong cách lập luận trên đây là:
nếu chúng ta không chấp nhận ý kiến cho rằng một "cái tôi" trường tồn
và bất biến thì ai sinh ra từ một sự hiện hữu trước đây để trở thành sự hiện
hữu hiện tại, và để tiếp tục kéo dài sự tiếp nối liên tục đó trong tương lai.
Do đó ngay cả đối với một kiếp sống duy nhất chúng tôi cũng không hề thấy có
một sự liên quan nào giữa một người tạo nghiệp và một người nhận lãnh hậu quả
do những nghiệp ấy mang lại. Nếu không có "cái tôi" thì làm thế nào
chúng ta có thể xem hai cá thể (tạo nghiệp và nhận lãnh hậu quả của nghiệp) là
một người duy nhất? Và nếu như hai cá thể không phải là một người duy nhất thì
các nguyên tắc căn bản của quy luật nhân quả sẽ trở thành mâu thuẫn.
Theo nguyên tắc của quy luật nhân quả, thì không thể bắt bất
cứ ai phải gánh chịu hậu quả của những hành động tạo nghiệp không phải là do
mình thực thi. Nói cách khác là mỗi cá thể không sao tránh được các hậu quả
mang lại từ các hành động tạo nghiệp do mình thực thi, trừ phi các hậu quả ấy
đã bị hóa giải bằng cách này hay cách khác, trước khi chúng có thể phát lộ ra.
Do đó nếu người tạo nghiệp và người gánh chịu hậu quả là hai người khác biệt
nhau thì luật nhân quả sẽ không còn giá trị gì nữa cả.
Nhằm để chống lại sự bài bác trên đây Tịch Thiên đưa ra các
tiết như sau:
Tiết 71. Chúng tôi đồng ý về điểm đó khi cho
rằng hành động và hậu quả mang các nền tảng chống đỡ (support / nền tảng hay cơ sở chuyển tải)
khác nhau. Thế nhưng nếu quý vị lại cho rằng "cái tôi" bất động, thì
sự tranh luận sẽ trở thành vô ích.
Tiết 72. Không thể nào nhìn thấy quả khi
nguyên nhân vẫn còn (nguyên nhân phải chuyển động và biến đổi để sinh ra quả, và
sau đó quả cũng sẽ chuyển động và trở thành một nguyên nhân khác). Nếu
bảo rằng tác giả thực thi hành động cũng sẽ chính là người nhận lãnh quả thì
đấy cũng là cách hình dung ra một chuỗi tiếp nối liên tục của các hiện tượng (nếu các hiện tượng
xảy ra liên tục và không hề tạo ra quả, và quả cũng không trở thành nguyên
nhân, thì thế giới sẽ phải trở thành một sự "phẳng lì" nào đó, cái
tôi và các hiện tượng sẽ trở nên bất động. Giữa hành động và hậu quả phải có
một sự đổi thay, "chủ thể hành động" sẽ biến đổi để trở thành
"chủ thể tiếp nhận" kết quả do hành động của mình tạo ra trước đây).
Nói một cách khác, hành động tạo nghiệp là nhân, và những gì
sinh ra từ nhân là hậu quả. Tuy nhiên, trên phhương diện thời gian thì thể tính
(identity) của một người thực thi một hành động nào đó trong quá khứ không có
cùng một thể tính với một người nhận chịu hậu quả mang lại từ hành động ấy. Một
thể tính hiện hữu vào một thời điểm nhất định nào đó, và một thể tính khác vào
một thời điểm khác (thuở ấu thơ tôi đi học, ngày nay tôi biết đọc và biết viết.
Ngày bé dốt nát và lười biếng bị thầy đánh sưng cả hai tay nên tôi rất oán hận
thầy tôi. Ngày nay tôi viết được những dòng chữ này nên mỗi khi nghĩ lại thì
tôi lại thấy thương thầy tôi. "Tôi" vẫn là "Tôi", thế nhưng
"thể tính" của một "đứa bé" ghét thầy giáo và "thể
tính" của một người "lớn tuổi" thương thầy dạy mình học thuở ấu
thời khác nhau và cả hai hiện hữu vào những thời điểm khác nhau).
Giữ nguyên một thể tính xuyên qua thời gian là một sự mâu thuẫn
đối với tập quán (conventions
/ thói quen, các quy ước hay tập quán xã hội, sự hiểu biết và các quan niệm phổ
quát) và các kinh nghiệm thông thường của chúng ta. Mối dây liện hệ
kết hợp hai cá thể (chẳng hạn như giữa một đứa bé và một người lớn, hay là giữa
một cá thể thực thi hành động và một cá thể nhận lảnh hậu quả) nhằm
tạo ra một người duy nhất không hề bị đứt đoạn, bởi vì cả hai cá thể ấy cùng
chia sẻ (thừa
hưởng chung) một dòng luân lưu liên tục của sự hiện hữu. Dù rằng con
người biến đổi trong từng khoảnh khắc một thế nhưng dòng luân lưu căn bản vẫn
tồn tại (vẫn chỉ
là một).
Chúng ta hãy đưa ra thí dụ về dòng luân lưu liên tục của chính
thân xác mình. Nếu nhìn dưới khía cạnh sinh học thì chúng ta sẽ thấy là tất cả
các tế bào của thân thể mình không còn đúng là các tế bào trước đây khi mình
còn trẻ. Sự thay đổi đó của các tế bào cho thấy là thân thể mình đã hoàn toàn
đổi mới. Tuy nhiên chúng ta có thể bảo rằng sự đổi mới ấy cũng chính là quá
trình đưa chúng ta đến sự già nua. Những gì xinh đẹp và hấp dẫn của những ngày
còn trẻ đã trở nên nhăn nheo và kém đi sự lôi cuốn. Dầu sao, trong lãnh vực của
thuật ngữ gọi là dòng tiếp nối liên tục (continuum) thì đấy vẫn là một thân thể
duy nhất. Chính nhờ thế mà chúng ta có thể bảo rằng: "Ngày còn trẻ tôi đã
từng được đọc quyển sách này hay quyển sách kia".
Chúng ta hãy cứ lấy thí dụ cho rằng mỗi cá thể đều giữ nguyên
một thể tính trên dòng tiếp nối liên tục của tâm thức xuyên qua thời gian, thì
trong trường hợp đó tất chúng ta sẽ có thể quay ngược lại thật xa trên dòng
tiếp nối liên tục đó (câu này có nghĩa là nếu chúng ta không thay đổi gì cả thì
nếu ngược về quá khứ chúng ta cũng cứ giữ một "cá tính" hay
"tính tình" giống như hiện nay, hay nói một cách khác là "con
người" của mình trong quá khứ cũng
sẽ giống hệt với "con người" của mình đang trong lúc này. Chuyện đó
không thể xảy ra được, bởi vì sinh ra trong một thời đại khác, thừa hưởng một
giáo dục khác, một nền văn minh khác..., "con người" của mình trong
quá khứ không thể nào có thể giống như đúc với con người của mình hiện nay.
Nghiệp và môi trường sống khiến cho mình sẽ phải biến đổi đi, dù là theo chiều
hướng này hay chiều hướng khác). Trong trường hợp nếu phát động được
một sự tỉnh thức thật cao độ thì chúng ta cũng có thể nhớ lại được những kiếp
trước của mình và có thể thốt lên chẳng hạn như: "Trước đây khi tôi còn là
người này hay người kia thì (trong kiếp sống ấy) tôi đã được sinh ra tại nơi
ấy", và trong trường hợp đó chúng ta có thể hình dung ra sự tiếp nối liên
tục của một nhân dạng duy nhất qua một bối cảnh thời gian to rộng hơn (thay vì chỉ giới
hạn trong một kiếp sống duy nhất: từ trẻ thơ, trưởng thành và già nua).
Nhờ dựa vào nền tảng của sự tiếp nối liên tục đó của tri thức nên chúng ta có
thể hình dung ra sự nối kết giữa nghiệp và hậu quả do nó tạo ra (câu trên đây rất
quan trọng: nghiệp lưu lại những dấu vết trên dòng luân lưu của tri thức, hậu
quả cũng sẽ phát sinh chính trên dòng luân lưu đó, có nghĩa là nghiệp và hậu
quả chỉ liên hệ đến một dòng luân lưu duy nhất, biểu trưng cho một cá thể duy
nhất. Thí dụ ta đi ra đường và va đầu vào một cột đèn. Sở dĩ ta va đầu vào cột
đèn và bị đau điếng là vì mãi nhìn một phụ nữ hao hao giống một người bạn gái
của mình thuở còn trẻ, hoặc mãi nhìn quần áo đẹp bày trong tủ kính của một cửa
hàng, hoặc đang nghĩ ngợi, lo buồn hay
cảm thấy bất an trong lòng chẳng hạn. Ta va đầu không phải là do ma quỷ
xô mình vào cột đèn hay một sức mạnh thiêng liêng nào trừng phạt mình, mà thật
ra trong cả ba trường hợp đều là do nghiệp tác động. Chiếc cột đèn hoàn toàn là
một vật vô tri và bất động, nó chỉ "hiện ra" như một cơ duyên trùng
hợp với các tác động của nghiệp đang chi phối mình. Tóm lại là nghiệp sinh ra
từ tâm thức mình, tác động bên trong tâm thức, làm phát sinh ra các xung năng
và tác ý bên trong tâm thức, xung năng và tác ý kết hợp với bối cảnh bên ngoài
mang lại hậu quả một cách cụ thể: trán bị xưng to và bầm tím. Tuy nhiên đôi khi
hậu quả cũng không phát lộ hẳn ra bên ngoài một cách cụ thể như trường hợp trên
đây, mà chỉ phối hợp với tư duy nhằm mang lại những xúc cảm như lo âu, sợ hãi,
hoặc hân hoan và hạnh phúc... bên trong tâm thức mình).
Đối với những người Trung Quán, chẳng hạn như Tịch Thiên, thì
không hề có "cái tôi" hay "cái ngã" hàm chứa một sự hiện
hữu nội tại nào; "cái tôi" chỉ được xem như một danh xưng quy ước.
Căn cứ vào cách nhìn đó chúng ta có thể hình dung "cái tôi" dưới
nhiều khía cạnh (aspect,
facet) khác nhau, chẳng hạn như khi nói đến "cái tôi"
thuộc một kiếp sống trước, và "cái tôi" ấy thì lại cũng là chính
"cái tôi" trong kiếp sống hiện tại. Chúng ta có thể nêu lên một nhân
dạng nào đó, thí dụ như nói đến một "cái tôi" Tây Tạng, tức có nghĩa
là một "cái tôi" mang các đặc tính nhân chủng, hoặc cũng có thể bảo
đấy là "cái tôi" của một người tu hành đã được thụ phong tỳ kheo, và
cứ tiếp tục như thế (tất cả chỉ là những danh xưng, do đó chúng ta có thể sử
dụng thật nhiều danh xưng khác nhau để chỉ định cùng một đối tượng).
Tóm lại chỉ cần một nhân dạng duy nhất thế nhưng chúng ta cũng có thể nêu lên
thật nhiều khía cạnh khác nhau về "cái tôi" của nhân dạng ấy. Một cá
thể duy nhất cũng có thể được chỉ định như là: một con người, một người Tây
Tạng, một người Phật Giáo, một nhà sư đã được thụ phong..., và cứ tiếp tục như
thế. Mặc dù các khía cạnh khác biệt ấy của "cái tôi" đều thuộc chung
một cá thể duy nhất, thế nhưng chúng có thể không hiển hiện ra cùng một lúc.
Thể tính của những "cái tôi" ấy biến chuyển theo từng bối cảnh và
từng cảnh huống khác nhau.
Do đó mỗi khi nói đến dòng tiếp
nối "liên tục" của "cái tôi" thì chúng ta có thể bảo rằng
"cái tôi", theo một cách hiểu nào đó, mang tính cách trường tồn và vô
tận, mà không hề gây ra mâu thuẫn với quan điểm cho rằng "cái tôi"
biến đổi liên tục trong từng giây phút một. Thế nhưng khi nhìn vào chuỗi
"biến đổi" liên tục ấy (tức "cái tôi" biến đổi trong từng giây phút một)
thì chúng ta cũng có thể bảo rằng "cái tôi" chỉ mang tính cách giai
đoạn và vô thường. Do đó cả hai cách hiểu trên đây không gây ra một chút mâu
thuẫn nào: nếu cái tôi thuộc vào phạm vi của dòng luân lưu liên tục của nó thì
nó mang tính cách trường tồn, nếu thuộc vào phạm vi của sự hiện hữu nhất thời
trong từng khoảnh khắc thì nó là vô thường.
Tâm thức có phải là "cái tôi" hay không?
Trong phạm vi mà những người Trung Quán chấp nhận "cái
tôi" như là một tên gọi liên quan đến một tổng thể gồm thân xác và tâm
thức, thì có phải "cái tôi" ấy cũng có thể được nhận diện như là tâm
thức hay không? Có một số học phái triết học Phật Giáo sau khi phân tích
"cái tôi" dưới tất cả mọi khía cạnh đã quả quyết rằng tri thức chính
là "cái tôi". Chẳng hạn như trong tập luận Ngọn Đèn Của Sự Hiểu Biết (Prajnapradipa / kinh sách gốc Hán gọi là Bát Nhã Đăng Luận)
vị đại sư người Ấn là Thanh Biện (Bhavaviveka) có nói rằng dòng tiếp
nối liên tục của tri thức tâm thần (ý nói đến tri thức
thứ sáu, hay là thành phần tri thức cao nhất trong số sáu thành phần trí thức
thuộc ngũ uẩn) chính là "cái tôi". Những người Trung Quán
- Cụ Duyên Tông (Madhyamika-prasangika) lại không chấp nhận quan điểm đó, bởi
vì theo họ trong số tất cả các cơ sở chỉ định không có một cơ sở nào có thể
được xem như "cái tôi" hay là một con người nào cả, kể cả dòng tiếp
nối liên tục (continuum) hay tri thức (consciouness).
Tịch Thiên nêu lên thí dụ sau đây: nếu chúng ta bắt buộc phải
chấp nhận tri thức như là "cái tôi" thì chúng ta sẽ phải chọn lựa như
thế nào?
Tiết 73. Tư
duy thuộc quá khứ hay (sẽ xảy ra trong) tương lai đều không phải là "cái
tôi", bởi vì chúng không hề hiện hữu (tư duy quá khứ đã chấm đứt, tư duy tương lai
chưa xảy ra). Vậy tư duy hiện tại có phải là "cái tôi"
hay không? Thế nhưng nếu tư duy ấy (tức là tư duy hiện tại) biến đi, thì
tất "cái tôi" cũng sẽ không còn nữa. (Nếu cho rằng sự suy nghĩ trong đầu mình là
"cái tôi" của mình, thì "cái tôi quá khứ" không còn nữa,
"cái tôi tương lai" chưa có và "cái tôi trong hiện tại"
đang biến mất, vậy cái tôi trường tồn, bất biến sẽ phải là cái tôi nào?)
Vậy trong số các tri thức như:
tri thức thuộc quá khứ, tri thức sắp hiện ra trong tương lai và tri thức hiện
tại, thì tri thức nào sẽ là "cái tôi"? Tri thức quá khứ đã chấm dứt,
tri thức tương lai thì chưa xảy đến. Nếu tri thức trong khoảnh khắc hiện tại là
"cái tôi" thì nó chỉ có tính cách nhất thời, khi nó chấm dứt hiện hữu
thì "cái tôi" hay con người (tức nhân dạng) cũng chấm dứt hiện hữu. Cũng
tương tự như thế, nếu tri thức là "cái tôi" thì khái niệm về chủ thể
và đối tượng cũng sẽ không thể nào đứng vững được (tri thức chỉ có thể hiện hữu như là một chủ
thể khi có một đối tượng - trong trường hợp này là "cái tôi" - để nó
nhận biết, thế nhưng nếu nó lại chính là "cái tôi" thì sẽ không còn
có "cái tôi" làm đối tượng cho nó nhận biết nữa, và trong trường hợp
ấy sẽ không có chủ thể và đối tượng. Một cách nôm na và dễ hiểu: nhờ tri thức
nên chúng ta biết được mình có "linh hồn", thế nhưng nếu bảo rằng tri
thức là "linh hồn" của chính mình, tức có nghĩa là "linh
hồn" và "tri thức" cũng chỉ là một thứ, thế thì "cái
gì" nhận biết là mình có cái "linh hồn"của mình. Tất nhiên là
cách lập luận cho rằng chủ thể là "tri thức" và đối tức tượng là
"linh hồn" không thể đứng vững được, nói cách khác là nếu xem
"tri thức" là "linh hồn" của mình là một điều phi lý).
Hơn nữa, có thể nói rằng không có một sự liên hệ nào cả giữa "cái
tôi" và tri thức (tri thức là thành phần của ngũ uẩn liên quan đến sự vận
hành chung của toàn bộ năm thứ cấu hợp, nó không dính dáng gì với cái tôi hay
"linh hồn" cả) bởi vì sau khi phân tích đến tận cùng thì
tri thức cũng chỉ là con người (la personne / a person, anyone / một nhân dạng nào đó, tức
thuộc vào một tổng thể gồm năm thứ cấu hợp) mà thôi.
Bảo toàn một thế giới tương đối
Sau đó Tịch Thiên còn xác nhận thêm một cách ngắn gọn là
người ta sẽ không tìm thấy gì cả bên trong một thân cây mã đề sau khi banh nó
ra.
Tiết 74. Sau
khi tước rời từng sợi thì cọng mã đề sẽ không còn lại gì cả. Cũng tương tự như
thế, sau khi phân tích "cái tôi" một cách toàn diện thì sẽ nhận thấy
nó chỉ đơn thuần là hư vô.
Khi chúng ta tìm kiếm
cái tôi trong số các cấu hợp - thân xác, các cảm tính, sự nhận thức, tri thức -
thì thật hết sức hiển nhiên là chúng ta không sao tìm thấy được nó. Chúng ta
không thể nhận diện được bất cứ một thành phần nào bên trong con người của mình
có thể thật sự xem là "cái tôi".
Lập luận bác bỏ quan điểm của những người Trung Quán về sự phủ
nhận "cái tôi" có thể xoay quanh một thắc mắc như sau: nếu không có "cái
tôi" thì cũng sẽ không có các sinh linh có giác cảm ("ai" nhận biết các cảm nhận, như
khổ đau chẳng hạn), và nếu không có các sinh linh có giác cảm thì
chúng ta sẽ phát lộ lòng từ bi của mình đối với những ai bây giờ?
Tiết 75. (hỏi) Nếu như các cá thể không có
thì đối tượng của lòng từ bi là gì?
(Trung Quán) Người ta (sẵn sàng)
chấp nhận khái niệm phát sinh từ vô minh ấy (dù biết rằng cá thể con người không mang một
sự hiện hữu đích thật và nội tại thế nhưng vẫn chấp nhận sự kiện đó như một
phương tiện) nhằm để đạt được mục đích mong cầu.
Tịch Thiên đáp lại rằng dù cho
"cái tôi" không hiện hữu một cách tự chủ, và do đó sẽ không có một
chúng sinh có giác cảm nào hàm chứa một sự hiện hữu độc lập, thế nhưng nếu tự
đặt mình vào phạm vi của lãnh vực sự thật tương đối thì sẽ có các chúng sinh có
giác cảm. Trong trường hợp trên đây khi Tịch Thiên nói đến "vô minh"
thì đấy không có nghĩa là sự bám víu vào khái niệm về sự hiện hữu nội tại, tức
là một hình thức vô minh căn bản làm nền tảng cho sự hiện hữu thiếu tỉnh thức
của chúng ta, mà đúng hơn Tịch Thiên chỉ lập lại các lời phát biểu của Nguyệt
Xứng (Chandrakirti) khi vị này khẳng định trong tập Dẫn Nhập về Con Đường Trung Quán (Madhyamakavatara / Nhập Trung Luận) rằng vũ trụ chỉ là sản phẩm của
một tâm thức vô minh. Tịch Thiên chỉ muốn nói lên rằng trong bối cảnh của sự
thật tương đối - tức là đối với sự vững chắc của thế giới quy ước hiện ra qua
các kinh nghiệm cảm nhận thường nhật của chúng ta - "cái tôi" đúng
thật là hiện hữu. Vì thế, các chúng sinh có giác cảm mà chúng ta hướng tất cả
lòng từ bi của mình vào họ đúng thật là hiện hữu và họ cũng gánh chịu đau khổ
một cách thật sự.
Tác giả tập Hành trình đến Giác Ngộ lại tiếp tục đưa ra thêm các luận cứ khác
nhằm bác bỏ một quan điểm khác đại loại cũng tương tự như quan điểm trên đây:
nếu như không có các sinh linh có giác cảm, thì làm thế nào có thể có được
những người tu tập bước vào con đường đưa đến Giác Ngộ và đạt được mục đích?
Tiết 76. (hỏi) Mục đích nêu lên cho ai, khi
mà chẳng có một sinh linh nào hiện hữu?
(Trung Quán) Thật vậy sự cố gắng (tu tập)
hình thành từ ảo giác (vì con người cũng chỉ là ảo giác), thế nhưng nó lại
có mục đích (hay
khả năng) làm giảm bớt sự đớn đau, vì thế tính cách ảo giác của mục đích
nào có phải là một điều cấm kỵ đâu.
Tịch Thiên xác nhận rằng nếu chúng ta
chưa hoàn toàn thoả mãn khi dừng lại với sự vững chắc của thế giới quy ước và
cứ muốn tìm kiếm những gì vượt xa hơn nữa, thì chúng ta cũng sẽ chẳng tìm thấy
được một sinh linh có giác cảm nào (vượt xa hơn thế giới quy ước là thế giới của sự thật tuyệt
đối, trong thế giới đó sẽ không có một sự hiện hữu đích thật và nội tại nào cả).
Dù sao trong bối cảnh của thế giới tương đối, luôn luôn có những sinh linh có
giác cảm đang phải gánh chịu khổ đau. Vì thế nếu muốn đạt được sự giải thoát
khỏi khổ đau thì phải bước vào con đường giúp loại bỏ nguyên nhân của khổ đau,
tức là vô minh. Thật vậy, một tâm thức vô minh bám víu vào khái niệm hiện hữu
nội tại - mang lại mọi thứ khổ đau và hoang mang - mới chính là những gì cần
phải làm cho bật rễ: sự thực tại của thế giới quy ước không phải là chủ đích
của sự loại bỏ. Không cần phải chối bỏ thế giới tương đối hay là thế giới của
nguyên nhân và hậu quả (câu trên đây thật quan trọng: một số người nghĩ rằng tu tập
là cách giúp mình "vượt thoát" khỏi thế giới ảo giác và biến động
này, thế nhưng thật ra thì việc "loại bỏ vô minh" bên trong tâm thức
mình mới đúng thật là con đường, là chủ đích của việc tu tập. Thế giới này vẫn
cứ tiếp tục là thế giới này).
Dầu sao vẫn còn có một sự thắc mắc khác nữa có thể hiện ra:
nếu như không cần phải phủ nhận thực tại của thế giới quy ước thì phải chăng
cũng có nghĩa đương nhiên là phải chấp nhận một cách quy ước rằng mọi vật thể
và sự kiện hàm chứa một quy chế độc lập và khách quan dưới một hình thức nào đó,
và người ta có thể xem một thứ gì đó như là một quy chiếu (referent / reference / một đối tượng được chỉ
định bằng ngôn từ) mang tính cách đích thật nhằm để chỉ định các
khái niệm và các thuật ngữ do chúng ta nêu lên hay không? Có phải quý vị cũng
muốn nói rằng điều ấy (tức thực tại của thế giới quy ước) không sao có
thể hủy bỏ được hay chăng? (có phải thực tại của thế giới ấy là một sự kiện vững chắc
không sao chối bỏ được?).
Tiết 77.
Cảm tính về "cái tôi" là nguyên nhân mang lại đớn đau và cảm tính đó lại
sẽ càng gia tăng thêm nữa với ảo giác về một "cái tôi" ("cảm
tính" về sự hiện hữu của "cái tôi" khiến mang lại cho mình mọi
sự đớn đau, thế nhưng nếu "nuôi dưỡng" thêm ảo giác về "cái
tôi" - tức tin vào sự vững chắc của nó - thì tất sẽ còn mang lại đủ mọi
thứ khổ đau khác sâu kín và tinh tế hơn nhiều. Một sự phân tích vô cùng tinh
tế!). Không nên nghĩ rằng chúng ta bất
lực không hủy bỏ được cảm tính sai lầm đó, mà phải hiểu rằng chúng ta hoàn toàn
có thể thực hiện được điều ấy bằng cách thiền định về sự phi-hiện-hữu của
"cái tôi".
Tịch Thiên đáp lại bằng cách khẳng định rằng sự bám víu vào
thể dạng hiện hữu ấy (của "cái tôi") tất nhiên là nguồn gốc
mang lại khổ đau, và tạo ra cho mình các cảm tính nóng giận và thèm muốn, cũng
như các nhận thức và tư duy sai lầm. Các thứ này sẽ lại tiếp tục làm gia tăng
thêm sự bám víu vào "cái tôi": đây chính là thể dạng tâm thức vô minh
cần phải được loại bỏ.
Dù
chấp nhận phải loại bỏ sự bám víu ấy thế nhưng chúng ta cũng có thể tự hỏi là
mình sẽ thành công hay chăng, và nếu vậy thì phải làm thế nào? Theo Tịch Thiên
thì sự vô minh ấy có thể loại bỏ được, bởi vì chúng ta có thể tạo ra cho mình
một thể dạng tâm thức đối nghịch để chống trả lại: đấy là sự hiểu biết Tánh
Không. Sự hiểu biết ấy sẽ trực tiếp hóa giải tình trạng bám víu của tâm thức
vào ý niệm về "cái tôi", dù cho "cái tôi" ấy không hề hiện
hữu đi nữa. Vì lý do trên thực tế một "cái tôi" đại loại như thế
không hề hiện hữu cho nên khi sự hiểu biết đã thâm nhập được vào bản chất của
thực tại (quán
nhận được bản thể của thực tại) thì nó sẽ nhận ra ngay sự vắng mặt
của "cái tôi" ấy. Do đó khi nào việc thiền định về Tánh Không được
thực hiện thật vững chắc nhờ vào lý trí (thiền định phân giải) thì nó sẽ có thể giúp loại
bỏ được thể dạng tâm thức vô minh bám víu vào ý niệm về sự hiện hữu nội tại của
"cái tôi".
THIỀN ĐỊNH
Đến đây chúng ta hãy tập
thiền định về lòng từ bi xem sao. Chúng ta hãy hình dung ra một sinh linh có
giác cảm đang phải gánh chịu sự đau đớn hoặc những nỗi khổ đau không sao kham
nổi. Chúng ta hãy tập trung sự chú tâm hướng vào sinh linh ấy và nghĩ rằng sinh
linh ấy nào có khác gì với mình đâu, cũng ước mong đạt được hạnh phúc và vượt
thoát khỏi mọi khổ đau. Sinh linh ấy không những chỉ biết tìm cách loại bỏ khổ
đau mà còn hội đủ khả năng để thực hiện được việc ấy (tất cả chúng sinh đều hàm chứa Phật Tính giúp
mình loại bỏ khổ đau). Sau đó chúng ta cũng không được quên là nguyên
nhân trước tiên mang lại khổ đau chính là sự bám víu của tâm thức vào ý niệm
sai lầm về sự hiện hữu nội tại, và sự nhận thức sai lầm ấy có thể loại bỏ được
bằng sự hiểu biết sâu xa về bản chất của Tánh Không. Hãy luôn suy tư về khả năng
đó. Ngoài ra chúng ta cũng phải phát động lòng từ bi sâu xa đối với tất cả
chúng sinh và đồng thời phải cố gắng làm gia tăng thêm khả năng ấy nơi mỗi
chúng ta.
Phải
luôn ghi nhớ điều đó và trước hết hãy bắt đầu chú tâm vào một sinh linh duy nhất,
rồi dần dần sau đó sẽ mở rộng sự suy tư hướng vào các sinh linh khác, chẳng hạn
như những người thân thuộc chung quanh. Sau cùng sẽ mở rộng ra hơn nữa, bao gồm
cả những người mà chúng ta không ưa thích, chẳng hạn như những người trước đây
đã từng gây ra cho mình nhiều điều thương tổn. Hãy nghĩ đến các thứ cảm tính (khổ đau) có
thể phát sinh ra với họ. Không nên quan tâm đến thái độ hành xử của họ đối với
mình mà phải nghĩ rằng họ nào có khác gì với mình, tất cả cũng chỉ mong cầu tìm
được hạnh phúc và vượt thoát khỏi khổ đau.
Khi đã ý thức được
nguyên tắc căn bản ấy về sự bình đẳng giữa tất cả mọi sinh linh trước sự mong
ước tìm được hạnh phúc và loại bỏ khổ đau, thì tất chúng ta cũng sẽ phát huy
được sự thiện cảm và lòng từ bi thật mạnh hướng vào từng mỗi con người. Sau khi
đã thành công trong việc luyện tập tâm thức hướng vào một số người đặc biệt nào
đó - chẳng hạn như bạn bè, kẻ thù và cả những người trung hòa (không ưa cũng
không ghét) - thì sau đó phải cố gắng trải rộng lòng từ bi của mình đến
tất cả chúng sinh, không được loại trừ bất cứ một chúng sinh nào. Điều này quả
thật hết sức quan trọng. Nếu không thực hiện được điều ấy thì chúng ta cũng có thể
sẽ rơi vào tình trạng phát lộ lòng từ bi đến những người nào đó không cần biết
họ là ai, trong khi ấy đối với những người liên hệ mật thiết với mình thì mình
lại không biểu lộ được một chút từ bi nào cả, nhất là những người gần gũi với
mình. Thái độ đó có thể xảy ra với mỗi người trong chúng ta, vì thế phải luôn ý
thức hiện trạng đó trong khi thiền định về lòng từ bi.
(Vài lời ghi chú thêm của người dịch:
Người đọc biết đâu cũng có thể thắc mắc và tự hỏi vì lý do
nào Tích Thiên lại nêu lên trong các tiết từ 60 đến 69 quan điểm chủ trương sự
hiện hữu của "cái tôi" của hai học phái Shamkya và Vaisashika và sau
đó thì đưa ra các cách lập luận nhằm bác bỏ các quan điểm ấy. Thiết nghĩ nếu
muốn hiểu được điều này có lẽ phải tự đặt mình vào bối cảnh tín ngưỡng chung ở
Ấn Độ vào thế kỷ thứ VIII khi Tịch Thiên trước tác tập "Hành Trình đến
Giác Ngộ".
Sự kiện thứ
nhất cần phải nêu lên là trong suốt lịch sử phát triển ở Ấn Độ, Phật Giáo chưa
bao giờ là một tín ngưỡng mang tính cách "độc tôn" và "duy
nhất", kể cả trong những thời kỳ hưng thịnh nhất, chẳng hạn như vào thế kỷ
thứ III trước Tây Lịch dưới triều đại của vua A-dục và một thời gian dài kể từ
thế kỷ thứ I trước Tây Lịch đến hết thế kỷ thứ VIII, nhất là dưới triều đại
Gupta từ thế kỷ thứ III đến thứ VI. Song song với sự phát triển của Phật Giáo,
nhiều tín ngưỡng khác như đạo Bà-la-môn và sau đó là Ấn Giáo cũng đã phát triển
rất mạnh và đã tạo được nhiều ảnh hưởng sâu rộng trong quảng đại quần chúng của
nước Ấn, một bằng chứng cụ tể là Phật Giáo biến mất ở Ấn vào cuối thế kỷ XII,
thế nhưng Ấn Giáo vẫn tồn tại. Hai học phái Vaisheshika và Shamkya mà Tịch
Thiên nói đến trong tập Hành Trình đến Giác Ngộ là hai trong số sáu học phái
lớn nhất của Ấn Giáo.
Học
phái Vaisheshika được hình thành vào thế kỷ thứ II trước Tây Lịch, tức là trước
khi Đại Thừa được thành lập, và học phái Shamkya vào thế kỷ thứ IV hay thứ V
sau Tây Lịch, tức là vào khoảng đầu của một thờì kỳ có thể nói là vàng son nhất
của Phật Giáo dưới triều đại Gupta. Không phải chỉ có hai học phái trên đây chủ
trương sự hiện hữu của "cái tôi" mà hầu hết các học phái và tín
ngưỡng khác đều chủ trương "hữu ngã", kể cả một tín ngưỡng quan trọng
khá gần với Phật Giáo là đạo Ja-in, đạo này chủ trương sự hiện hữu của một thứ
linh hồn gọi là jiva, có nghĩa là một hình thức
"sinh khí". Tóm lại là
khi Tịch Thiên trước tác tập Hành Trình đến Giác Ngô vào thế kỷ thứ VIII thì
đấy cũng là lúc mà Phật Giáo Đại Thừa đánh dấu một giai đoạn phát triển cao độ
nhất, sau khi hai tông phái lớn là Kim Cương Thừa và Thiền Học vừa được hình
thành vào khoảng thế kỷ thứ VI, và giáo lý Phật Giáo tức là Dharma của Đức Phật
đã được triển khai sâu rộng và vững chắc nhất.
Sự
kiện thứ hai cần nêu lên là sau khi bác bỏ quan điểm chủ trương sự hiện hữu của
"cái tôi" của hai học phái Samkhya và Vaisheshika thì từ tiết 70 đến
77 Tịch Thiên đưa ra quan điểm vô-ngã của con người tức là không có "cái
tôi" do Phật Giáo chủ trương.
Thật
ra chủ thuyết về sự hiện hữu của "cái tôi" (atman) đã có từ trước
Phật Giáo và còn tiếp tục sau đó với đạo Bà-la-môn và Ấn Giáo. Hai học phái
triết học Samkhya và Vaisheshika cũng chỉ là hai trường hợp tiêu biểu mà Tịch
Thiên nêu lên mà thôi: một chủ trương "cái tôi" trên phương diện siêu
hình, một chủ trương một "cái tôi" trên phương diện "vật chất"
gồm các "nguyên tử".
"Cái
tôi" hay "atman" hay "cái ngã" còn được gọi bằng các
thuật ngữ phổ thông và "dễ hiểu" hơn như "vong linh",
"linh hồn" (âme / soul) v.v... là một ý niệm khá phổ quát trong rất
nhiều nền văn hóa và tôn giáo, nhất là các tôn giáo độc thần. Nếu nhìn dưới một
góc cạnh nào đó thì cũng có thể xem "cái tôi" như một thứ ám ảnh bản năng khá tự nhiên của con người. Thật vậy, duy nhất chỉ
có Phật Giáo là không công nhận sự hiện hữu đích thật, nội tại và tự chủ của
"cái tôi" ấy, hay nói cách khác thì đấy là "tánh không" của
sự hiện hữu của con người. Suốt trên dòng tiến hóa của lịch sử nhân loại không
có một nền văn hóa, tư tưởng, tôn giáo hay khoa học nào nêu lên khái niệm
"vô ngã" ngoài Phật Giáo.
Như
đã được nói đến trên đây dù rằng là một trong các tôn giáo lâu đời nhất của
nhân loại thế nhưng suốt trên dòng lịch sử phát triển trên đất Ấn, Phật Giáo
chưa bao giờ chiếm giữ một vị thế độc tôn (proselitism). Lý do không nhất thiết
là vì Phật Giáo không phải là một tín ngưỡng chủ trương chinh phục và chiếm giữ
vị thế độc tôn mà đúng hơn là ngoài những hình thức của một "tín ngưỡng
phổ thông" Phật Giáo còn là một "tôn giáo của trí tuệ", và khía cạnh này thì lại hết sức khó để thấu
triệt đối với quảng đại quần chúng, thí dụ như chương IX trong tác phẩm của
Tịch Thiên và quyển sách này của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Thế nhưng khía cạnh trí
tuệ đó lại chính là một sức mạnh giúp Phật Giáo trường tồn và đang chinh phục
thế giới Tây Phương ngày nay.
Sự
kiện này cũng chứng tỏ cho thấy việc
Tịch Thiên bác bỏ các quan quan điểm xưa về sự hiện hữu nội tại của
"cái tôi" khi chỉ trích quan điểm của hai học phái triết học của Ấn Giáo
vẫn còn giá trị trong các xã hội "tân tiến" ngày nay và đáng để cho
chúng ta suy ngẫm. Thật vậy sự ám ảnh
của "cái tôi" hay "linh hồn" tàn phá con người và xã
hội thật nặng nề, hơn cả sự ám ảnh tính dục rất nhiều.
Sau
đây cũng xin mạn phép mượn một câu trong một kịch bản của triết gia người Pháp
là Jean-Paul Sartre (1905-1980) mang tựa "Les Mouches" ("Những
Con Ruồi") thay cho lời kết của phần ghi chú này: "Ồ! Tôi cảm thấy tự
do vô ngần! Tuyệt vời thay là sự vắng mặt của linh hồn tôi!" (Ah! comme je suis libre. Et quelle superbe abscence que mon âme!) Câu này
cũng phản ảnh một phần nào ý nghĩa mà Tịch Thiên muốn nêu lên trong các tiết 70
đến 77).
9
Bản chất của mọi hiện tượng
BÌNH GIẢI
Tính cách tổng thể và các thành phần của hiện
tượng
Sau khi trình bày
về tính cách vô-ngã của con người (chương VIII trên đây) Tịch Thiên nêu lên tính cách vô-ngã của
mọi hiện tượng bằng cách trước hết dựa vào bốn
phép thiền định chú tâm - vào thân xác, giác cảm, tâm thức và các hiện
tượng (tức là phép thiền định Satipatthana). Theo những gì nêu lên trong các tiết
dưới đây thì trước hết chúng ta phải chú tâm vào bản chất thân xác của chính
mình và suy nghiệm về những đặc tính tổng quát cũng như cá biệt của nó, chẳng
hạn như quá trình già nua hay những thành phần uế tạp tạo ra thân xác vật chất (Phật Giáo xem các cấu hợp vật chất của thân xác là uế tạp, có nghĩa là
"không tinh khiết"). Tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết trong phần dưới đây về phép thiền định
này.
Một cách tổng quát, sự chú tâm vào thân xác hay là sự suy tư về bản chất
của chính thân thể mình, là một phép thiền định được nêu lên trong các kinh
sách Tiểu Thừa. Tuy nhiên sự suy tư đó cũng có thể được mở rộng hơn hướng vào
bản chất của thân xác, giác cảm, tâm thức và mọi hiện tượng liên quan đến tất
cả chúng sinh thật đông đảo và bất tận như không gian. Phép luyện tập tâm thức
ấy cũng có thể xem như là của Đại Thừa (Tiểu Thừa chủ trương vô-ngã của con người, Đại Thừa mở rộng tính cách
vô-ngã đó đối với tất cả mọi hiện tượng). Trong khi thiền định về Tánh
Không của các yếu tố trên đây - tức thân xác, giác cảm, tâm thức và các hiện
tượng - thì đấy là cách mà chúng ta hướng sự chú tâm của mình vào lãnh vực của
sự thật tối hậu.
Tập Hành Trình đến Giác Ngộ đưa
ra các phương pháp thực hành rất quy củ, liên quan đến bốn phép thiền định về
Tánh Không. Chúng ta hãy nêu lên thí dụ về phép thiền định về thân xác con
người. Thân xác gồm có nhiều thành phần chẳng hạn như đầu, tứ chi, v.v… Tuy
nhiên cũng có thể xem thân xác mang tính cách toàn bộ - một tổng thể, một đơn
vị đồng nhất. Thông thường mỗi khi chúng ta nghĩ đến thân xác (nên hiểu chữ "thân
xác" ở đây như là một danh xưng hay một thuật ngữ), thì nó sẽ hiện ra trong tâm thức mình
như là một thực thể duy nhất, dù chỉ mang tính cách mơ hồ đi nữa, và rồi chúng
ta cứ dựa vào đấy để cho rằng nó có thật, có thể lấy tay để chạm vào nó (tangible). Từ sự
nhận biết ấy chúng ta sẽ xác định được các thành phần cũng như các đặc tính
khác nhau của nó. Nói một cách khác chúng ta có cảm giác là có một thứ gì đó
hiện hữu một cách thật hiển nhiên gọi là thân xác mà chúng ta có thể liệt kê ra
từng thành phần cấu tạo ra nó. Thế nhưng nếu tìm kiếm cái "thân xác"
ấy bên ngoài các thành phần cấu tạo ra nó thì nhất định chúng ta sẽ nhận thấy
rằng không sao có thể tìm ra được nó (chúng ta có thể trông thấy hay
lấy tay sờ vào các thành phần của thân xác một cách thật cụ thể - tangible),
thế nhưng "thân xác" thật ra chỉ là một ý niệm, một tên gọi hay một
danh xưng mang tính cách quy ước).
Quan điểm trên đây sẽ được Tịch Thiên trình bày trong các tiết dưới đây:
Tiết
78,79. Thân xác không phải là chân, bắp chân, đùi, háng, bụng, lưng, ngực, cánh
tay, bàn tay, xương sườn, nách, vai, cổ, đầu. Thế thì thân xác là gì?
Chúng ta hình dung thân xác như một thực thể duy nhất và xem nó thật quý
giá. Thế nhưng nếu thật chú tâm và quan sát cẩn thận thì chúng ta sẽ nhận thấy
thân xác không phải là chân, là bắp chân, đùi, háng, bụng, lưng, ngực, cánh
tay, bàn tay, sườn, nách, vai, cổ, đầu, hay là bất cứ một thành phần nào khác.
Vây chúng ta phải tìm kiếm thân xác ở đâu? Mặt khác, nếu như thân xác giống hệt
như từng thành phần riêng rẽ của nó, thì ý nghĩ về một thân xác hình dung như
một thực thể hay một đơn vị toàn vẹn (tức là
đầy đủ) sẽ không sao đứng vững được.
Tiết
80. Nếu thân xác phân tán ra trong từng thành phần cấu tạo ra nó, thì các thành
phần này của thân xác cũng lại tiếp tục được phân tán ra trong từng thành phần
nhỏ hơn nữa: vậy thì thân xác chính nó ở vào đâu? (thí dụ trông thấy gương mặt một người quen thuộc chúng ta cũng nhận ra
được ngay là người ấy. Đôi khi đứng phía sau và chỉ trông thấy lưng của người
ấy cũng có thể nhận ra được người ấy, hoặc đôi khi chỉ cần trông thấy bàn tay,
mắt hay mũi cũng đủ để nhận ra người ấy, vậy thân xác của người ấy nằm trong
thành phần nào?).
Tiết
81. Và nếu như toàn bộ thân xác nằm trong từng thành phần cấu tạo ra nó, thì
nếu có bao nhiêu thành phần thì tất sẽ phải có bấy nhiêu thân xác.
Nếu thực thể
ấy hay là đơn vị toàn vẹn mà chúng ta gọi là thân xác ấy giống nhau như đúc
trong từng thành phần riêng rẽ, hoặc hiện hữu toàn vẹn trong từng thành phần
của nó, thì thân xác sẽ trở thành nhiều vô kể, bởi vì không biết là có bao
nhiêu thành phần trong một thân xác (nếu gương mặt, bàn chân, cánh
tay, tiếng cười, giọng nói đúng là "người ấy" thì sẽ có không biết
bao nhiêu là "người ấy").
Chính vì thế mà Tịch Thiên nêu lên tiếp như sau: thân xác không hiện hữu
giống nhau như đúc trong từng thành phần riêng rẽ, thế nhưng nó cũng không hiện
hữu tách rời và độc lập với các thành phần ấy.
Tiết
82. Thân xác không nằm bên trong, cũng không nằm bên ngoài. Vậy làm thế nào nó
có thể nằm trong từng thành phần cấu tạo ra nó? Thế nhưng nó cũng không nằm ra
bên ngoài những thành phần ấy. Vậy thì nó sẽ phải hiện hữu bằng cách nào? (thân xác hay thân thể chỉ là một tên gọi hay một quy chiếu (referent /
reference) nhằm chỉ định một tổng thể cấu hợp và sự tương tác giữa các cấu hợp
ấy cũng như với môi trường chung quanh nó).
Tiết
83. Vậy thì thân xác không có. Thế nhưng chỉ vì ảo giác nên ý nghĩ về một thân
xác được đem gán cho các thành phần cấu tạo ra nó, tương tự như ý nghĩ về con
người được đem gán cho một hình nộm.
Vậy thì làm thế nào một thân xác tự nó lại có thể hiện hữu một cách tự chủ
và độc lập được? Nếu khảo sát thật tường tận bản chất của thân xác thì chúng ta
sẽ nhận thấy ngay là nó chỉ đơn giản là một sự chỉ định (một tên gọi) dựa vào
cơ sở của một sự cấu hợp gồm nhiều thành phần khác nhau. Do đó chúng ta cũng có
thể tự hỏi: "Thế thì thân xác là gì?". Trong một số trường hợp, thí
dụ như ở một nơi tranh tối tranh sáng chẳng hạn, đôi khi chúng ta cũng có thể
trông lầm một bóng hình nào đó và cứ tưởng đấy là một con người.
Cũng thế Tịch Thiên nói rằng khi nào các điều kiện và yếu tố thích nghi hội
đủ để tạo ra cảm giác đấy là một con người, thì chúng ta cũng sẽ căn cứ vào cơ
sở đó để hình dung ra ý niệm về một "thân xác" một cách quy ước.
Tiết
84. Cho đến khi nào một số các điều kiện nào đó còn tồn tại thì thân xác cũng
sẽ vẫn còn được xem như là một cá thể con người (một nhân dạng);
cũng tương tự như thế, khi nào các thành phần cấu tạo còn kết hợp với nhau thì
chúng ta cũng vẫn còn nhận thấy đấy là một thân xác (khi nào còn duy trì được các điều kiện cần thiết thì thân xác còn tồn tại
và tỏ ra như là "khoẻ mạnh", khi nào một trong các yếu tố tạo ra sự kết hợp đó mất "thăng bằng" thì
thân xác cũng sẽ mất "thăng bằng" theo tức là ốm đau, khi nào một
trong các yếu tố đó không còn bảo tồn được chức năng của nó thì thân xác tan
rã, và chúng ta gọi đấy là cái chết).
Thế nhưng nếu muốn tìm kiếm quy chiếu đúng thật phía sau danh xưng thân xác
thì chúng ta sẽ chẳng tìm thấy gì cả (thân xác với tư cách là một
danh xưng hay thuật ngữ chỉ định một cái gì đó mà chúng ta không sao tìm thấy
và cũng không biết đấy là cái gì). Vậy thì chúng ta sẽ phải kết luận rằng "thân xác" sau khi đã
được phân tích đến tột cùng sẽ chỉ là một sự tạo dựng mang tính cách quy ước -
hay là một sự thật tương đối hiện ra như một sản phẩm (a product / một sự tạo tác, hay tạo dựng) phát sinh từ một sự kết hợp gồm nhiều nguyên nhân
và điều kiện.
Sự phân tích trên đây cũng có thể áp dụng đối với các thành phần riêng rẽ
của thân xác, và Tịch Thiên cũng đã giải thích về sự kiện này trong các tiết
sau đây:
Tiết
85. Cũng thế, bàn tay không hề có: đấy chỉ là sự kết hợp của nhiều ngón tay.
Ngón tay chỉ là sự kết hợp của nhiều đốt tay; đốt tay lại được kết hợp từ những
thành phần khác nữa.
Tiết
86. Các thành phần cũng là một sự kết hợp của các nguyên tử, nguyên tử lại được
phân chia theo từng khu vực tương quan với bốn hướng (tức là đông, tây, nam, bắc. Ngày nay khoa học có thể phân cắt một hạt
nguyên tử ra thành nhiều thành phần nhỏ hơn nữa, nếu tiếp tục phân cắt thì đến
một lúc nào đó sẽ không còn một thành phần nào nữa và tất cả sẽ trở thành một
"hình thức" năng lượng phi-vật-chất. Vào thời đại của Tịch Thiên khoa
học như ngày nay chưa có, người ta xem "nguyên tử" là một thứ đơn vị
nhỏ nhất mang tính cách đồng nhất và không thể phân cắt thêm được nữa, tuy
nhiên những người vào thời đại bấy giờ vẫn cho rằng mỗi hạt nguyên tử dù mang
tính cách nhất thể cũng cho thấy là nó được phân chia ra thành nhiều "khu
vực" và mỗi khu vực thuộc vào một vị trí khác nhau trong không gian, chẳng
hạn như đông, tây, nam, bắc. Tóm lại dù chỉ là một đơn vị cực nhỏ và đồng nhất
thế nhưng nó cũng không độc lập và phải liên kết với các yếu tố khác, trong
trường hợp này là không gian. Chúng ta cũng có thể liên tưởng đến dòng tri thức
gồm các đơn vị "thời gian" tiếp nối nhau liên tục, thế nhưng các đơn
vị đó cũng không độc lập bởi vì nó phải liên kết với một đơn vị trước nó và tạo
ra điều kiện cho sự hình thành của một đơn vị tiếp nối hiện ra sau nó, đấy là
chưa nói đến mỗi đơn vị còn phải cất chứa các vết hằn của nghiệp. Tóm lại là
không có bất cứ một hiện tượng nào dù là vĩ mô hay vi mô có thể mang tính cách
phi-cấu-hợp), không thể
tiếp tục phân chia các khu vực đến bất tận được bởi vì khi đó không gian sẽ trở
thành trống không. Vậy thì nguyên tử cũng không hề có (tuy rằng một hạt nguyên tử là một "đơn vị" nhất thể thế nhưng nó
cũng có các khu vực thuộc đông, tây, nam, bắc hoặc bên trên hay bên dưới, bên
phải hay bên trái, nếu tiếp tục phân tích sự định hướng đó đến bất tận thì sẽ
chỉ còn lại một không gian trống không. Xin bái phục một sự suy luận thật tinh
tế cách nay đã mười ba thế kỷ khi mà khoa học như ngày nay chưa có).
Nếu nhìn vào
bàn tay thì chúng ta sẽ nhận thấy ngay là nó gồm có nhiều thành phần. Nếu cho
rằng nó hiện hữu một cách độc lập và nội tại thì tất nhiên sẽ đi ngược lại
nguyên tắc là từ bản chất nó phải lệ thuộc vào các yếu tố khác. Nếu muốn tìm
kiếm bàn tay thì nhất định chúng ta sẽ không sao tìm thấy được bất cứ một bàn
tay nào lại có thể độc lập với các thành phần cấu tạo ra nó. Cũng tương tự như
thế, mỗi ngón tay cũng là một sự cấu hợp, nếu chia cắt ngón tay đến chỗ tột
cùng thì sự hiện hữu của nó cũng sẽ biến mất. Do đó nếu chúng ta tìm kiếm quy
chiếu đích thật của các tên gọi chỉ định từng thành phần thân xác, thì chúng ta
sẽ không tìm thấy gì cả.
Nếu chúng ta chia
cắt các thành phần để tách rời các cấu hợp cơ bản của chúng - tức là các phân
tử, nguyên tử, và v. v. - thì các thành phần này cũng sẽ biến mất. Nếu chúng ta
tiếp tục phân tích xa hơn nữa bằng cách chia cắt ngay cả những hạt nguyên tử
theo từng khu vực của nó thì chúng ta cũng sẽ thấy rằng khái niệm về nguyên tử
cũng chỉ là một sự tạo dựng tâm thần. Nếu tiếp tục đẩy sự lý luận xa hơn như
thế nữa thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy ngay cả các quan điểm về vật chất hay
các khái niệm về nguyên tử cũng không thể nào đứng vững được. Nếu một vật thể
muốn được xem là vật chất thì bắt buộc nó phải là một sự kết hợp của nhiều
thành phần. Nếu chúng ta vượt xa hơn cấu trúc đó (tức là tính cách
cấu hợp của vật chất)
bằng cách chia cắt đến chỗ tột cùng thì sẽ không còn lại bất cứ gì nữa, ngoài
Tánh Không ra.
Nếu căn cứ trên sự
nhận biết bình thường của chúng ta thì các vật thể và hiện tượng có vẻ như hàm
chứa một quy chế độc lập và khách quan. Thế nhưng trong tiết dưới đây Tịch
Thiên cho biết rằng nếu tìm kiếm bản chất thật sự của các hiện tượng thì chúng
ta tất sẽ phải chấp nhận rằng không sao tìm thấy được chúng.
Tiết
87. Vì thế, hình tướng cũng chẳng khác gì như một giấc mơ: nếu đã hiểu được
điều đó thì một người khôn ngoan nào còn dám bám víu vào đấy nữa? Nếu thân xác
không hiện hữu thì sự khác biệt giữa người đàn ông và người đàn bà là gì?
Điều ấy cho thấy rằng các đối tượng của sự giận dữ
và bám víu của chúng ta không mang một tính cách tuyệt đối nào cả. Trên
phương diện tuyệt đối sẽ không có bất cứ gì
đáng cho chúng ta mong cầu và cũng chẳng có gì là hoàn hảo cả, và cũng
chẳng có gì để mà ghét bỏ hay phải kinh tởm. Trên thực tế, các phản ứng cực
đoan phát sinh từ sự tiếp xúc của chúng ta với các vật thể và sự kiện không hề
được dựa vào một cơ sở mang tính cách vững chắc nào. Trong phạm vi mà thân xác
không sao có thể tìm thấy được khi chúng ta tìm kiếm nó bằng phương pháp phân
cắt thì các sự chỉ định dựa vào nền tảng của sự hiện hữu của thân xác - chẳng
hạn như các nét khác biệt về chủng loại hay sắc tộc - sẽ hoàn toàn không mang
một thực chất nào cả trên phương diện tối hậu. Do đó chúng ta sẽ căn cứ vào đâu
để hành xử một cách cực đoan bằng cách chỉ dựa vào màu da của những người thuộc
các giống dân hay sắc tộc khác?
Các
sự vật hiện hữu như thế nào?
Mỗi khi chúng ta
phân tích các kinh nghiệm cảm nhận trên phương diện hiện tượng học (phenomenology / một ngành triết học nghiên cứu bản chất của mọi sự vật
tách ra bên ngoài mọi định kiến có sẵn) liên quan đến các thứ xúc cảm của mình mỗi khi
chúng hiện ra và biến đi bên trong tâm thức, thì thông thường hình như tất cả
mọi vật thể và sự kiện có vẻ như hàm chứa một
thực thể độc lập và khách quan, nhất là đối với các thứ xúc cảm thật
mạnh và tiêu cực, chẳng hạn như hận thù. Chúng ta đem gán cho đối tượng của sự
hận thù đó các đặc tính thật cụ thể và chính vì thế nên nó sẽ hiện ra với chúng
ta thật rõ nét, tương tự như hàm chứa một một thực thể vững chắc. Thế nhưng
thật ra không có một đối tượng nào mang tính cách hiển nhiên và cụ thể như thế (sự hận thù mang tính cách thật chủ quan). Tuy nhiên chúng ta cũng có thể tự hỏi, nếu các
đối tượng không thể nào tìm thấy được, thì có phải là chúng không hề hiện hữu
hay không? Không đúng như thế, nhất định là chúng hiện hữu. Vấn đề không phải
là chúng có hiện hữu hay là không hiện hữu, mà đúng hơn là phải tìm hiểu xem
chúng hiện hữu như thế nào? Các đối tượng thật sự hiện hữu thế nhưng chúng
không hiện hữu đúng với phương cách mà chúng ta cảm nhận chúng. Các đối tượng
không hề mang một thực thể nội tại nào cả. Sự vắng mặt ấy hay là Tánh Không của
chính sự hiện hữu, mới đúng thật là bản thể tối hậu của chúng.
Quá trình phân tích
nhằm tìm kiếm quy chiếu đích thật của
các khái niệm và các cách chỉ định (tên gọi) mà chúng ta gán cho chúng cũng không đến
nỗi quá phức tạp lắm: nếu dựa vào cách phân tích trên đây thì cũng không phải
là quá khó cho chúng ta đi đến kết luận là không sao tìm thấy các vật thể và sự
kiện được (các quy chiếu hay danh xưng không biểu
trưng cho một sự hiện thực nào cả). Tuy nhiên, dù cho sự phân tích trên đây có thể giúp chúng ta hiểu rằng
không sao có thể tìm thấy được các hiện tượng, thế nhưng sự "vắng
mặt" ấy mà chúng ta nhận biết được chưa phải là Tánh Không tối hậu (đấy chỉ là một cách "hiểu được" tánh không là gì nhờ vào sự lý
luận. Tánh không ấy vẫn còn "rất thật" với tư cách là một đối tượng
của sự hiểu biết. Tánh Không đích thật chỉ có thể cảm nhận được một cách trực
tiếp bằng trực giác, nói cách khác là phải hoà nhập với nó và cảm nhận được là
mình và nó chỉ là Một, có nghĩa là đối tượng và chủ thể không còn nữa). Do đó chúng ta cũng có thể sẽ tự hỏi nếu
như thế thì những vật thể và sự kiện mà chúng ta không tìm thấy sẽ hiện hữu
theo phương cách nào? Thật hết sức hiển nhiên là sự hiện hữu của mọi vật thể và
sự kiện chỉ có thể hình dung được trên phương diện tương đối mà thôi. Và khi
nào chúng ta hiểu được là mọi vật thể và sự kiện nếu muốn hiện hữu thì phải lệ
thuộc vào một tổng thể gồm thật nhiều nguyên nhân và điều kiện - và chúng chỉ đơn
giản là những sự chỉ định (tức là các danh xưng) - thì chúng ta cũng sẽ hiểu rằng các vật
thể và sự kiện ấy không mang một đặc tính độc lập nào, hay một quyền lực tự
quyết nào cả (autorité déterminante / self-détermining autority). Do đó chúng
ta sẽ nhận thấy rõ ràng là chúng lệ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Vì lý do một
vật thể chỉ có thể hiện hữu bằng cách lệ thuộc vào các yếu tố khác và bị chi
phối bởi các sức mạnh khác, cho nên chúng ta không thể nào xem nó mang tính
cách độc lập được. Lệ thuộc và độc lập là hai đặc tính tương khắc nhau, do đó
vật thể ấy chỉ có thể thuộc vào một trong hai thứ mà thôi (đã là cấu hợp thì tất sẽ phải lệ thuộc, và nếu đã lệ thuộc thì sẽ không
thể nào độc lập được).
Thật hết sức quan trọng là phải hiểu rằng khi những người Trung Quán cho
rằng mọi vật thể không hàm chứa sự hiện hữu nội tại, thì đấy không có nghĩa là
họ chỉ đơn giản căn cứ duy nhất vào sự
kiện không tìm thấy được chúng sau khi đã phân tích đến chỗ tột cùng. Cách lập
luận này tuy thế vẫn còn thiếu sót. Khi bảo rằng mọi vật thể và sự kiện không
hàm chứa sự hiện hữu nội tại hay tự tại thì đấy là vì chúng chỉ có thể hiện hữu bằng
cách lệ thuộc vào các yếu tố khác. Đấy là những gì phải nghĩ đến trước
hết. Cách lập luận này giúp loại bỏ được cả hai thái cực: trước hết là chủ
nghĩa hư vô (nihilism) bởi vì chúng ta vẫn còn tiếp tục chấp nhận một hình thức
hiện hữu trong phạm vi của sự tương liên (interdependence / dưới hình thức một sự cấu hợp lệ thuộc vào nhiều yếu
tố),
và sau đó là chủ nghĩa tuyệt đối (absolutism
/ độc đoán, độc tôn, tự hiện hữu không cần liên hệ với các nhân tố hay các điều
kiện khác) bởi vì chúng ta phủ nhận sự hiện hữu nội tại của mọi hiện tượng.
Trong một bài kinh
sou-tra (soutra là các kinh nguyên thủy bằng
tiếng Pa-li) Đức Phật có
dạy rằng bất cứ một thứ gì sinh ra nhờ vào
điều kiện thì không hề sinh ra, vì bản chất của nó không phải là để được
sinh ra (một thứ gì đó có vẻ như là được
"sinh ra", thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là một biểu hiện trong số
muôn ngàn các biểu hiện khác của sự vận hành tự nhiên của các hiện tượng cấu
hợp, thuận theo quy luật tương liên, nó không hề được "sinh ra" như
là một thứ gì "mới mẻ"). Câu "không hề được sinh
ra" có nghĩa là gì? Tất nhiên đây không phải là cách muốn nói đến tình
trạng không sinh (không thực, không thể có được) của một thực thể mang tính cách tưởng
tượng, chẳng hạn như sừng một con thỏ. Cũng vậy, chúng ta chấp nhận nguồn gốc
của mọi vật thể và sự kiện trên phương diện quy ước (chúng ta chấp
nhận sự "sinh ra" các hiện tượng trong lãnh vực quy ước. Trong lãnh
vực tối hậu thì không có gì "sinh ra" cả, những gì "sinh ra"
chỉ là những sự "chuyển động" của các cấu hợp thuộc thế giới hiện
tượng). Điều mà chúng ta
muốn nói là tất cả mọi hiện tượng chỉ là sản phẩm phát sinh từ điều kiện, thế
nhưng tất cả đều mang bản chất Tánh Không. Nói cách khác là tất cả những gì lệ
thuộc vào các yếu tố khác (để hiện hữu) sẽ không hàm chứa một bản chất tự chủ và
độc lập nào cả, và sự vắng mặt của bản chất độc lập ấy chính là Tánh Không.
Trong tập Trung Quán Luận (Madhyamakakarika), Long Thụ có nói rằng
các vật thể và sự kiện hiện ra bằng cách lệ thuộc đều là trống không, và ngay
cả phương cách sử dụng để chỉ định ấy tự nó cũng đã là một sự lệ thuộc (lệ thuộc vào chủ thể chỉ định và đối tượng được chỉ định, nói cách khác là
sự "diễn đạt" hay "chỉ định" tự chúng cũng là những hình
thức lệ thuộc). Sự tạo
tác tương liên (production interdépendante,
coproduction conditionnée / conditioned co-production / sự tạo tác do điều kiện
mà có) là quan điểm của
Con Đường Trung Quán, quan điểm đó vượt lên trên cả hai thái cực là chủ nghĩa
hư vô và chủ nghĩa tuyệt đối. Sau khi nêu lên quan điểm trên đây, Long thụ lại
tiếp tục khẳng định thêm như sau:
"Không có bất cứ một thứ gì,
Mà nguồn gốc của nó lại không mang tính cách tương liên.
Vì thế, không có bất cứ một thứ gì,
Lại không trống không" (về sự hiện hữu nội tại).
Long Thụ kết luận rằng không hề có bất cứ một thứ gì lại không trống không,
bởi vì không có bất cứ một thứ gì lại không mang nguồn gốc tương liên. Điều này cho thấy một phương
trình liên kết giữa hiện tượng tương liên (pratityasamutpada / lý duyên khởi hay sự tạo tác tương liên) và Tánh Không.
Khi đọc đến các
đoạn trong tập Hành trình đến Giác Ngộ
nêu lên sự kiện không sao tìm thấy được các vật thể và sự kiện, thì thật hết
sức quan trọng là không được để bị rơi vào chủ nghĩa hư vô, có nghĩa là kết
luận một cách sai lầm bằng cách cho rằng không có bất cứ gì hiện hữu một cách
đích thật, và cũng có nghĩa là chẳng có gì đáng để quan tâm. Phải tránh vị thế
cực đoan này với bất cứ giá nào.
SỰ HIỂU BIẾT SIÊU NHIÊN
Vượt
lên trên sự hiểu biết trí thức
Sự hiểu biết trí thức về Tánh Không khác hẳn với sự thực hiện toàn vẹn Tánh
Không, bên trong sự thực hiện Tánh Không đó sẽ không còn một bất cứ một sự
nhận thức nào liên quan đến nguồn gốc tương liên của mọi sự vật nữa (câu này rất quan trọng: hiểu được Tánh Không
chẳng có ích lợi gì cả, thí dụ như xếp quyển sách này lại thì chúng ta quên
hết, đâu vẫn hoàn đấy. Đạt được hay thực hiện được Tánh Không hoàn hảo có nghĩa
là sau khi xếp quyển sách lại thì chúng ta bỗng nhìn thấy thế giới này và cả
chính mình đều trở nên khác đi, có nghĩa là chúng ta tháo gỡ được tất cả mọi sự
tương tác giữa nguyên nhân và điều kiện, nói một cách khác là "phá
vỡ" mọi hiện tượng cấu hợp và không còn cảm nhận được bất cứ một hình thức
tương liên, tương kết và tương tạo nào nữa. Tất cả mọi hiện tượng dưới các thể
dạng hình tướng đều "biến mất". Một bầu không gian trống không, trong
sáng và thanh thản mở ra chung quanh chúng ta). Trong tập Giản Yếu về kinh sách Sou-tra (Sutrasamuccaya,
một tập luận của Long Thụ) có nêu lên lời của Đức Phật dạy rằng trong khi thiền
định về Tánh Không nếu có bất cứ một chút ý nghĩ mang tính cách khẳng định nào
hiện ra - thí dụ như "cái này là Tánh Không" hay là "các sự vật
phải hiện hữu" - thì cũng đủ khiến cho chúng ta vướng vào sự bám víu.
Trong khi thiền định về Tánh Không tất cả những gì chất chứa trong sự nhận thức
của mình phải hoàn toàn tan biến vào một thể dạng phủ định (negation) tinh
khiết nhất, tức là sự vắng mặt của sự hiện hữu nội tại. Không nên để cho bất cứ
một mảy may yếu tố mang tính cách khẳng định nào có thể hiện ra trong khi thiền
định .
Tuy nhiên, khi nào
quý vị đã đạt được sự hiểu biết sâu xa về Tánh Không thì quý vị cũng sẽ đạt
được một cấp bậc mà các ý niệm về chính sự hiện hữu của quý vị cũng sẽ trở nên
khác đi. Quý vị sẽ nhận thấy một sự khác biệt rõ rệt trong các cách phản ứng
của mình đối với các đối tượng quen thuộc từ trước, và cả trong sự cảm nhận của
mình đối với các đối tượng ấy nữa (một cách vắn tắt và cụ thể là
khi nào chúng ta đạt được một sự hiểu biết sâu xa về Tánh Không thì sự nhận
định của mình đối với những người mà trước đây mình hận thù, ghét bỏ, thương
yêu và bám víu... cũng sẽ trở nên khác đi, và cả sự cảm nhận cũng như cách hành
xử của mình đối với họ cũng sẽ khác hơn truớc). Quý vị sẽ nhận thấy được bản chất của các đối
tượng ấy cũng chẳng khác gì như ảo giác. Khi nào quý vị quán nhận được là dù
mọi sự vật tuy có vẻ như vững chắc và tự chủ thế nhưng thật ra chúng không hề
hiện hữu đúng như thế, thì đấy cũng có nghĩa là quý vị đã thật sự đạt được một
sự hiểu biết về Tánh Không bằng kinh nghiệm của chính mình. Quý vị sẽ quán nhận
được các vật thể cũng chẳng khác gì như
ảo giác. Thật vậy, khi nào đã thực hiện được Tánh Không một cách sâu xa thì
quý vị cũng không cần phải cố gắng nhiều mới có thể nhận biết được các sự vật
trong thể dạng đó: chúng tự động hiện ra với chúng ta như hàm chứa bản chất ảo
giác một cách thật tự nhiên.
Nếu sự hiểu biết của quý vị ngày càng thâm sâu hơn và trở thành một kinh
nghiệm cảm nhận hoàn hảo về Tánh Không, thì quý vị cũng sẽ càng có nhiều khả
năng hơn để quán nhận được Tánh Không của mọi hiện tượng bằng cách chỉ đơn giản
liên tưởng đến nguồn gốc tương liên của chúng. Hơn nữa, một sự quán nhận càng
minh bạch về Tánh Không sẽ càng làm gia tăng thêm sự tin tưởng của quý vị về sự
vững chắc của quy luật nguyên nhân hậu quả. Sự hiểu biết về Tánh Không và nguồn
gốc tương liên (của mọi sự vật) sẽ cùng hỗ trợ cho
nhau và sẽ giúp quý vị bước một bước thật dài trên con đường thực hiện (sự Giác Ngộ).
Khi đó quý vị cũng
có thể nghĩ rằng rồi đây khi sự hiểu biết của mình trở nên sâu xa hơn nữa nhờ
vào cách suy nghĩ trên đây thì mình cũng sẽ đạt được một cấp bậc thực hiện thật
cao giúp nhận biết được là mình đã tiến đến thật gần với sự Giác Ngộ hoàn hảo!
Thế nhưng chưa phải là trường hợp của quý vị hiện nay đâu. Trong những bước đầu
tiên trên "con đường tích lũy"
(có nghĩa là tu giới: gom góp những điều xứng đáng và đạo
hạnh) sự hiểu biết Tánh
Không của quý vị còn phải dựa vào sự suy diễn. Nếu muốn cho sự hiểu biết ấy trở
nên thâm sâu hơn thì quý vị còn phải phát huy thêm một yếu tố tinh thần khác
nữa: đấy là khả năng tập trung tâm thức vào một điểm duy nhất. Dù rằng có thể
khởi sự ngay cách tập trung tâm thức vào một điểm nhờ vào một trong các phép
suy luận phân giải (tập trung sự suy tư vào một chủ đề duy
nhất: tìm hiểu Tánh Không chẳng hạn), tuy nhiên cũng có thể là sẽ dễ dàng và hữu hiệu hơn nếu quý vị bắt đầu
bằng các phép luyện tập mang lại cho mình một sự thăng bằng tâm thức trước đã,
và sau đó thì mới suy tư về bản chất trống không của các hiện tượng. Dầu sao
thì cũng phải đạt được sự tĩnh lặng tâm thần (tức là sự tĩnh
lặng, thăng bằng và thanh thản của tâm thức gọi là samatha, kinh sách gốc Hán
ngữ gọi là "chỉ". Phép thiền định này sẽ giúp mang lại sự an bình
trong tâm thức và làm gia tăng sự chú tâm, và hoàn toàn khác với phép thiền
định phân giải giúp phát huy trí tuệ). Khi nào đạt được thể dạng đó thì sự thăng bằng hiện ra trong trong tâm
thức sẽ giúp quý vị thiền định về Tánh Không dễ dàng hơn. Và đấy cũng có nghĩa
là quý vị đã thành công trong việc phối hợp giữa sự tĩnh lặng tâm thần
(samatha) và sự quán thấy siêu đẳng (tiếng Phạn là vipasyana /
tiếng Pa-li là vipassana / kinh sách gốc Hán ngữ gọi là "quán" / có
nghĩa là sự quán thấy đúng đắn về hiện thực mang lại từ phép thiền định phân giải).
Đến đây có thể nói là quý vị đã đi hết "con
đường chuẩn bị". Bắt đầu từ giai đoạn này quý vị sẽ nhận thấy các biểu
hiện nhị nguyên (tức là những ý
nghĩ liên hệ đến chủ thể và đối tượng) dần dần giảm bớt di trong
khi thiền định về Tánh Không. Quá trình này sẽ đạt được một cấp bậc tối thượng
khi nào quý vị thực hiện được Tánh Không một cách trực tiếp và hoàn toàn
phi-khái-niệm. Thể dạng hoàn toàn thoát khỏi tính cách nhị nguyên và mọi sự bám
víu vào sự hiện hữu tự tại ấy sẽ được gọi là "con đường đích thật". Khi đã bước được vào con đường này
thì quý vị sẽ trở thành một thánh nhân (arya), có nghĩa là một "người cao
quý".
Con đường đích thật tất sẽ giúp đạt được sự đình chỉ đích thật - có nghĩa
là sự chấm dứt của các thể dạng tâm thức sai lầm và bấn loạn ở một mức độ nào
đó. Chính trong thể dạng ấy và nhờ vào các kinh nghiệm tu tập chúng ta sẽ trực
tiếp quán nhận được Đạo Pháp (Dharma), tức là một trong ba đối tượng của tam
quy (Phật, Đạo Pháp và Tăng Đoàn): duy nhất chỉ có cấp bậc này mới hội đủ
cơ may giúp chúng ta đón nhận viên bảo châu Đạo Pháp. Tuy nhiên sẽ còn nhiều
giai đoạn khác nữa trên con đường mà chúng ta phải vượt qua để đạt được sự Giác
Ngộ hoàn hảo. Trên hai đoạn đường đầu tiên là "con đường tích lũy" và "con đường chuẩn bị" thì việc gom góp những điều xứng
đáng thuộc vào khoảng thời gian bao la và
vô lượng kiếp (eon) thứ nhất có thể xem như là đã hoàn tất. Khi nào vượt
được bảy địa giới đầu tiên (thập địa hay dasabhumi là một
khái niệm của Đại Thừa, gồm có tất cả mười địa giới. Người bồ-tát sau khi đã
hoàn tất hai đoạn đường đầu tiên là con đường tích lũy đạo hạnh và con đường
chuẩn bị sẽ có thể được xem là đã bắt đầu bước được vào địa giới thứ nhất. Địa
giới này gọi là "con đường quán thấy", tám địa giới còn được gọi
chung là "con đường thiền định" gồm các cấp bậc thăng tiến tuần tự.
Phía sau địa giới thứ mười là "con đường không còn gì để học hỏi
nữa", có nghĩa là bắt đầu từ địa giới thứ mười này người bồ-tát có thể
"bước" thẳng vào thể dạng Giác Ngộ) thì người bồ-tát sẽ hoàn tất được những điều xứng
đáng thuộc vào khoảng thời gian bao la và
vô lượng kiếp thứ hai. Bắt đầu từ địa giới thứ tám người bồ-tát sẽ loại bỏ
được tất cả các tư duy và xúc cảm bấn loạn. Sau đó ngưòi bồ-tát sẽ tuần tự trải
qua các địa giới cuối cùng - tức là các địa giới thứ tám, chín và mười - các
địa giới này được gọi chung là các địa
giới tinh khiết, bởi vì trong các địa giới này sẽ không còn sót lại bất cứ
một sự căng thẳng nào gây ra từ các tư duy bấn loạn nữa. Sau khi vượt hết ba
địa giới cuối cùng này thì người bô-tát cũng sẽ hoàn tất được sự gom góp những
điều xứng đáng thuộc vào khoảng thời gian
bao la và vô lượng kiếp thứ ba. Quý vị thấy đó, nếu muốn đạt được sự Giác
Ngộ hoàn hảo thì phải cần đến ba thời gian tu tập thật dài!
Ở vào địa giới thứ mười của người bồ-tát chúng ta sẽ phát huy được một trí
tuệ cực mạnh về Tánh Không, và trí tuệ đó sẽ tác động như một liều thuốc hoá
giải nhằm loại trừ các sơ đồ (schéma / scheme / các định
kiến và khái niệm đã trở thành thói quen) và xu hướng cũng như các vết hằn tạo ra bởi những
thứ xúc cảm bấn loạn trong quá khứ và các thể dạng tâm thức sai lầm của chúng
ta (nói chung là xóa bỏ được các dấu vết của nghiệp ghi
khắc trên dòng tiếp nối của tâm thức mình), và nhờ đó chúng ta sẽ đạt được sự hiểu biết toàn
năng, tức là Phật Tính (thành Phật).
Lòng
nhiệt tâm thật cần thiết cho việc tu tập và phát huy nghị lực
Như quý vị đã thấy, có cả một "kế hoạch" được quy định hẳn hoi
nhằm mang lại sự Giác Ngộ hoàn hảo. Quý vị không cần phải dọ dẫm trong bóng
tối, không một điểm chuẩn nào. Toàn bộ con đường đã được vạch ra đầy đủ và cũng
được nêu lên từng giai đoạn, tương quan với việc tích lũy những điều xứng đáng
trong suốt ba khoảng thời gian bao la và vô lượng kiếp. Là người tu tập quý vị
phải ý thức được điều đó, và nhất là phải nhìn vào đấy để phát huy sự quyết tâm
và lòng nhiệt thành sâu xa của mình khi bước vào con đường tâm linh. Nếu quý vị
ghép thêm con đường Kim Cương Thừa (Vajrayana) vào sự tu tập của mình thì đấy
sẽ là một việc rất lành mạnh, giúp cho việc tu tập của quý vị được vững vàng
hơn.
Ngược lại, nếu khi nghĩ đến việc tu tập sẽ kéo dài trong ba khoảng thời
gian bao la và vô lượng kiếp khiến cho mình cảm thấy thối chí và cứ muốn tìm
một con đường khác dễ dàng hơn chẳng hạn như nhờ vào phép tu tập tan-tra (tức là phép tu tập của Kim Cương Thừa. Kim Cương
Thừa chủ trương việc tu tập có thể giúp trở thành Phật trong kiếp sống hiện
tại, hoặc sau một hay vài lần tái sinh) thì nhất định thái độ đó
không đúng đắn lắm, hơn nữa nó còn cho thấy sự dấn thân của quý vị trên đường
tu tập Đạo Pháp chưa được vững vàng lắm. Điều chủ yếu nhất chính là ý nguyện
bước vào con đường tu tập và nghị lực phản ảnh lòng quyết tâm tạo ra cho mình
các điều kiện thuận lợi hầu giúp mình đạt được sự Giác Ngộ hoàn hảo, dù phải
trải qua ba khoảng thời gian bao la và vô lượng kiếp. Nếu quý vị bước vào con
đường Kim Cương Thừa với lòng quyết tâm đó thì việc tu tập của quý vị mới có
thể gọi là vững chắc và mạnh mẽ được. Nếu không thì cũng chẳng khác gì như
quý vị xây dựng một tòa lâu đài mênh mông trên một nền móng thiếu vững chắc.
Thật vậy không có một chút nghi ngờ nào cả, con đường tu tập tan-tra hàm chứa
một chiều sâu thật lớn, thế nhưng thừa hưởng được chiều sâu ấy hay không thì
tất cả còn tùy vào khả năng của từng quý vị đấy.
Tất nhiên là những gì tôi nêu lên là chỉ dựa vào sự nhận định của riêng
tôi. Chính tôi cũng đã từng nghĩ rằng ba khoảng thời gian bao la kéo dài vô
lượng kiếp quả là quá dài. Tôi cảm thấy khó có thể chấp nhận được khoảng thời
gian vô biên đó, trong khi ấy thời gian cần thiết giúp mang lại sự Giác Ngộ do
Kim Cương Thừa nêu lên có vẻ hợp lý hơn. Viễn ảnh mang lại kết quả nhanh chóng
của con đường Kim Cương Thừa tất nhiên cho thấy một sự thu hút khá mạnh nào dó.
Thế nhưng các cảm tính của tôi trước đây nhất là đối với khoảng thời gian bao
la kéo dài vô lượng kiếp cũng đã dần dần biến đổi. Từng chút một tôi có cảm
giác bị thu hút ngày càng nhiều hơn bởi bối cảnh của ba khoảng thời gian vô
biên ấy. Thế rồi tôi cảm thấy mình dần dần nghiêng nhiều hơn về cách tu tập dựa
vào kinh sách sou-tra (tức là
kinh sách bằng tiếng Pa-li của Tiểu Thừa, đại diện ngày nay bởi Phật Giáo
Theravada), và tôi cũng bắt đầu thật sự nhận thấy các hiệu quả lớn lao mang lại từ
phép tu tập ấy nhằm phát động lòng quyết tâm sâu xa nơi người tu tập giúp họ
bước vào con đuờng tâm linh.
BÌNH
GIẢI
Tập
trung sự chú tâm vào tánh không của giác cảm
Sau đây là phép thiền định gọi là "chú tâm vào giác cảm":
Tiết
88. Nếu sự đau đớn mang một sự hiện hữu đích thật (tức có nghĩa là thuờng xuyên) thì tại sao nó lại không tác
động đến những kẻ đang hân hoan? Nếu hạnh phúc hiện hữu một cách thật sự thì
tại sao một món ăn tuyệt hảo không mang lại một chút thích thú nào cho một
người đang lo buồn?
Tiết
89. Có phải người ta vẫn thường nói rằng thích thú và đớn đau không thể nhận
biết được bởi vì chúng bị che lấp bởi những thứ giác cảm khác mạnh hơn? Thế
nhưng làm thế nào có thể gọi là giác cảm khi chúng mang đặc tính không nhận
biết được?
Tiết
90. Có phải người ta thường viện dẫn lý do là đớn đau luôn là một thể dạng tinh
tế và chỉ riêng có thể dạng phát lộ của nó thì mới bị che khuất bởi những thứ
giác cảm khác mạnh hơn?
Tiết
91. Nếu sự đau đớn không phát lộ được khi có một giác cảm khác đối nghịch lại
với nó, thế nhưng vẫn cứ xem nó là
"giác cảm" thì đấy có phải là một sự xác nhận không cần thiết (affirmation gratuite / unfounded affirmation / dư thừa) hay
chăng?
Nếu các cảm nhận
khổ nhọc và đớn đau hiện hữu một cách độc lập và không lệ thuộc vào các yếu tố
khác thì những cảm nhận hân hoan tất sẽ không thể nào có thể xảy ra được (sự khổ đau mang tính cách thường xuyên và nội tại là những xúc cảm rất
mạnh và sẽ che lấp mọi cảm nhận hân hoan). Cũng thế nếu hạnh phúc hiện hữu một cách độc lập
thì nó sẽ phải ngăn chận sự xuất hiện của lo buồn, đớn đau và bịnh tật. Tóm
lại, nếu các thứ giác cảm hân hoan và thích thú hiện hữu một cách nội tại, thì
một người nào đó dù đang phải đương đầu với những việc đau buồn hay những đớn
đau thật gay gắt vẫn có thể tìm thấy sự thích thú trong các món ngon và những
tiện nghi vật chất, một sự thích thú mà họ vẫn thường cảm thấy trong những lúc
bình thường.
Trong phạm vi mà sự
cảm nhận, (sensation) theo cách hiểu thông thường thuộc vào lãnh vực giác cảm,
thì nó chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên đới với một số cảnh huống nào đó.
Thật vậy qua một số trường hợp và nhờ vào các kinh nghiệm riêng của mình, đôi
khi chúng ta cũng có thể nhận thấy được là các giác cảm cũng có thể hóa giải
lẫn nhau. Chẳng hạn như khi chúng ta đang lâm vào cảnh buồn khổ thật ray rứt,
thì sự buồn khổ đó cũng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ sự sinh hoạt của mình và không
cho phép mình phát lộ được một mảy may hân hoan nào. Cũng thế, khi chúng ta cảm
thấy hân hoan tột độ thì niềm hân hoan đó sẽ chi phối toàn bộ sự cảm nhận của
mình trong lúc ấy, đến độ dù có xảy đến những tin buồn hay những chuyện rủi ro
thì chúng cũng không thể gây ra cho mình những lo buồn quá đáng.
Thế nhưng nếu chúng
ta cứ nhất quyết bám víu vào ý nghĩ cho rằng tất cả các thực trạng ấy phát sinh
từ một sự kiện nào đó mang tính cách độc lập (tức là hiện hữu
một cách đích thật và nội tại) gọi là "giác cảm"
(sensation) thì những người Trung Quán sẽ bảo với chúng ta rằng: "Thế
nhưng chẳng phải là sự kiện ấy cũng chỉ là những gì lệ thuộc vào các yếu tố
khác, chẳng hạn như các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh ra nó hay
sao?". Vì thế ý nghĩ về một thứ giác cảm độc lập chỉ là một sự giả tưởng,
một sản phẩm tưởng tượng (fantaisie / fancy,
imagination). Không có
một thứ giác cảm nào hiện hữu một cách độc lập, dù đấy là thích thú, đớn đau
hay trung hòa: tóm lại là không có một thứ giác cảm nào có thể lọt ra ngoài bản
chất của một trong số ba sơ đồ đó của sự hiện hữu (tuy bản chất của
giác cảm thật hết sức đơn giản - tích cực, tiêu cực hoặc trung hòa - thế nhưng
nguyên nhân tạo ra chúng và hậu quả do chúng gây ra thì lại thật đa dạng và
phức tạp, kể cả đối với trường hợp của giác cảm "trung hòa". Đối với
thời gian cũng thế, nó chỉ có quá khứ, hiện tại và tương lai thế nhưng chúng ta
đem ghép nó vào đủ mọi thứ vật thể và sự kiện dể rồi chúng mang lại cho chúng
ta đủ mọi thứ xúc cảm bấn loạn).
Sau khi nêu lên sự vắng mặt của sự hiện hữu nội tại nơi mọi hiện tượng,
Tịch Thiên khuyên chúng ta phải biết lợi dụng sự quán thấy ấy bằng cách xem nó
như là một liều thuốc hoá giải giúp mình loại bỏ mọi sự bám víu vào ý niệm về
một sự hiện hữu đích thật - trong trường hợp trên đây là ý niệm về các giác
cảm hàm chứa một thực tại cụ thể và độc
lập.
Tiết 92. Vì thế nên liều thuốc
hoá giải sự hoang mang ấy chính là phép thiền định phân giải. Sự suy nghiệm mọc
cao từ mảnh đất của sự phân giải sẽ là thực phẩm nuôi dưỡng người tu tập.
Việc thiền định về Tánh Không của các giác cảm (sự trống không hay tính cách vô-thực thể và
"vô căn cứ" của các giác cảm) cũng chẳng khác gì như nhiên
liệu làm bùng lên sự quán thấy thượng thặng về Tánh Không. Ngay trong những
dòng khởi đầu chương IX, Tịch Thiên cũng đã cho biết rằng trước hết phải tập
trung tâm thần vào một điểm duy nhất với mục đích mang lại cho mình một tâm
thức an bình, và sau đó thì mới phát huy sự quán thấy thượng thặng. Khi nào kết
hợp được sự an bình tâm thần và sự quán thấy thượng thặng thì người hành thiền
mới có thể thực hiện được các phép luyện tập du-già thật thâm sâu (tức là các cách thiền định dựa vào các kỹ thuật
chuyên biệt của Kim Cương Thừa) hướng vào Tánh Không. "Thực phẩm nuôi dưỡng
người du-già" (người hành thiền) phản ảnh từ khả năng
tập trung sự thiền định Tánh Không về các giác cảm (phẩm chất của thực phẩm nuôi dưỡng người du già liên quan đến khả năng và
trình độ của người ấy khi thiền định về Tánh Không của các giác cảm).
Tóm lại giác cảm phát sinh từ sự tiếp xúc, nếu nói cách khác thì sự tiếp
xúc chính là nguyên nhân của giác cảm (ngũ giác
"tiếp xúc" với các đối tượng của chúng như âm thanh, hình tướng, mùi,
vị... và sẽ làm phát sinh ra các giác cảm như: nghe thấy, trông thấy, ngửi
thấy, nếm thấy..., trong tâm thức thì giác quan thứ sáu là tri thức sẽ
"tiếp xúc" với tư duy và sự tiếp xúc đó sẽ làm phát sinh ra sự cảm
nhận dưới hình thức các sự diễn đạt hay xúc cảm bên trong tâm thức).
Tiết
93. Nếu cơ quan giác cảm bị ngăn cách với đối tượng của nó bởi một khoảng cách
thì sẽ không thể nào có sự tiếp xúc được? Vậy nếu không có một khoảng cách nào
thì cả hai (cơ quan giác cảm và đối tượng)
sẽ trở thành một đơn vị duy nhất: vậy cái nào sẽ tiếp xúc với cái nào?
Tuy nhiên nếu sử dụng sự phân tích nhằm tìm kiếm xem sự tiếp xúc làm
phát sinh ra giác cảm thật sự ở đâu, thì tất nhiên chúng ta sẽ nhận thấy nó
không hề hiện hữu trên phương diện tuyệt đối (nó chỉ mang tính
cách cấu hợp và tạm thời). Tiết trên đây nêu lên sự phân tích về bản chất của sự tiếp xúc. "Tiếp xúc" là một yếu tố tâm
thần và được định nghĩa như là một điểm hội tụ giữa khả năng giác cảm và đối
tượng của nó. Sự tiếp xúc sẽ xảy ra khi tri thức, đối tượng và khả năng giác
cảm kết hợp với nhau. Tịch Thiên nêu lên câu hỏi sau đây: "Nếu có một
khoảng cách không gian phân cách các giác quan và các đối tượng cảm nhận thì sự
tiếp xúc làm thế nào có thể xảy ra được?" Thí dụ nếu có hai hạt nguyên tử
dính vào nhau trên tất cả các mặt thì hai nguyên tử ấy bắt buộc phải hoà lẫn
với nhau, và sẽ không thể nào phân biệt được là có hai thành phần khác nhau.
Vậy các tiết sau đây sẽ nói lên điều gì:
Tiết 94. Một hạt nguyên tử (của cơ quan giác cảm) không thể sáp nhập được vào một hạt nguyên tử (của đối tượng), bởi vì
các hạt nguyên tử không có chỗ nào trống để tiếp nhận một sự thâm nhập, và
chúng đều có kích thước như nhau (vào thời
bấy giờ người ta cho rằng vật chất được hình thành bởi sự kết hợp của các hạt
nguyên tử cực vi và đồng nhất, do đó chúng không có "chỗ trống" nào
để tiếp nhận một sự thâm nhập hay tiếp xúc khác từ bên ngoài nó). Vì không thể thâm nhập vào nhau nên chúng không thể hòa
lẫn với nhau được, và ít ra vì lý do không thể hòa lẫn với nhau nên chúng cũng
sẽ không thể tiếp xúc với nhau.
Tiết 95. Làm thế nào có thể xảy ra sự tiếp xúc đối với
một thứ gì đó không hàm chứa một thành phần nào cả? Nếu có trường hợp nào cho
thấy sự tiếp xúc có thể xảy ra với một thứ gì đó không có kích thước (vô hình tướng), thì
hãy nêu lên xem?
Tịch Thiên lại nói tiếp như sau: người ta có thể đẩy sự lý luận xa
hơn nữa: trong phạm vi mà tri thức mang tính cách phi-vật-chất thì làm thế nào
chúng ta có thể sử dụng thuật ngữ "tiếp xúc" được, bởi vì sự tiếp xúc
chỉ có thể xảy ra với những gì mang tính cách vật chất? Tịch thiên lại tiếp tục
nêu lên câu hỏi như sau: "Cái gì sẽ tạo ra sự tiếp xúc với tri thức?"
(xin hiểu bản chất của tri thức là không hình tướng và
phi-vật-chất).
Tiết
96. Vì lý do tri thức không hình tướng nên không thể tạo ra sự tiếp xúc được.
Một tổng thể gồm tri thức, cơ quan giác cảm và đối tượng như đã được trình bày
trên đây, sẽ không mang một thực thể nào cả.
Tiết 97. Nếu không có sự tiếp xúc thì làm thế nào giác
cảm (sensation) có thể xảy ra được? Vậy thì tự hành hạ mình để làm gì? (có nghĩa là bám víu vào những thứ "tiếp xúc" mang tính các không
thực sẽ chỉ là cách mang lại khổ đau cho mình mà thôi). Khổ đau làm thế
nào có thể sinh ra được và cũng chẳng có ai để mà dập tắt nó?
(các tiết từ 93
đến 97 trên đây nêu lên một cách lập luận hoàn toàn thuộc lãnh vực triết học siêu
hình. Quả đấy cũng không phải là một điều khó hiểu bởi vì khi tập Hành Trình
đến Giác Ngộ được trước tác cách nay mười ba thế kỷ thì các kiến thức khoa học
như ngày nay chưa thành hình. Nhờ vào các khám phá khoa học nên sự "tiếp
xúc" giữa cơ quan giác cảm và các "đối tượng" của chúng đã trở
nên dễ hiểu hơn nhiều đối với chúng ta ngày nay. Thí dụ như trường hợp thị
giác: các tia ánh sáng khúc xạ phản chiếu từ "đối tượng" - một hình
tướng nào đó - xuyên qua con ngươi và thủy tinh thể và khích động các tế bào
nhạy sáng của võng mạc, các tế bào này sẽ tạo ra các tín hiệu điện. Các tín
hiệu ấy sẽ được truyền lên não bộ nhờ các dây thần kinh thị giác. Não bộ nhận
được các tín hiệu điện truyền lên từ mắt sẽ " diễn đạt" các tín hiệu
này thành các hình ảnh "tâm thần". Do đó sự "tiếp xúc" là
một quá trình phức tạp nhờ vào nhiều yếu tố trung gian, chẳng hạn như tia sáng
khúc xạ từ đối tượng, con ngươi, thủy tinh thể, võng mạc, tín hiệu điện,
v.v...Sự "tiếp xúc" đó tất nhiên là một sự "cấu hợp", và vì
thế nên nó không mang một thực thể nào, cũng không hàm chứa một sự hiện hữu độc
lập và nội tại nào cả! Tuyệt vời thay và đáng để khâm phục thay một sự lập luận
được nêu lên cách nay mười ba thế kỷ và chỉ căn cứ vào các luận cứ siêu hình,
thế nhưng đã đưa ra những kết luận không trái ngược lại với sự hiểu biết khoa học ngày nay, và hơn thế nữa
còn đưa ra một cách giải thích thật sâu sắc về khái niệm Tánh Không của giác
cảm giúp chúng ta tránh khỏi những khổ đau do chúng gây ra).
Ai sẽ phải gánh chịu những cảm nhận đau đớn trong phạm vi không có
bất cứ một thứ gì có thể được xem là "giác cảm đớn đau hàm chứa một sự
hiện hữu tuyệt đối?". Vì thế khi phân tích sự tiếp xúc - tức nguyên nhân
tạo ra giác cảm - và tìm hiểu bản chất của giác cảm thì chúng ta sẽ chẳng tìm
thấy một thứ giác cảm nào, cũng như một thứ cảm tính (sentiment / feeling) nào
hàm chứa một sự hiện thực nội tại. Vì thế người ta có thể kết luận rằng giác
cảm và các thứ cảm tính chỉ có thể hiện hữu bằng cách lệ thuộc vào các yếu tố
khác, và sẽ chẳng có gì có thể hiện hữu một cách độc lập và nội tại cả.
Sự phân tích trên
đây đưa đến một kết luận thật quan trọng: không có người cảm nhận và cũng không
có đối tượng - tức là giác cảm - nào hiện hữu một cách thật sự cả. Một khi đã
hiểu được sự thật đó thì thật hết sức hữu lý là phải tránh mọi sự thèm muốn,
cách lập luận này sẽ được tóm lược trong tiết dưới đây:
Tiết
98. Bởi vì không có chủ thể cảm nhận, cũng không có giác cảm (tất cả chỉ là Tánh Không), tham vọng ơi, trước cảnh đó tại sao mi
không biến đi cho rồi?
Mỗi khi suy tư về
bản chất của giác cảm thì thử hỏi chúng ta có tìm thấy được một luận cứ nào
chứng minh là giác cảm và các thứ cảm tính có thể bùng lên và hàm chứa một sự
hiện hữu độc lập hay chăng? Tri thức - hay tâm thức - xảy ra cùng lúc với giác
cảm nên không thể nhận biết được là giác cảm đó có mang tính cách đích thật và
tự chủ hay không (tri thức chỉ phát sinh khi tiếp xúc
với đối tượng của nó, hai thứ kết hợp với nhau trong cùng một thời điểm để làm
phát sinh ra giác cảm đưa đến sự nhận thức hay "hiểu biết", đấy chỉ
là một sự tương tác giữa chủ thể và đối tượng, do đó tri thức với tư cách là
chủ thể không thể biết được đối tượng của nó có mang bản chất nội tại và tự chủ
hay không. Ghi chú trên đây về thị giác cho thấy rằng thì tri thức - hay não bộ
- chỉ diễn đạt các tín hiệu điện truyền lên từ mắt, do đó nó không thể biết
được những gì xảy ra trước và sau khi nhận được các tín hiệu ấy, nói cách khác
là tri thức không thể biết được đối tượng của nó có "đích thật" và
mang tính cách "nội tại" hay không).
Tiết
99. Người ta trông thấy, sờ thấy: thế nhưng tất cả những thứ ấy cũng chỉ tương
tự như ảo giác, như một giấc mơ. Vậy thì làm thế nào tư duy có thể nhận biết
được giác cảm khi cả hai xảy ra cùng một lúc với nhau?
Tiết
100. Nếu cái này (tư duy)
xảy ra sau cái kia (giác cảm)
thì đấy là trí nhớ, không phải là một kinh nghiệm cảm nhận trực tiếp (trong trường hợp này nên hiểu tri thức là một dòng tiếp nối gồm các đơn vị
thời gian. Tri thức chỉ xảy ra khi tiếp xúc với đối tượng, do đó nếu tri thức
xảy ra sau sự tiếp xúc ấy thì có nghĩa là nó tiếp xúc với một đối tượng khác -
trong trường hợp trên đây "đối tượng khác" ấy là một vết hằn của
nghiệp tạo ra bởi sự tiếp xúc giữa tri thức và đối tượng vừa xảy ra trước đó.
Vì thế sự tiếp xúc thứ hai xảy ra sau sẽ làm phát sinh ra một sự cảm nhận hay
giác cảm gọi là "trí nhớ", nói cách khác là hai tri thức thuộc hai
thời điểm là hai tri thức hoàn toàn khác nhau, thế nhưng vẫn thuộc vào một dòng
luân lưu chung của tri thức). Do đó giác cảm không thể tự nhận biết
được nó, và đồng thời cũng không thể được nhận biết bởi một thứ gì khác (có nghĩa là cả hai phải lệ thuộc vào nhau bởi sự tiếp xúc, khoa học ngày
nay cho biết đấy là tác động của các tín hiệu điện khi "tiếp
xúc" với các tế bào thần kinh của
não bộ).
Tiết
101. Nếu không có chủ thể nhận biết thì giác cảm cũng sẽ không thật sự hiện hữu
(thí dụ chúng ta đang suy nghĩ về một
việc gì đó hay trong tình trạng tâm thần xao động thì những gì xảy ra trước mắt
cũng không hay biết, đối với một người hành thiền thì họ vẫn ý thức được bối
cảnh chung quanh một cách thật minh bạch và trong sáng thế nhưng ngoại cảnh
không phải là đối tượng chú tâm của họ nên không tạo ra một tác động nào đối
với họ. Trong cả hai trường hợp đó, một người bị phân tâm và một người hành
thiền thật cảnh giác, sẽ không xảy ra "chủ thể" nhận biết và
"đối tượng" được nhận biết, do đó giác cảm sẽ không có. Đối với người
bị phân tâm thì họ không cảm nhận được đối tượng trước mắt, đối với người hành
thiền thì người này vẫn "nhận thấy đối tượng" thế nhưng đối tượng không
gây ra sự "tiếp xúc" và "giác cảm" nào đối với họ.
Vậy nếu người hành thiền không nhận
biết đối tượng thì làm thế nào giác cảm có thể phát sinh và gây ra tổn hại cho
một cấu hợp không hàm chứa "cái tôi" của một người hành thiền).
Không có một khoảnh khắc tri thức nào xảy ra trước
giác cảm, cũng không có một khoảnh khắc tri thứ nào xảy ra sau giác cảm, lại có
thể nhận biết được giác cảm ấy (các tế bào thần kinh thuộc não
bộ chỉ bị kích thích đúng vào lúc chúng nhận được các tín hiệu điện đưa lên từ
các cơ quan giác cảm, những gì xảy ra sau chỉ là trí nhớ). Những khoảnh khắc xảy ra trước giác cảm
không còn là hiện tại nữa, và chúng chỉ tồn lưu dưới hình thức những vết hằn
phát sinh vào đúng lúc giác cảm xảy ra (tức là các dấu
vết của nghiệp ghi khắc trên dòng luân lưu của tri thức). Và trong những khoảnh khắc tri thức xảy
ra sau giác cảm thì chỉ còn lưu lại các đối tượng của trí nhớ (tức là các dấu vết của nghiệp). Hơn nữa sẽ không còn có bất cứ một người nào cảm nhận giác cảm đó đúng
nguyên như thế nữa (tri thức đã đổi khác do đó "con
người" cũng đổi khác, trong khi đó thì đối tượng của giác cảm cũng đã đổi
khác và đã trở thành các vết hằn của nghiệp). Chúng ta có thể kết luận rằng không có một giác
cảm nào cũng như không có một cảm tính nào hàm chứa một thực thể độc lập. Phép
thiền định gọi là "sự chú tâm vào giác cảm" có thể được xem là chấm
dứt với câu kết luận trên đây (xin chắp tay kính phục những
lời thuyết giảng vô cùng thâm sâu).
Chú
tâm vào Tánh Không của tâm thức
Tiếp theo đây là phép thiền định gọi là "sự chú tâm vào Tánh Không của
tâm thức". Phép thiền định này bắt đầu bằng việc phủ nhận thực thể nội tại
và độc lập của tri thức.
Tiết
102- Tâm thức không nằm bên trong các cơ quan giác cảm, cũng không nằm bên
trong đối tượng của các cơ quan ấy, cũng không nằm ở khoảng cách giữa hai thứ
ấy. Tâm thức không thuộc vào bên ngoài, không thuộc vào bên trong, cũng không
thuộc vào bất cứ một nơi nào khác.
103-
Những gì không nằm bên trong thân xác, không thuộc vào bất cứ một nơi nào khác
và cũng không phải là biệt lập, sẽ chẳng mang một ý nghĩa nào cả. Vì thế nên từ
bản chất, tất cả chúng sinh đều ở trong thể dạng niết bàn (thế nhưng tiếc thay chúng sinh nào có hiểu được điều ấy và cứ tiếp tục
xuay vần với chủ kỳ hiện hữu!).
Tâm thức không thể
nằm bên trong thân xác với tư cách là thân xác, hay là ở vào một nơi nào khác
ngoài hai thứ ấy; nó cũng không thể hiện hữu độc lập với thân xác. Tóm lại là
không sao có thể tìm thấy được tâm thức ở vào bất cứ một vị trí nào cả: vì thế
nên nó không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại. Và khi nào chúng sinh nhận biết
được bản chất đó của tâm thức thì sự giải thoát sẽ hiện ra với họ (khi nào vẫn còn bị ám ảnh bởi "cái tôi", "cái ngã",
"vong linh" hay "linh hồn" thì mình vẫn còn bị nô lệ và tự
tạo ra mọi thứ khổ đau cho mình, và tiếc thay cho cả những nguời khác nữa).
Dầu chúng ta tin
rằng tri thức có hiện hữu đi nữa, thế nhưng nếu phân tích nó và tìm cách xác
định vị trí của nó thuộc đúng vào những khoảnh khắc xảy ra trước hay sau nó
trên dòng tiếp nối liên tục của chính nó, thì sự nhận thức của chúng ta xem nó
như là một thể tính độc nhất (entité unitaire / unit entity) sẽ biến mất ngay, tương tự như khi phân
tích về thân xác (đầu không phải là thân xác, tay không
phải là thân xác..., và nếu cứ tiếp tục phận tích đến chỗ tột cùng thì sẽ không
còn thấy thân xác đâu nữa). Cách suy luận đó sẽ giúp chúng ta khám phá ra sự vắng mặt của sự hiện hữu
nội tại của tri thức. Chúng ta có thể xử dụng cách phân tích trên đây đối với
các kinh nghiệm cảm nhận thuộc lãnh vực giác
cảm trong phạm vi mà chúng có cùng một bản chất như nhau, thí dụ như các cảm
nhận thị giác chẳng hạn.
Tiết
104,105ab. Nếu tri thức ở vào vị trí trước đối tượng của nó, thì nó sẽ phải dựa
vào đâu để phát sinh? (xin nhắc lại là tri thức chỉ
hiện ra khi nào có một đối tượng cho nó nhận biết, trong khi ngủ say không
chiêm bao, hoặc trong khi bất tỉnh thì không có tri thức xảy ra)
Nếu nó hiện ra cùng lúc (với đối tượng)
thì sau đó nó sẽ còn giữ được đúng như thế hay không? Và nếu nó ở vị trí sau
đối tượng, thì nó sinh ra từ đâu?
Nếu đã hiểu rằng một tri thức, chẳng hạn như sự nhận biết giác cảm (còn gọi là tri thức giác cảm) phát sinh cùng lúc với đối tượng của nó, thì trong trường hợp ấy sẽ không
thể nào xem quá trình nhận biết mang tính cách tuần tự được (sequential process / một sự truy cập hay tiến trình tuần tự, tức có nghĩa
là đối tượng hiện hữu trước và sau đó tri thức mới nhận biết được nó, điều này
sẽ đi ngược lại nguyên tắc tri thức chỉ phát sinh từ sự tiếp xúc trực tiếp và
cùng một lúc giữa nó và đối tượng của nó). Hơn nữa, trong trường hợp xảy ra cùng lúc
(simultaneity) như thế thì làm thế nào một đối tượng có thể kéo theo phía sau
nó một sự nhận thức được? (tri thức, sự tiếp xúc và đối
tượng mang tính cách cùng lúc, do đó đối tượng không thể là nguyên nhân làm
phát sinh ra tri thức xảy ra tiếp theo sau đó được).
Ngoài ra, nếu như đối tượng hiện hữu trước và sau đó tri thức nhận biết đối
tượng ấy mới phát sinh, thì vào đúng lúc sự nhận biết - hay nhận thức - xảy ra
thì đối tượng đã chấm dứt sự hiện hữu của nó. Nếu đúng như thế thì sự nhận biết
- hay nhận thức - sẽ phát sinh từ cái gì, bởi vì lúc đó đối tượng đã biến mất?
Khi chúng ta phân tích các cảm nhận về giác cảm theo cách trên đây thì chúng ta
cũng sẽ thấy rằng không sao có thể tìm ra được chúng, tương tư như trường hợp
của tri thức tâm thần.
Sự chú tâm vào Tánh Không của mọi hiện tượng
Tiết 105cd. Thật hết
sức hiển nhiên, không thể nào tìm thấy nguồn gốc của mọi hiện tượng.
Thông thường,
luận cứ đưa ra để chứng minh hiện thực mang tính cách thực thể được dựa vào sự
kiện theo đó các vật thể và biến cố đều mang một chức năng rõ rệt - tức có
nghĩa là một số điều kiện nào đó sẽ phải làm phát sinh ra các vật thể nhất định
nào đó (liên quan với chúng), và một số tình huống nào đó sẽ phải gây
ra các sự kiện nhất định nào đó (có nghĩa là các nguyên nhân sẽ
làm phát sinh ra các vật thể và sự kiện liên hệ và tương quan với chúng, nói
cách khác là nguyên nhân không thể làm phát sinh ra bất cứ một kết quả mang
tính cách vô cớ nào). Sự
kiện này khiến chúng ta tưởng rằng mọi vật thể và biến cố phải có thật và hàm
chứa một hiện thực mang tính cách thực thể (thí dụ chúng ta
lấy gỗ đóng một cái ghế và chúng ta cho "cái ghế" là thật, thế nhưng
nếu nó gãy một chân và không còn bảo tồn được chức năng của nó thì nó sẽ không
còn là cái ghế nữa, do đó cái ghế không hàm chứa một sự hiện thực mang tính
cách thực thể nào cả).
Nguyên tắc về tính cách hiệu năng (fonctionnalité / functionality
/ hiệu năng hay chức năng) là nguyên tắc chủ yếu nhất mà những người theo thuyết hiện thực (realism) dựa
vào đấy để khẳng định sự hiện hữu độc lập của mọi vật thể và sự kiện (cái ghế dùng để ngồi, chức năng của nó là dùng để ngồi, nó không phải là
cái bàn hay chiếc xe đạp, bởi vì các thứ này mang những chức năng khác với nó.
Đấy là lập luận chính yếu nhất của chủ thuyết hiện thực). Nếu những người Trung Quán đã thực hiện
được sự phủ nhận tính cách hiện hữu nội tại của các thực thể mang một chức năng
nào đó - đúng như cách mà Long Thụ đã nêu lên trong tập Trung Quán Luận (Madhyamakakarika) - thì việc phủ nhận sự
hiện hữu nội tại của những thực thể mang tính cách trừu tượng chẳng hạn như
không gian và thời gian tất nhiên là sẽ phải dễ dàng hơn.
Rất nhiều các luận cứ thuộc loại trên đây hình như đã vay mượn nguyên tắc
lập luận của Trung Quán nhằm xác định sự "vắng
mặt của thể tính (identity) và của sự khác biệt (difference)". Chẳng
hạn như các đặc tính cấu hợp (composite) và chia cắt được (divisible) của các
hiện tượng vật chất được giải thích nhờ vào các thuật ngữ như các "thành phần hướng xạ" (parties directionnelles / directional parts / các
thành phần mang tính cách định hướng). Trái
lại bản chất cấu hợp của tri thức thì phải được giải thích như là một chuỗi
tiếp nối liên tục của các khoảnh khắc thời gian. Đối với bản chất của các cấu
hợp mang tính cách trừu tượng, chẳng hạn như không gian hay thời gian, thì có
thể được hình dung nhờ vào các thuật ngữ xác định chiều hướng (không
gian được xác định bởi đông, tây, nam, bắc; thời gian được xác định bởi quá
khứ, hiện tại và tương lai). Do
đó khi nào một vật thể còn có thể chia cắt được, có nghĩa là khi nào còn có thể
phân chia nó ra thành nhiều thành phần riêng rẽ thì chúng ta vần còn có thể xem
bản chất của nó lệ thuộc vào các thành phần cấu tạo ra nó (không
gian là một sự cấu hợp gồm các hướng của nó, thời gian cũng thế phải lệ thuộc
vào quá khứ, hiện tại và tương lai).
Mặt khác, nếu như có một vật thể nào hiện hữu một cách nội tại với tư cách là
một hiện thực mang tính cách thực thể thì nó sẽ không lệ thuộc vào các thành
phần của nó; và tất nó sẽ phải hiện hữu như một hiện thực riêng biệt, không
chia cắt được và mang tính cách toàn vẹn (như thế có nghĩa là đi
ngược lại với nguyên tắc tương liên, cấu hợp, vô thường... của các hiện tượng
trong vũ trụ).
THIỀN ĐỊNH
Đến đây
chúng ta hãy thiền định một lúc, và chủ đề thiền định thì do quý vị tự chọn lựa
lấy. Chẳng hạn như chúng ta có thể thiền định về Tánh Không, vô thường hay khổ
đau.