6.1. Nhẫn khổ cứu ngỗng
Thời Phật
còn tại thế, có một Tỷ-kheo đến cửa hàng Kim hoàn để khất thực. Bấy
giờ, người thợ bạc đang xâu sợi dây chuyền cho quốc vương, thấy Tỷ-kheo
đến khất thực, ông ta bỏ trân châu xuống đi lấy thực phẩm, nhưng trân
châu không chịu nằm yên trong máng, do nó tròn nên lăn xuống đất. Trong
nhà ông ta lại có nuôi một con ngỗng, nó vừa đi ra và ăn mấy hạt trân
châu. Ông thợ bạc mang thực phẩm ra cúng dường Tỷ-kheo, phát hiện
không thấy trân châu. Ông ta cho rằng vị Tỷ-kheo đã lấy dấu đi. Vị Tỷ-kheo
sợ con ngỗng bị giết cho nên đã không thừa nhận và cũng không phủ nhận.
Do đó, ông thợ bạc xách gậy đánh sư chảy máu, cngười ngỗng lại đến
rúc máu, ông thợ đang giận đánh chết luôn cngười ngỗng. Vị Tỷ-kheo
không cầm được lòng thương xót, rơi lệ. Ông thợ bạc cảm thấy kỳ lạ,
hỏi sư vì sao bị đánh không khóc mà thangười ngỗng chết lại khóc? Vị
Tỷ-kheo nhân thấy ngỗng đã chết mới nói rõ nguyên do, ông thợ bạc
nghe xong vô cùng cảm động, đảnh lễ cung kính xin Tỷ-kheo tha tội.
6.2. Nhịn khát đến chết để
bảo vệ con vịt
Đời nhà
Tấn, tại Hoặc Sơn, có sư Tăng Quần.
Sư Tăng
Quần có cuộc sống thanh bần nhưng giữ khí tiết cao thượng. Sư có một
am tranh trong Hoặc Sơn, huyện La Giang. Hoặc Sơn là một hòn đảo nhỏ, trên
có một tảng đá lớn đường kính đến mấy trượng, trên tảng đá có
một dòng suối chảy ra, nước trong veo, mát rượi, vị ngọt.
Am tranh
và tảng đá cách nhau một cái rãnh sâu, trên có một cây cầu gỗ, có thể
qua lại lấy nước. Sau đó, có một con vịt rừng, cánh bị gãy không bay
được, đậu lại ở trên “Độc mộc kiều”. Quần đại sư muốn đi lấy
nước, thấy con vịt rừng bị gãy cánh đứng trên cầu, sư định lấy tích
trượng đuổi nó đi, nhưng lại sợ nó rơi xuống rãnh núi sâu mà chết,
thế là sư trở vào, không đi lấy nước nữa, nhân vì không có nước uống,
khát mà chết.
Bình luận :
Vì muốn
bảo toàn sự sống cho loài vật mà không nghĩ đến thân mình, thật không
có sự từ bi nào lớn hơn như thế, và cứu tế như vậy mới thật là vĩ
đại. Hoặc giả, có người sẽ nói rằng : “Vì bảo toàn mạng sống cho
con ngỗng mà cam chịu bị đánh đập đau khổ thì còn có thể chấp nhận,
còn giống như Quần đại sư hy sinh cả sự sống của mình không phải là
quá đáng sao?”. Ôi! Thánh nhân xem thân thể mình như một bộc da thối,
cuộc đời bất quá chỉ như một giấc mộng, như huyễn, như bọt nước,
như ánh chớp mà thôi, nếu như đối với chúng sanh có lợi ích thì đem sự
sống của mình bỏ đi như bỏ nước mũi, nước đàm vậy thôi, đâu thèm
nhìn. Giống như đức Phật thuở xưa khi còn hành Bồ tát đạo, đem thân
mình cho hổ đói ăn, cắt thịt cho chim… đều là xả thân vì tâm thương
người thương vật hết vậy ! Những kẻ phàm phu chấp giữ, tham luyến
chiếc thân do bốn đại giả hợp mà thành này có thể hiểu được rõ
ràng không?”
6.3. Mua súc sanh nuôi
Thời
Nam triều, đời nhà Trần (557-589), tại Dương đô, chùa Hưng Hoàng, có sư
Pháp Lãng, người huyện Phái, tỉnh Từ Châu. Sư học thiền với Thiền
sư Bảo Chí ở chùa Bảo Minh, tinh thông cả giới luật và luận tạng,
vang danh khắp kinh thành, người đến nghe giảng rất đông. Người ta bố
thí cúng dường, sư đều dùng vào việc in kinh, tạo tượng, dựng chùa
tháp và cứu tế những người nghèo khổ, nguy cấp. Thấy ở đâu có bán
súc sanh là mua về nuôi, cho nên, ngỗng, vịt, gà, chó… ở đầy phòng sư.
Lúc sư ngủ nghỉ những con vật này tuyệt đối im lặng không con nào lên
tiếng, lúc sư nhìn chúng tất cả đồng loạt kêu lên giống như thổi loa
đánh trống rất lớn. Lẽ nào đối với sư Lãng chúng cảm ơn bằng cách
kích động lên như thế?.
6.4. Thương kính hạnh bố thí.
Đời nhà
Tuỳ, ở Tương Châu, chùa Diễn Không, có sư Linh Dụ, người Cự Lộc, tỉnh
Định Châu, 15 tuổi đến Triệu đô, chùa Ứng Giác, xuất gia. Sư là người
học rộng, nhiều tài, tinh thông kinh tạng và luật tạng, danh đồn ra tới
nước ngoài. Lúc người ta bố thí cho sư, sư từ bi lạy cung kính. Sư hân
hạnh cúng dường cà-sa cho các Hòa thượng, số lượng hơn ngàn chiếc. Những
người bệnh khổ đến xin thuốc, sư cung cấp thuốc men càng không thể
tính đếm. Chỉ cần vật gì có thể ăn được, sư nhất định cúng dường
cho đại chúng trước. Đối với loài súc sinh, sư cũng không mắng đuổi,
nhổ khạc vào chúng. Thậm chí những lúc sư trách móc hoặc thăm hỏi những
em nhỏ, hay răn bảo giáo giới, hạn chế các đồ đệ của mình, sư đều
tự xưng tên, còn đối phương thì gọi là ‘nhân giả’, hết lời
khuyên bảo, tha thiết dạy dỗ, người nghe đều cảm động rơi lệ.
6.5. Mua hồ phóng sanh.
Đời nhà
Tuỳ, quốc sư Trí Giả Huệ Nghĩ, núi Thiên Thai, chùa Quốc Thanh, ở tại
vùng biển Lâm Hải. Mỗi ngày sư thấy mấy người lớn tuổi đi đánh cá
mưu sinh, giăng lưới đánh cá dài hơn 4 trăm lý, trong sông ngòi thì đặt
tường tre để bắt cá, và trong khe suối thì chặn đê tạo hố để bẫy
cá, lớn nhỏ không dưới 60 tuổi. Trí giả đại sư thấy vậy trong lòng
không chịu nỗi, liền lấy tiền người ta cúng dường cho sư mua một khúc
biển (nay là phía Tây huyện Nhật Chiếu, tỉnh Sơn Đông), làm hồ phóng
sanh rất lớn, và dâng biểu lên nói rõ với Hoàng thượng bấy giờ là
vua Trần Hậu Chủ.
Trần Hậu
Chủ liền hạ lệnh cấm dân vùng này đánh bắt cá. Vì sự kiện này mà
dựng một bia đá kỷ niệm, lệnh cho quan Tế Tửu quốc tử học* Từ Hiếu khắc văn bia, lời văn rất bi
thương, thê thảm, người xem đến đều ai thương cảm động và có chút
lãnh ngộ.
6.6. Cắt tai cứu chim Trĩ.
Đời nhà
Tuỳ, tại Triệu Quận, núi Chương Hồng, có sư Trí Thuấn, người Triệu
Châu. Có một lần sư đi du lịch ở phương bắc, tỏ ý khen ngợi núi
Hoàng Ninh, bèn dựng một thảo am trên núi này và ở đó.
Có một
hôm, một người thợ săn đuổi bắt chim Trĩ, chim Trĩ bay vào trong phòng sư
Thuấn, sư tha thiết khuyên người thợ săn tha cho nó một sinh mạng, người
thợ săn không nghe, nhất định tìm cho bằng được chim Trĩ, thế là sư
Thuấn cắt lỗ tai của mình đưa cho người thợ săn để đổi lấy sự sống
cho chim Trĩ, người thợ săn thấy vậy thất kinh liền cảm ngộ được tội
nghiệp của mình, cuối cùng anh ta bỏ hết cung tên, phá bỏ tất cả dụng
cụ săn bắn, quyết định bỏ nghề đi săn. Nhân đây, những người trong
thôn xóm cảm động, tự ý bỏ nghề săn bắn. Sư Thuấn mỗi lần thấy
người nào nghèo khổ đều rơi nước mắt đầm đìa khuôn mặt, cởi hết
y phục cho họ mặc đỡ lạnh, chia thức ăn của mình cho họ ăn, lòng từ
bi cứu thế như vậy không chỗ nào không đến.
Bình luận:
Mạnh Tử nói : “Làm việc chí
tâm thành ý người ta không thể không cảm động”, đức hạnh của sư
Thuấn đây đã chứng minh câu nói ấy.
6.7. Đến gặp quan giúp người
nghèo
Đời nhà
Tuỳ, tại Kinh sư, vùng Giao Nam, có Thiền sư Phổ An, người Kinh Dương,
Kinh Triệu. Vào thời Bắc Chu (557-581), vua Vũ Đế (561-579), niên hiệu Kiến
Đức thứ 3 (573), chủ trương tiêu diệt Phật giáo, bắt Tăng ni hoàn tục.
Sư Phổ An trốn đến ẩn cư ở cốc Tiên Tử, tại Chung Nam Sơn, cần tu
khổ hạnh, không giữ gìn thân thể hình hài, có lúc sư thoát hết y phục
nằm trên cỏ ở trong rừng cho muỗi đốt, bố thí máu, có lúc nằm trong
đám thi thể tạp loạn, muốn dùng thân thể bố thí cho hổ báo ăn. Bấy
giờ chính phủ ra thông báo trọng thưởng, nếu ai tróc nã và bắt nộp một
người xuất gia, sẽ cho 10 đoạn tơ luạ. Có một người muốn bắt sư Phổ
An đi nộp để lãnh thưởng, sư biết chuyện vui vẻ an ủi người đó : “Tôi thấy anh nghèo khổ túng thiếu, cũng
muốn giúp anh có chút thu nhập, bây giờ tôi còn một ít thức ăn, anh hãy
dùng đi, dùng xong rồi anh hãy đem tôi vào kinh thành nộp để lãnh thưởng”.
Đến
kinh thành, Hoàng đế thấy sư, từ chối nói : “Hiện nay nước ta quốc pháp rất nghiêm khắc,
không cho phép trong dân gian có người xuất gia, ngươi lại nghiêm khắc hơn,
không cho phép người xuất gia lui tới ở trong núi, để xem các ông đi đến
chỗ nào?” Thế rồi thả sư về trên núi.
6.8. Ở với người bệnh
Đời nhà
Đường, ở Đơn Dương, có sư Trí Nham. Sư người Khúc Hà, Đơn Dương,
mưu trí và võ dũng hơn người. Lúc tuổi thanh niên sư làm Hổ Bôn Trung
Lang Tướng (quan hộ vệ vua). Sư thường treo một cái túi lọc nước trên
đầu cây cung, quen rồi cho là thường. Sau sư đến núi Hoán Công, quy y và
xuất gia với Thiền sư Bảo Việt.
Lúc đó,
những người làm việc chung với sư trong quân đội như Thứ sử Mục Châu,
Nghiêm Soạn, Thứ sử Cù Châu, Trương Sước… nghe nói sư xuất gia bèn
cùng nhau tìm đến hỏi nguyên do, thấy sư ở trong núi sâu, một mình lặng
lẽ, bèn nói : “Tướng quân! Không phải
Ngài bị phát điên chứ? Vì sao lại đến đây ở một mình trong núi rừng
tuyệt tích thế này!?”
Sư đáp
: “Cái trầm mê và cái điên của tôi
thì rất tỉnh, còn các anh say đắm công danh lợi lộc thế tục mới đúng
nghĩa trầm mê, sống điên điên khùng khùng, mơ mơ hồ hồ đấy !”.
Sau đó
sư đến thành Thạch Đầu, ở với những người bị bệnh dịch, sư vì họ
thuyết pháp, rồi sư hút những mủ máu và rửa sạch những vết thương,
bó thuốc cẩn thận chu đáo cho họ. Vào đời vua Đường Cao Tông, niên hiệu
Vĩnh Huy (650-656), sư viên tịch tại đây. Sau khi viên tịch diện mạo sắc
mặt không thay đổi, và phát ra mùi thơm rất đặc thù, hơn mười ngày mới
hết.
6.9. Lấy miệng hút mủ cứu thương
Đời nhà
Đường, ở Bồ Châu, chùa Nhân Thọ, có sư Trí Khoan (tục cao Tăng truyện
chép là Chí Khoan), người Hà Đông, Bồ Châu. Sư thường đọc tụng kinh
Duy Ma Cật và Giới bổn, cảm hoá đến thiên thần đi quanh phòng sư, tán
lễ và ủng hộ. Sư bản tánh từ bi, khoan dung độ lượng, hay giúp đỡ
người bệnh tật, không kể xuất gia hay tại gia, xa hay gần, nếu như bị
bệnh mà không có người chăm sóc thuốc thang thì sư dùng xe đưa người bệnh
về phòng mình, tự chăm sóc lo liệu hết mọi việc. Đã từng có một người
bệnh, trên bụng mọc một cái nhọt lớn, mủ trương lên bên trong chảy
ra không được, sư đã dùng miệng hút nó ra, người bệnh nhờ vậy mà
lành.
Sau đó,
bọn thổ phỉ Niễu Cảm làm loạn, quan phủ bắt sư lưu đày đến Tây
Xuyên, dân làng mở tiệc tiễn sư đi và tặng nhiều tiền bạc, y áo thực
phẩm, vải vóc… Sư nhất định không
lấy, chỉ mang theo một con lừa để chở kinh sách trước khi đi.
Trên
đường đi sư gặp một vị Tăng tên là Bảo Hoàng, chân bị thương không
đi được, nằm duỗi chân bên đường, sư nhường cho vị Tăng ngồi lên
xe lừa còn mình gánh kinh sách. Bấy giờ gặp năm nông dân làm mùa thất
bát, dân chúng thiếu cơm ăn áo mặc, sư dùng một ít gạo thổi cơm cho họ
ăn đở đói, cởi y phục đang mặc của mình cho họ mặc, có lúc sư nhường
toàn bộ phần cơm của mình cho họ, có lúc sư ăn ít lại, với lòng từ
mẫn sư khuyên tất cả mọi người niệm Phật cầu vãng sanh tịnh độ.
6.10. Nuôi chuột
Đời nhà
Đường, ở Tương Châu, chùa Cảnh Không, có sư Huệ Ý, đem thức ăn còn
lại trong bát để nuôi chuột già trong thiền phòng, trong phòng sư có hơn
một trăm con chuột già, tất cả đều rất ngoan ngoãn và thân cận sư để
lấy thức ăn. Con chuột nào bị bệnh sư dùng tay vỗ về an ủi nó.
6.11. Dệt chăn nuôi chó
Đời nhà
Đường, ở Việt Châu, chùa Gia Tường, có sư Trí Khải, người Đơn
Dương, thường khai giảng Tam Luận (Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn
luận). Vào đời Đường Thái Tông, niên hiệu Trinh Quán, năm đầu, 627,
sư trú trì chùa Tiểu Long Tuyền, ở huyện Dư Diêu*, Triết Giang. Bấy giờ, tập tục của
người Việt, trong nhà có chó đẻ, phần lớn đem bỏ ngoài đường. Sư
Trí Khải thương xót chúng lượm hết đem về nuôi, càng lúc càng nhiều,
10 con rồi 50 con. Sư dùng lông thú dệt thành cái chăn cho chúng ngủ, không
chê chúng bẩn thỉu.
6.12. Bệnh thối không ghét.
Đời nhà
Đường, tại Ích Châu, chùa Phước Thành, có sư Đạo Tịch. Sư người Tứ
Xuyên, trú trì chùa Phước Thành, Ích Châu. Tính tình sư nhân từ, có một
người mắc bệnh rất hiểm nghèo, toàn thân trương mủ lên, lại bị thối
một lỗ, chỗ bị thối mủ hôi nồng nặc, người nghe thấy đều phải bịt
mũi, sư Đạo Tịch cung cấp cho y cơm áo, việc làm rất hết lòng, tuyệt
đối không phải cố ý giả trang thiền tướng, bình tĩnh như thường. Thậm
chí, có khi sư dùng chung thức ăn với người bệnh, giúp mọi người giặt
áo quần. Có người hỏi sư, vì sao có thể nhẫn chịu được hoàn cảnh
sống như thế. Sư trả lời “Yêu thích
thanh tịnh sạch sẽ, chê ghét mùi hôi ô uế, đây là tâm lý phân biệt lạ
lùng, tôi là người tu hành, vì muốn liễu sanh thoát tử, phải có khả năng
khắc phục thất tình lục dục, tôi há không tu được trí tuệ bình đẳng
như như bất động sao? Tôi chỉ bất quá lợi dụng hoàn cảnh này để rèn
luyện thân tâm tôi thôi”.
6.13. Chăm sóc người bệnh gặp
thánh hiền.
Đời nhà
Đường, ở Lạc Dương, Viện Trung Than Dục, có Thiền sư Trí Huy, trú trì
chùa Trọng Vấn, ở Kinh Đào. Sư sáng kiến ra một đạo tràng gọi là “Ôn
thất viện”, cung cấp cho mười phương Tăng lữ tắm gội, bố thí nước
dùng và thuốc men. Có một Tỷ-kheo bị mắc bệnh hủi (phong), mọi người
ai cũng chán ghét thầy và không muốn tiếp cận. Sư Trí Huy thường hay giúp
thầy này tắm rửa, giặt giủ, tắm rửa không bao lâu, đột nhiên có hào
quang và mùi hương kỳ lạ từ trong người Tỷ-kheo bệnh hủi bay ra. Sư Trí
Huy cảm nhận được điều kỳ lạ này thì vị Tỷ-kheo ấy biến mất
không thấy.
Bình luận:
Đức Phật từng nói : “Sau khi
ta diệt độ, các Tỷ-kheo phải chăm sóc người bệnh cho thật tốt, bởi
vì trong số những người bệnh có rất nhiều thánh hiền thị hiện để
thử lòng các ông!” Nay, việc sư Trí Huy trú trì chùa Trọng Vân gặp một
Tỷ-kheo bệnh và Ngộ Đạt quốc sư (đời Đường Ý Tông), gặp Ca-nặc-ca
tôn giả, chính là trường hợp Phật nói vậy.
6.14. Quét đường trước khi đi
Đời nhà
Đường, ở Kinh sư, chùa Hoằng Phước, có sư Huệ Bân, người Cổ Châu
(nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Sư học rộng hiểu sâu, nghiên cứu tột cùng
nghĩa lý kinh luận, sau đó chuyển sang chuyên tu thiền định. Sư phát tâm
lấy lòng từ bi cứu tế chúng sanh làm trách nhiệm của mình, mỗi khi đến
mùa hạ (là mùa côn trùng sinh sản rất nhiều), đi ra đường sợ giẫm đạp
côn trùng, cho nên, trước khi bước chân đi, sư lấy chổi quét lên mặt
đất để khỏi sát sanh. Có ai đem cúng dường tài vật, sư bí mật đem
đi làm bố thí cho người, tuy làm rất nhiều việc thiện, lại nói với mọi
người đừng tiết lộ cho ai biết.
6.15. Cứu giúp những người ăn
mày.
Đời nhà
Đường, có sư Đàm Tuyển, người Cao Dương (Hà bắc), trú tại chùa Hưng
Quốc. Sư bẩm tính từ thiện, hay cứu tế giúp đỡ gọi mọi người. Từ
trước đến nay không cất giữ tài vật, sư đặt mua một cái nồi lớn,
đem hết tất cả những vật thực của mình và của những người ăn mày
xin được bỏ vào trong đó rồi nấu thành cháo đặc, rồi gọi mọi người
ngồi lại theo thứ tự, đích thân đơm cháo cho họ. Nhìn thấy ai ăn mặc
rất nát, dung mạo tiều tuỵ, gầy ốm, đều xót thương rơi lệ, lòng bi
mẫn, khó chịu rạo rực trong người, không có cách gì kiềm chế được.
Bản thân sư cùng sống và đi khất thực với những người ăn mày như vậy
trải qua rất nhiều năm.
6.16. Truyền giới – phóng sanh.
Thời Ngũ
Đại (907-960), ở Hàng Châu, có Thiền sư Huệ Nhật Trí Giác, trú trì
chùa Vĩnh Minh, Diên Thọ 15 năm, thế độ cho hơn 1700 người. Sau sư vào
núi Thiên Thai vì chúng truyền giới, ước tính hơn vạn người đắc giới.
Sư thường vì thất chúng (Tỳ Kheo. Tỳ Kheo ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa
di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di) truyền Bồ tát giới. Buổi tối Sư làm lễ
thí thực và thường phóng sanh. Ngày đêm sáu thời tinh tấn tu hành, ngoại
trừ thời gian làm công quả, thời gian còn lại sư tụng kinh Pháp Hoa. Một
đời Sư tổng cộng tụng được một vạn ba ngàn bộ. Đến đời Tống
Thái Tổ (960-976), niên hiệu Khai Bảo thứ 8 (975), ngày 26 tháng 12, sư đốt
hương tạm biệt đại chúng rồi ngồi kiết già mà hoá.
6.17. Chăm sóc người bệnh như
chính bản thân mình
Triều
nhà Tống, ở Nam Khương Quân, chùa Vân Cư, có Thiền sư Cao Am Thiện Ngộ.
Sư trú
trì chùa Vân Cư, một khi nghe có người xuất gia bệnh nặng bị đưa đến
Duyên Thọ đường (còn gọi là Niết bàn đường, Vô thường viện, hay
Như ý liêu v.v… là chỗ chư Tăng bị bệnh nhâïp diệt) thì than thở
không thôi, tựa như chính bản thân mình bị bệnh. Sớm chiều đi thăm hỏi
mọi người, đích thân lo liệu cơm cháo, sắc thuốc. Thuốc men gì sư
cũng đều nếm trước xem có độc tính hoặc có tác dụng gì không, rồi
mới an tâm cho bệnh nhân dùng. Thời tiết lạnh lẻo, thì sư quan tâm lo lắng,
an ủi vổ về lên vai mọi người: “Y phục
mặc không phải quá mỏng chứ?”, trời nóng thì sư nhìn sắc mặt, hỏi:
“Phải chăng rất nóng?”. Thậm chí,
đến lúc họ viên tịch, không kể họ có tiền hay không có tiền, Tăng
thường trụ đều như pháp như luật tống táng.
Bình luận.
Trong kinh Phạm võng có nói đến
tám loại phước điền, thì phước điền lớn nhất là chăm người bệnh.
Người xuất gia không có nhà cố định, một thân một mình du hoá khắp năm
châu, bốn biển, không nơi nương tựa, một khi bệnh hoạn thống khổ, rất
cần người đồng tu hỗ trợ giúp đỡ thương yêu nhau. Vị trụ trì trong
Tăng chúng, nếu như có người xuất gia bị bệnh không đi thăm hỏi chăm
sóc, đến khi chết, không lo tang lễ, có
thể nói rằng người xuất gia “ôm ấp lòng từ bi cứu độ chúng sanh
sao”? Cho nên, phàm làm một vị trụ trì nên noi theo tác phong, đức hạnh
của Thiền sư Cao Am.
TỔNG LUẬN.
“Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín”
là năm điều kiện cơ bản làm người, mà “Nhân” là đứng đầu; “Từ
bi-hỷ xã” là bốn tâm vô lượng của người tu hành, học Phật, thì ‘Tâm
từ’ đứng đầu. Nếu như không có tâm từ, thì dù có bác học, đa
văn, chứng được thần thông tam muội, bất quá chỉ là ma quỷ mà thôi.
Hoặc có người nói: “từ bi và oai nghiêm đều là bản sắc của đạo
phhật! Hà tất chỉ suy tôn từ bi?” Ngài không biết rằng cứu người, hại
người đều là biểu hiện lòng nhân, đây là hai mặt của một thể, nhiếp
thọ người, thuyết phục người, cũng đều là biểu hiện lòng từ. Chủ
yếu là muốn tốt cho người mà phải dùng nhiều phương pháp không giống
nhau mà thôi. Bên ngoài thì biểu hiện oai nghi nghiêm khắc nhưng kỳ thật
trong lòng đầy ắp lòng từ ái! Mặc dù bên ngoài oai nghiêm mà nội tâm
tràn đầy từ ái mới là đại từ bi, chân chính! Không phải lấy một
chút ân tình, một chút quan tâm mà gọi là từ bi được!