Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận


Phi Tích Thiền Sư Tịnh Sĩ dịch
23/08/2011 20:35 (GMT+7)
Số lượt xem: 89856
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận
Mục lục
  • I NIỆM VỊ LAI PHẬT CHÓNG THÀNH TAM MUỘI.
  • Phần II

I  NIỆM VỊ LAI PHẬT CHÓNG THÀNH TAM MUỘI.

Luận về tâm nhị nguyên phân biệt nó hay khởi ra vọng niệm. Các vọng tuy hư giả huyễn hoặc mà lại hay ngăn ngại. Chỗ ngăn ngại này chưa được trừ bỏ thì thánh nhân còn phải lo toan.

Vốn đủ các âm vận mà không nói, pháp thân tuy rỗng rang mà có đủ mọi hình tướng. Chỉ vì các tướng không hiện bày nên nói là không có tướng vậy.

Ðối với yếu chỉ Nhất vị (nhất tâm) dứt bặt các đường nói năng làm sao biết được chỗ veà của nó. Cái tông thú Tam muội quét sạch các tri kiến, hiển bày qua việc nói nín, đâu phải chỉ Duy Ma im lặng, Văn Thù khen ngợi mà thôi.

Vì sao? Bởi lưới Ðế Thích chưa căng đâu thấy được ngàn ngọc anh lạc. Một khi lưới được trương rồi thì muôn mắt đều mở ra thôi (chưa nhất tâm niệm Phật nên chưa thấy, khởi niệm Phật thì rõ tất cả là Phật). Tắm biển lớn tức đã dùng nước trăm sông, niệm danh hiệu Phật thì thành tựu tam muội. “Một lời có thể ngăn dứt tất cả” chính là ý này. Giống như bỏ ngọc ma ni vào nước đục, nuớc đục không gì không trong; Ý tưởng Phật đưa vào tâm loạn, tâm loạn chẳng gì chẳng Phật.

Khi tâm và Phật đã khế hợp rồi thì cả hai đều mất. Cả hai đều mất là định vậy. Cả hai đều sáng soi là tuệ vậy. Cảnh giới này gọi là định tuệ đồng đều, cũng là chỗ nói: “Tâm nào chẳng là Phaät, Phật nào chẳng là tâm”. Tâm và Phật đã như vậy thì mọi cảnh mọi duyên không đâu không là tam muội.

Song người đời phần nhiều chỉ niệm tướng mặt tròn như trăng của đức Thích Ca quá khứ, tưởng tượng tướng mắt trong như biển của Phật Di Ðà hiện tại giống như nhổ tên độc, như vào an lạc cung. Ðó là pháp rất hay, nhưng chưa nghe nói việc niện tưởng tướng sáng soi như mặt trời của Chư Phật vị lai. Ấy cũng tại chưa thấu rõ rằng Ðức Như Lai đối với thô tâm của chúng sinh mà nói ra những điều vi diệu của chư Phật, mới ngăn cách chúng sanh ra ngoài chư Phật. Do vậy mà chưa nghe nói về tướng Phật vị lai và không có ai niệm tưởng.

Trong Kinh Tịnh Danh (Duy ma) có nói việc: chỉ ngửi hoa Ðởm bặc, không ngửi mùi gì khác và hoa có dính thân cùng chẳng dính thân. Ðó là hạ tiểu thừa xuống, đưa đại thừa lên vậy. Hạ tiểu thừa xuống thì bày chỗ ôm bát mà dầm dề nước mắt. Ðưa Ðại thừa lên thì hiển việc đồng vui ở cảnh giới bất nhị. Còn trong Kinh Pháp Hoa là Kinh định rõ pháp thanh văn, là Kinh vua trong các Kinh thì tất cả mùi hương Ðởm bặc này (quả vị Phật) ai cũng có đủ nhưng không hiện rõ thôi

Do chưa phải là bậc liễu ngộ nên thấy chư Phật là bậc chí tôn, chúng sanh là kẻ chí tiện; tức là còn ý cao thấp sanh ra, còn tâm vọng niệm khởi phát. Có tâm niệm cung kính khinh ngạo khởi sanh thì tánh chơn như nhứt vị ẩn mất. Như thế tất coi vạn vật tầm thường như cây cỏ, xem thiên hạ nhỏ nhoi chẳng ra gì, khinh ngạo lễ nghi, ngông nghênh với người trưởng thượng, mặc tình buông thả tầm mắt theo cảnh vật, chẳng chịu nép mình. Ðó là trái với Duy Ma Kinh: “mọi cái nhìn, mọi cái cung kính đều là món cao quí nhất trong các món cúng dường”. Ðó cũng là không tin Kinh Lăng già nói: “Như Lai tạng tự tánh thanh tịnh, chuyển 32 tướng vào trong tâm tất cả chúng sanh như cột bảo châu raát quí giá vào trong áo bẩn”. Ðã vậy, làm sao thấy được kẻ cùng tử xin ăn trong thành và đức Như Lai cao quí bình đẳng không khác.

Nếu niệm đủ chư Phật 3 đời, quán khắp mười phương thánh chúng thì mới phù hợp với lý thú bát nhã. Thấy tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng, tự thể của Phổ Hiền Bồ tát ẩn khắp trong các tướng, bần nữ có ngọc báu, gạo ngay trong thóc lúa như gương trong dễ nhìn thì đâu còn lo vướng phải tám điều kiêu mạn đáng trách kia.

Người đời không dám khinh Phật quá khứ hiện tại nhưng lại coi thường Phật ở vị lai (chúng sanh). Thật không biết đó là cội nguồn khởi nên tội lỗi. Bởi đặt mình trên Phật vị lai chẳng khác nào coi mình trên Phật hiện tại. Bỏ chúng sanh ra thì Phật vị lai làm sao có. Chúng ta phải biết: mẹ nhờ con mà quí, gạo nhờ cám mà bổ, nhờ Phật vị lai mà Phật hiện tại có giá trị.

Thế nên, tu kèm thêm tâm Thường bất Khinh của Pháp Hoa ấy thì niệm Phật tam muội chẳng sớm muộn chắc chắn thành tựu vậy.

-                 Hỏi: Pháp Hoa là pháp. Niệm Phật là Phật. Ðâu thể lấy Pháp làm Phật, lấy Phật làm pháp được. Ðó là lộn lạo lớn vậy!

-                 Ðáp: Chẳng lộn lạo gì cả. Cội gốc chỉ là một thì có gì là lộn lạo. Xét như loại thuốc Chi Truật là thuốc của các vị Tiên. Khi xưa còn ở trên trời; nó không có tên “Tiên”. Chỉ vì có người uống vào, mọc cánh bay trên mây, nó mới mang tên là “ Thuốc tiên”, và người đó được gọi là “người tiên”. Người và thuốc khác nhau nhưng gốc tiên là một vậy. Nếu không có Thánh nhân thì ai vui với đạo. Pháp không có Phật giác ngộ, há có thể tự ngộ được ư! Pháp không có Phật thì không thể ngộ, niệm Phật tam muội làm sao sanh được? Phật chẳng có Pháp thì chẳng sáng tỏ, Pháp Hoa tam muội há khởi được ư? Chỉ một loại tiên mà hai thứ đều được tên Tiên _ Niệm Phật và Pháp Hoa đồng gọi là Phật huệ. Ðã đồng là Phật huệ thì pháp môn Vô thượng thâm diệu thiền tức Thường bất Khinh và Ban Châu tam muội ngay đấy được ngộ. Chưa từng có dị biệt, có gì đâu mà lộn lạo?

 

II-     NGƯỜI NỮ, KẺ TRỘM ÐỀU KHÔNG NÊN KHINH.

Hỏi: Xin được nghe chỗ “tất cả chúng sanh đều là Phật vị lai”. Người nữ, kẻ trộm đều là thức rất xấu, làm sao người niệm Phật cung kính được?

Ðáp: Pháp môn Phật giảng thuyết có hai loại là “ Ðối đãi môn” và “ quyết liễu môn”.

Ở Ðối đãi môn coi đàm bà con gái là thứ hư ngụy và Như Lai là bậc Chí Chơn, nghĩa là Phật thì đáng tôn sùng còn đàn bà thì phải yểm ly (xa chán). Và để yểm ly người nữ, có 2 cách là “quở trách sự ham muốn” và “ khởi tâm quán sát”

Về việc quở trách sự ham muốn, trong kinh “Bồ tát ha saéc dục” nói: “Nữ sắc là gông xiềng của thế gian, phàm phu đắm luyến thì không thể tự dứt ra được. Nữ sắc là bệnh nặng của thế gian, phàm phu khổ sở vì nó đến chết vẫn chưa thôi. Nữ sắc là họa suy đồi của thế gian, phàm phu gặp phải thì không tai nạn nào chẳng đến”. Hành giả đã bỏ được lại còn nghĩ tưởng thì khác gì ra được tù ngục lại muốn trở vào, đã hết điên cuồng lại muốn điên nữa, đã khỏi được bệnh lại mong có bệnh. Người trí thấy vậy xót thương vì biết kẻ mắc bệnh cuồng si điên đảo ấy đến chết vẫn chưa thấy mặt trời (sáng suốt)”.

Kẻ phàm phu quí trọng người nữ, cam làm nô bộc, suốt đời bôn ba làm việc khổ cực; Ở trong búa sắt chông gai, gần gũi mũi dùi tên nhọn vẫn cam tâm nhẫn chịu không lấy làm lo. Bởi kẻ say cuồng thường thích hạng say cuồng không bao giờ cho là lỗi.

Hành giả nếu bỏ được rồi không để tâm nữa, ấy là phá gông, thoát xiềng, bỏ cuồng, chán bệnh. Lìa xa cái họa suy đồi (nữ sắc) thì đã an ổn lại tốt lành, là ra được tù ngục vĩnh viễn không còn tai nạn.

Luận về người nữ, lời nói họ như mật nhưng tâm họ lại là thuốc độc. Họ khác nào như dòng suối lặng trong mà có giao long ở, như núi vàng hang báu có sư tử nằm trong. Nên biết thứ nguy hại này là thứ không nên gần vậy. Gia đình bất hòa là bởi người nư õ; phá tông môn hư gia nghiệp cũng tại lỗi người nữ. Người nữ thật là giặc ngầm tiêu diệt trí tuệ sáng suốt của con người; giống như thợ săn giăng lưói bao bọc, thú không đường ra khỏi; như lưới bủa trên cao, chim sa xuống rồi không thể tung bay; như lưới thả ngang sông, cá đã đâm vào tất nằm trên thớt; lại như hầm tối, kẻ đui vào đó là bồ hong vào lửa đỏ.

Thế nên người trí biết rõ và lánh xa, không để bị hại; chán và gớm, không để bị mê hoặc. Kinh Ðại Bảo Tích chép Phật vì vua Ưu Ðà diên (Ưu Ðiền) nói kệ rằng:

 

“Là núi đao gai nhọn      tên độc và  các khổ
Nữ nhơn là chỗ tụ         của nhiều thứ khổ đau
Nhờ có các huơng hoa mà thân trang nghiêm đẹp
Kẻ ngu si theo đó         khởi vọng tâm tham cầu
Như chim đuối giữa biển mê muội bờ bên kia
Khi chết tất phải đọa     vào địa ngục a-tỳ
Hiện đời thấy các khổ đều theo thân đến mãi
Bị bạn lành xa lánh        mất hẳn nẻo về trời
Lại còn vào ngục sắt     chạy nhảy trên núi đao
Nằm ngủ trên lò lửa      Ðừng nên gần nữ sắc!”
“Như chim tìm thức ăn không biết tránh xa lưới
Kẻ tham aí nữ nhân        bị hại cũng như vậy
Giống như cá trong nước bơi vào trong lưới giăng
Liền bị người ta bắt       há chẳng tự hại ư!
Nữ nhơn như kẻ chài    lừa dối giống như lưới
Ðàn ông đồng như cá    bị lưới cũng như vậy”.

Về cách “Khởi tâm quán sát”, như Kinh Ðại Bảo Tích chép:[Văn Thù Sư Lợi bảo Thiện Trụ thiên tử rằng: “Nếu là người nhứt tâm chuyên ròng tu tập giữ gìn thì khi tâm tham dục phát sanh, liền nên nhận biết rồi dùng phương tiện phá trừ để tâm trở lại thanh tịnh. Phá trừ như thế nào? Bằng cách khởi nghĩ rằng: _ ‘Ðó là không, là bất tịnh. Tâm dục này sanh ra diệt đi, nó không từ đâu đến và cũng chẳng đi đâu. Trong tâm ấy nào có ai nhiễm, nào ai được nhiễm và đâu là pháp nhiễm’ _ Lúc quán sát như thế, không thấy có năng nhiễm, sở nhiễm và việc nhiễm. Không thấy thì không nắm giữ. Không nắm giữ thì không có xả. Không có xả thì không có ái. Không xả không ái gọi là ly dục tịch tịnh niết bàn vậy. Bấy giờ giả như buông tâm vào trong trần lao sanh tử cũng hkông lo hoạ hoạn tham sân si”]. Ðây gọi là “Khởi tâm quán sát”.

Trên đã nói xong Ðối Ðãi môn (tương đối)

Thứ hai nói về Quyết liễu môn (cứu cánh). Nếu xét trên phương diện rốt ráo xa lìa các vọng hoặc, không còn ô nhiễm như hư không thì đó là chư Phật quá khứ và hiện tại chớ chẳng phải là Phật vị lai. Còn trên phương diện đưa đến rốt ráo thì tất cả chúng sanh trần lao phiền não là Phật vị lai vậy

Người há chẳng nghe : “muốn được ngọc vô giá, phải lặn dưới biển sâu; muốn có trí tuệ báu, phải tìm trong phiền não. Tướng ngũ nghịch là tướng giải thoát, cõi ma như chính là cõi Phật như”. Nếu nghe tiếng Phật  mà vui, nghe giọng ma lại giận thì không vào được “Pháp môn âm thinh”, chẳng trụ được trong “cảnh giới chơn thật âm thinh”, và chẳng giác ngộ đối với tất cả pháp. Ðò là kẻ quay ngược xe mà lại muốn tiến lên. Làm sao cùng họ luận đạo được?

Ðể nói cho ông rõ, kinh há chẳng chép: Xưa có vị tiên gọi là Lộc Ðề. Nhân vì trời mưa, đất trơn trợt, ông đi dường bị ngã. Giận tức, ông dùng chú tiên làm trời hạn hán. Trong nước ai cũng lo lắng, vua sai một cô gái được nhiều người ưa thích đến dụ dỗ ông. Khi dụ được, cô ta cởi trên cổ ông vào thành. Liền đó mây ùn ùn từ bốn phương kéo đến, mưa tuôn xối xả đầy ngập. Ông tiên ấy tuy có thần thông chế ngự gió, có phép lấn áp cả tự nhiên mà không thể bỏ được sắc là vì còn thấy đó là người nữ. Trong khi Ðức Thích Ca đối với người nữ là Da Du thì bảo “tương lai là Phật hiệu Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai”.

Người niệm Phật nếu chỉ thấy dung nhan cô gái yêu mà không nghĩ sắc vàng tốt của Phật Quang Tướng (chỉ nghĩ đó là người nữ mà không nghĩ đó là Phật vị lai) thì đánh mất yếu chỉ Thường Bất Khinh (không khinh), làm sao đạt được niệm Phật tam muội.

Lại như A na luật xưa đời quá khứ từng làm kẻ trộm. Một hôm vào tháp thờ Phật định trộm châu báu. Khi vào trong điện thờ thấy đèn bị lụn tim gần tắt. Ông bèn dùng que tre đẩy tim cao lên để đèn cháy sáng, không bị tắt. A na luật có nghĩa là “không tắt” có nguyên do từ đó. Tương lai, ông là Phật hiệu Phổ Minh Như Lai cũng từ nhân duyên ấy.

Người niệm Phật còn không khinh kẻ trộm huống lại khinh người không trộm. Thấy người nữ và kẻ trộm là hai vị Phật tương lai như mặt trời rực rỡ thì lo gì tam muội không thành.

III-THẤY NGƯỜI TRÌ GIỚI PHÁ GIỚI CHỈ SANH Ý TƯỞNG PHẬT.

Hỏi:Trường hợp hai loại người trì giới và phá giới khoù hiểu. Kinh Phạm Võng nói: “Người nào thọ giới Phật thì vào hàng chư Phật”. Những vị xuất gia giữ tròn cấm giới như trăng rằm, như đeo ngọc anh lạc, được dự vào hàng Tam Bảo trong phạm vi Thất chúng là những bậc đáng kính. Còn vơí kẻ chẳng trì giới tinh nghiêm, hành động điên đảo sa đọa, ta há coi thường lỗi lầm của họ được ư, há mặc kệ tội ác của họ được ư? Mong ngài vì tôi phân giải.

Ðáp: Ðức Như Lai từng ở “Kinh Tam Muội Hải” nói với phụ vương rằng:

“Xưa có 4 tỳ kheo phạm luật vì hổ thẹn muốn buông xuôi không tu niệm, bỗng nghe trong hư không có tiếng nói: “Chỗ các ngươi vi phạm cho rằng không cứu được là điều sai lầm. Ðức Không Vương Như Lai tuy đã vào Niết bàn nhưng hình tượng vẫn còn. Các người hãy vào tháp nhứt tâm quán tưởng tướng bạch hào (lông trắng giữa hai chân mày) của thánh tượng! ”. Các Tỳ kheo liền rơi lệ khóc nói rằng “Tượng Phật còn có năng lực kỳ diệu như vậy huống hồ chân dung của ngài (hình dáng chân thật)”, rồi gieo mình xuống đất đảnh lễ như núi lớn ngã đổ. Các đấng chánh giác ở bốn phương hiện nay như A Súc Phật ở phương Ðông, Bửu Tướng Phật ở phương Nam, Vô Lượng Thọ Phật ở phương Tây và Vi Diệu Thinh Phật ở phương Bắc tức là bốn Tỳ kheo phá giới đó vậy”. Vì thế nên như Lai gọi pháp Quán Phật Tam Muội này là Ðại Bảo Vương Giới Phẩm Hải có thể dùng để tẩy trừ toiä nhơ phá giới, chứng đắc sự thanh tịnh trong cõi trần lụy. Bốn Tỳ kheo ấy chỉ nhất tâm quán tưởng bửu tượng mà tất cả đều thành Ðấng Thế Tôn. Người niệm Phật há có thể sanh tâm nghi hoặc khinh thường đối với thầy Tăng phá giới ư?.

Kinh Ðại Tập nói: “Nếu các vua quan đánh đập chửi mắng người xuất gia trì giới hoặc phá giới thì mắc tội giống như làm trăm ức thân Phật chảy máu. Khi thấy người đắp ca sa, không luận là trì giới hay phá giới chỉ nên khởi tưởngn “gười ấy là Phật”. Tưởng “người ấy là Phật” là niệm phật tam muội. Ðây là lời từ kim khẩu của Phật thuyết minh về tông chỉ Bất Khinh thâm diệu. Há dám đánh đập mắng chửi mà không sợ ư?

Kinh nói: “Thà để tâm bắt chước ta, chứ đừng bắt chước theo tâm”. Thấy người xan tham thì khởi tư tưởng bố thí. Thấy người phá giới thì khởi ý tưởng trì giới. Như vậy thì không bị cảnh giới lục tệ (tham sân...) trói buoäc, lại thành tự được pháp môn quán lục độ Ba La Mật. Nếu cứ trụ vào tâm phân biệt thì tự lãnh lấy hình phạt ở chốn minh ty (địa ngục), chẳng đáng buồn ư? Còn chuyển đổi tâm thấy biết ấy thì niệm Phật tam muội được thuaän lợi như dòng sông xuôi chảy, chẳng đáng mừng sao?.

IV- HIỆN ÐANG ÐỌA Ở ÐỊA NGỤC CŨNG VẪN ÐƯỢC THỌ KÝ.

Hỏi: Ðối với kẻ phá giới quán Phật thành tựu Chánh Giác, không nên khinh thì có thể tin theo. Còn với kẻ đang đọa ở địa ngục hoặc vướng trong đường ma quỉ không thể phát bồ đề tâm, chưa có ngày đầu thai vào nẻo thiện, người niệm Phật há lại cung kính họ ư?

Ðáp: Người há chẳng nghe: Muốn lấy thuốc quí phải lấy nơi núi hiểm, chẳng phải vườn hoa sân cảnh có được. Muốn thu hoạch pháp dược cũng phải vào trong cõi hiểm, chẳng phải chốn vô vị tự sanh.

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm có 4 loại thọ ký: Một là chưa phát tâm thọ ký, hai là mới phát tâm phát tâm thọ ký, ba là ngầm thọ ký, bốn là đối trước mặt thọ ký. Nay hiện còn đọa ở địa ngục tức là kẻ chưa phát tâm. Họ đều được Phật thọ ký tương lai sẽ phát đại trí, gặp chơn thiện hữu, hành Bồ Tát hạnh và cuối cùng thành Chánh giác; nên không thể khinh thường. Ðây là kẻ chưa phát tâm được thọ ký vậy.

Lúc Phật nói 4 loại thọ ký, Ngài Ca Diếp bạch Phật: “Chúng con từ nay đối với tất cả chúng sanh đều sanh tư tưởng ‘Ðây là Phật’, nếu còn khởi một tâm niệm khinh khi tức là tự làm tổn thương mình”. Phật nói: “Hay thay! Ông nói rất phải! Không ai lượng xét được chúng sanh, chỉ có Như Lai mới lượng biết được mà thôi. Vì nhân duyên như thế nên ta baûo các Thanh Văn và chư Bồ tát đối với chúng sanh nên khởi tưởng ‘đây là Phật’”. Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh, phần Phá Bá Vạn Chướng môn cũng dùng tư tưởng này.

Như vậy thì kẻ hiện đang đọa trong đường ác được Phật thọ ký giống như nhà có báu vật, tuy cửa chưa mở, vẫn chẳng ngại gì đến ngọc báu bên trong; hay như trên trán có hột châu, dù có đánh nhau làm nó lún trong da, bên ngoài không còn thấy, nhưng hột châu vẫn chẳng mất.

Nếu chẳng nghĩ chúng sanh là Phật vị lai, tất coi lục trần là giặc cướp, thì khác nào muốn ngăn ma quân mà tự phá thành lũy mình (bỏ ý tưởng Phật) và giống như để nước địch sống chung cùng khiến gây mãi mối oan cừu không dứt (giữ ý tưởng lục trần để phải chịu luân hồi sanh tử). Giáp sắt chưa yên thì trống trận còn vang đâu thể nghỉ ngơi (trần còn động thì tâm không thành tam muội). Nếu khiến được kẻ chẳng hàng đến hàng, người không phục đều khuất phục thì có thể gom thiên hạ về một mối (nếu đem lục trần hoà hợp với tâm thì vào tam muội). Cờ đã được trương lên phất phới thì tất cả đều ồ ạt đi theo (khởi ý tưởng “ tất cả là Phật vị lai” thì mọi chướng đều tiêu). Bấy giờ từ giã yên ngựa về đồng quê vui cùng ruộng rẫy, mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ (không còn gì bận bịu vướng mắc, sống một cách tự tại). Như thế, dù là Thánh như vua Nghiêu cũng chẳng hơn ta được. Thấy bá tánh haèng ngày mà chẳng biết một ai (chẳng phân biệt xác thể khác nhau, chỉ thấy đều là Phật), lúc ấy mới rõ chỗ giáo hóa của Phật rộng khắp. Nếu ngộ được mọi thứ sắc thinh hương... đều là Phật, nghĩ chúng sanh đều là Phật vị lai thì còn có cảnh tượng phàm tục nào đối ở trước tâm nữa. Cũng như tưởng tự thân là đấng Bổn Tôn thì nơi pháp “ Du Già Chơn Ngôn Diệu Quán Môn” chẳng cầu mà đạt được vậy.

Như vậy do nghĩ tưởng mà có, đâu phải rỗng không chẳng được gì. Từ đó mới có thể thấy rõ Ðại bàng và chim sâu như nhau, thái sơn với lông hồng là một; không còn tâm hạn hẹp về giống nòi giòng họ, hết cả lo toan về sắc trần huyễn cảnh.

Hỏi: với kẻ đọa trong địa ngục chưa Phát Bồ đề tâm, Ðức Như Lai tha thứ thọ ký cho họ thành tựu chánh giác với muôn ngàn hào quang tỏa chiếu, tròn đủ mười hiệu v.v. đúng như lời Phật nói thì ai dám không tin. Song họ vốn chưa tỉnh ngộ, vậy do đâu mà họ tỉnh ngộ.

Ðáp: nói vốn chưa tỉnh ngộ cũng có nghĩa như nói: nguồn của Trường giang nước chỉ đầy chừng một chén, kẻ vốn rất mê vẫn còn đủ hai kiến (thân kiến, tà kiến). Nếu bảo rằng: ‘ngoài niệm là vô niệm, ngoài sanh là vô sanh’, tức sanh tử khác với Niết bàn thì muôn lời của Phật đều không dạy ai được. Còn rõ biết niệm mà vô niệm, sanh mà vô sanh, tức phiền não là bồ đề thì ngay đấy ngộ được “nhứt tướng trang nghiêm”. Như bầy ong trên núi, trong tổ toàn là mật, dưới giếng sâu thăm thẳm lại có sẵn bảo châu. Ðó đều là vốn có, chẳng phải mới sanh vậy.

Ðã nghĩ tất cả là Phật vị lai thì tội từ đâu sanh được. Ðã trải tâm ở khắp mọi duyên, thấy tất cả đều là Phật thì mọi thứ tham sân si... đã từng sanh ra, ngay đó làm sao còn được. Trong Kinh Như Lai Tạng, Phật bảo Kim cương Tuệ Bồ tát rằng: “Thiện nam tử, ta dùng Phật nhãn quán thấy trong tất cả chúng sanh phiền não tham sân si... có đủ Như Lai trí, Như Lai nhãn, Như Lai thân, vững ngồi kiết già bất động... cho đến có đủ các đức tướng của Như Lai không khác”. Rồi ngài rộng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Như lai tạng” và dùng 9 ví dụ để hiển rõ. Trong Bửu tánh Luận có giải thích ý nghĩa này và kết luận bằng lời kệ tụng rằng:

 

“Trong hoa héo ẩn tàng chư Phật,

 Giữa phân nhơ cũng có Kim thân,

Như trong đất hàm tàng trân bảo,

Như hạt sen sẵn có mầm non,

Ngay cây mục vẫn đủ Ca Sa,

Trong ràng buộc vốn đầy Phật tượng

Ở con gái nghèo hèn xấu xí,

Sẵn có hình Thánh Chuyển Luân Vương,      

Ngay trong chỗ than bùn đen cháy,

Ðều đủ đầy tượng báu Như Lai,

Trong chúng sanh còn tham sân si,

Ðầy vọng tưởng đảo điên phiền não,

Cùng mọi cảnh trần lao ô nhiễm,

Ðều sẵn đủ đầy Như Lai Tạng

Dưới chí đến a tỳ địa ngục,

Cũng đều có cả Như Lai Thân,

Các pháp chơn như thuần thanh tịnh,

Ðược gọi tên là Như Lai Thể”.

Kệ văn này đủ chứng minh việc thọ ký kẻ còn ở địa ngục sẽ bừng khởi giác ngộ, tự nhiên thấu suốt các môn tam muội.

Hỏi: người dụng tâm tu tập phải giữ tâm luôn bằng an thanh tịnh, dứt bặt sự phan duyên. Ở đây lại nói nên trải tâm duyên khắp tất caû và thấy mọi thứ đều là Như Lai. Chỗ nào dạy như thế?

Ðáp: Ðã có lời dạy rằng: Khởi tâm duyên khắp lục trần tam nghiệp đồng thời phát nguyện “được vào cảnh giới Phật” mỗi lúc duyên ra đều chẳng lìa Như Lai nên nói “Ðều thấy là Như Lai”. Ðây là cái thấy viên mãn, chẳng phải thấy bằng mắt. Nên kinh Niết Bàn nói: “Hàng Thanh Văn tuy có Thiên nhãn mà vẫn gọi là nhục nhãn, hàng Hữu học Ðại thừa thuy chỉ có nhục nhãn mà được gọi là Phật nhãn. Vì sao? Vì thấu rõ mình có Phật tánh vậy”.

Lại trong Kinh Thắng Thiên Vương, Phật bảo Thiên Vương rằng: “Bồ tát ma ha tát dùng sức phương tiện thực hành Bát nhã ba la mật đối với tấc cả pháp, tâm duyên tự tại. Duyên với sắc thì nguyện được sắc tướng vô sở đắc của Phật. Tâm duyên với thinh thì nguyện có được âm thinh vi diệu của Như Lai. Duyên với hương thì tâm nguyện đạt được giới hương thanh tịnh của Như Lai. Duyên với vị thì nguyện thành tựu được tướng đại trượng phu trong các vị của Như Lai. Duyên với xúc  thì nguyện được bàn tay mềm dịu (không chấp trước) của Như Lai. Duyên với pháp thì nguyện chứng được tâm tịch tịnh của Như Lai. Duyên vào thân mình thì nguyện được thân của Phật. Duyên đến miệng mình thì nguyện được miệng của chư Phật. Duyên lại ý mình thì nguyện được ý bình đẳng của Phật”. “Thiên vương! Bồ tát ma ha tát thực hành bát nhã ba la mật không có một tâm một hạnh nào trải qua một cách trống rỗng chẳng hướng về trí tuệ, tâm duyên khắp các pháp mà chẳng  dính mắc vào các pháp được quán thấy và không lúc nào chẳng hướng về đạo bồ đề. Bồ tát tu tập các hạnh đều do các duyên bên ngoài mà được thành tựu. Giống như đất bằng nằm trên một vùng nước rộng nếu đào ao giếng thì sẽ được nước, còn chẳng đào thì không do đâu mà thấy nước được. Cũng như vậy, cảnh giới Thánh trí có ở khắp cả pháp nếu chuyên cần tu bát nhã phương tiện thì chứng được, còn không tu thì chẳng làm sao mà đạt được”.

Như vậy, ý nghĩa tâm duyên vào các pháp há chẳng quan trọng ư?

V- QUÁN KHÔNG, VÔ NGÃ CHỌN THIỆN MÀ THEO

Hỏi: Ðộng mà tịnh, tịnh là chủ của động. Phàm mà Thánh. Thánh ẩn ở trong phàm. Xin nghe theo ý chỉ sâu xa ấy. Còn vấn đề vô ngã cuûa tam giáo (nho, đạo, Phật,) lý đã không khác và việc chọn thiện để theo, cả hai có nghĩa như thế nào?

Ðáp: Về lý vô ngã, 3 giáo (nho, đạo và Phật) đều chưa từng khác cũng chưa từng giống. Song Khổng giáo thí lấy nghĩa khiêm hạ sáng suốt làm vô ngã, Ðạo giáo lấy chỗ trường tồn không đoạn kết là vô ngaõ, Phật giáo thì lấy quán “ngũ uẩn giai không” làm vô ngã.

Hai giáo trước (Nho và Ðạo) đều chẳng thấu rõ ngũ uẩn, chẳng biện biệt được Tứ đế, lục độ vạn hạnh. Về tầng bậc Thánh Hiền, trong hai giáo này bỏ qua không nói đến, chỉ có Phật giáo mới diển tả Thánh là bậc hòa quang đồng trần (hoà lẫn với thế gian nhưng sống sáng suốt), luôn giữ lấy vẻ mềm dịu yên lặng, đã từ hoà lại kiệm ước, không xông xáo trong vòng tranh đua thế sự. Ở mỗi bậc thánh trong Phật giáo này, xét theo phương diện động dụng thì có cạn sâu khác nhau. Ðó là nói về vô ngã của ba giáo.

Việc chọn thiện mà theo là nói về lý 3 tánh: thiện, ác và vô ký. Lý này không đâu không có (cả 3 giáo đều có) người tu tâm nên chọn thiện mà theo. Bởi vì đối với pháo chí chơn, điều bất thiện gây ra nhiều bất lợi; còn vô ký thì làm mất hết cả hai thiện và ác. Mọi sự trái loạn lý Phật chẳng gì chẳng do hai tánh (ác và vô ký) này nên Thánh nhân trừ bỏ chúng, không theo. Do đó Kinh Niết bàn nói:“Kẻ nhứt siển đề tâm chẳng duyên đến một pháp thiện nào, đến nỗi chẳng sanh một niệm thiện”. Thế thì biết: đối với niệm Phật tam muội, điều thiện là pháp tối thượng, là hạnh đứng đầu trong muôn hạnh, nên nói “Thiện là vua của tam muội” vậy.

VI- KHÔNG CÓ THIỆN ÐỂ CHỌN KHÔNG CÓ ÁC ÐỂ BỎ.

Hỏi: Nếu chọn thiện mà theo thì đâu khác gì: chọn thiện chư Phật bỏ ác chúng sinh (chọn Phật bỏ chúng sanh), làm sao gọi là “niệm chư Phật vi lai (chúng sanh) đồng như niệm chư Phật quá khứ hiện tại” được?

Ðáp: Ngay câu hỏi đó đã tự trả lời cho tôi rồi. Vì sao? Vì chọn thiện mà theo thì bất đắc dĩ mà nói vậy. Có  nghĩa, kẻ trí lực yếu lại mang nghiệp chướng nặng nề không thể thấy “ác mà thiện” được, không thấy “vọng mà chơn” được nên phải chọn lực cho minh bạch. Còn nếu người đã từng niệm Phật vị lai hợp cùng hạnh bất khinh, đã thấy được đất trời như một ngón tay không phân cách, vạn vật như con ngựa độc nhất không gì sai biệt, thấy chúng sanh đều là Phật và cõi này thường thanh tịnh hoàn toàn khác cái nhìn đất bùn sỏi đá của Thu Tử (Xá lợi Phất), đồng một cái thấy trân bảo trang nghiêm của Phạm Vương Thiên, như thế thì đã đến chỗ cùng tột của việc chọn thiện và không còn ác để xả vậy. Ðây chính là chỗ mà ngài Thiên Thai Trí  gỉa dẫn chứng khi ngài giảng Kinh Pháp Hoa nói về diệu lý tuyệt đối:

“Chúng sanh thì thấy kiếp cùng tận

Như lúc bị đại hỏa đốt thiêu

Còn ta thấy cõi này an ổn

Thường xuyên có các bậc đại nhân

Vườn rừng với nhà cửa lâu đài

Có nhiều thứ báu rất trang nghiêm”.

Kinh Thắng Thiên Vương lại nói: “Chỗ của Phật an trụ vốn thật không phải cõi nhơ. Vì chúng sanh bị phiền não bức bách ràng buộc mà thấy là bất tịnh”. Cũng một ý ấy vậy

Tiếng Phạn là namo (nam mô), tàu dịch là Qui mạng (Kính nương về). Tiếng Phạn Amita (Adiđà), tàu dịch là Vô lượng Thọ tam thế chư Phật, Há chỉ riêng kính một Phật là Vô Lượng Thọ sao. Nay đồng niệm tam thế Di Ðà (Di đà quá hiện lai vi) nguyện đồng sanh mười phương Cực lạc có gì đâu chẳng được mà muốn bỏ lối nhanh theo đường chậm lụt (chỉ nghĩ một Phật, mà không nghĩ tất cả là Di Ðà). Chỉ như thế, mới bừng được ngọn lửa tam muội đốt cháy; không một mảy may ong muỗi tri kiến hư vọng nào còn sót lại; mới gióng được tiếng chuông thập niên ngân vang, không giây phút nghỉ ngưng xưng hiệu Phật, mới thấy rõ ràng chúng sanh là Phật. Niệm Di Ðà suốt 3 đời (tam thế Di Ðà) đã được như thế thì niệm Chư Phật Bồ Tát há chẳng được như vậy ư!

Hoûi: Niệm Phật vị lai không k hác gì niệm Phật quá khứ và hiện tại, ý nghĩa thế nào, xin được nghe biết?

Ðáp: Hoa Nghiêm Kinh nói: “Tất cả các Như Lai đồng chung một pháp thân, một tâm, một trí huệ, lực và vô úy cũng vậy”. Trong kinh Lảng già có kệ nói: “Ca Diếp, Câu Lưu Tôn, Câu na hàm cả ta có 4 thứ bình đẳng. Ta nói cho Phật tử, bốn thứ bình đẳng là: một chữ bình đẳng: có nghĩa đều được gọi là Phật; hai - lời bình đẳng tức đều đầy đủ tưóng Phạm âm thinh Ca- Lăng-tân-gìa; ba - pháp bình đẳng là đều chứng đắc rốt ráo các pháp bồ đề phần và trí vô chướng ngại; bốn - thân bình đẳng là tất cả đều có pháp thân và tướng sắc thinh tốt đẹp không sai biệt”.

Khởi Tín Luận nói: “Do đường đi nên thấy đổi chớ phương hướng thật không đổi”. Như vậy,khi nhận ra (ngộ) chỉ cần nhận ra một hướng thì tất cả Phật đều đúng, khi niệm chỉ cần niệm một Phật thì tất cả Phật đều hiện tiền.

Kinh nói: nước chảy thăng lên, trăng chẳng rớt xuống. Do nhân duyên ánh sáng của trăng và sự lặng lẽ của nước mà mặt trăng lồ lộ giữa hư không mới hiện ở trong nước. Cũng vậy; Phật chẳng đến đây, ta cũng chẳng đi. Chỉ do nhân duyên niệm Phật, mà mặt trăng Như Lai mới hiện trong nước tâm ta. Ðồng một ý này, tụng chép:

“ Bồ tát như trăng trong lành mát

Vận hành nơi cứu cánh hư không

Nước tâm chúng sanh khi tịch tịnh

Bóng Bồ đề sẽ hiện vào trong.”                                              

(Bồ tát thanh lương nguyệt

 Thường du tất cảnh không

 Chúng sanh tâm thủy tịnh

 Bồ đề ảnh hiện trung).

 

VII-KHÔNG NÊN ĂN THỊT CHÚNG SINH.

-                 Hỏi: Thịt là thức ăn của con người. Sao người niệm Phật lại không ăn? 

-                 Ðáp: Ngày xưa vua Thi Tỳ còn tự leo lên giá cân, cân thịt mình để cứu chim bồ câu, bởi vua nghĩ mình và chim tuy khác loài nhưng vẫn cùng một tánh bảo thủ mạng sống. Lẽ nào ta nay lại ăn thịt chúng để nuôi dưỡng thân hư hoại này mà vô tư không biết gì đến nỗi sợ hãi của chúng ư. Nếu đã hiểu được chúng đều là Phật vị lai thì ai còn làm các việc săn mồi bẩy thú để phải mang lấy cái chết đọa lạc như phù du vào lửa. Trong Kinh Lăng già, phẩm Phật Ngữ Tâm chép:

 

“Vì lợi mà giết chúng sanh “Vì lợi mà giết chúng sanh
“Vì lợi mà giết chúng sanh “Vì lợi mà giết chúng sanh

Theo đó mà biết, nếu chẳng đặt ra việc tiền tài thì các việc bắt và giết tự chấm dứt vậy.

Thế nên Ngài long Thọ không bao giờ coi thường cả con chim nhỏ, bậc Cao Tăng chẳng dẫm đạp kiến trùng. Có ai hỏi lý do thì các ngài đáp rằng: “Chúng và ta cùng ở trong sanh tử. Biết đâu chúng thành Chánh giác trước ta. Chẳng nên Kinh thường chúng vậy”. Khinh thờng còn không nên, há lại cướp lấy máu thịt của chúng để ăn ư?

Bửu Tánh luận chép: [Trong Kinh Như Lai Tạng, Phật bảo xá lợi Phất rằng: “Chúng sanh là đệ nhứt nghĩa đế, là Như Lai Tạng, là Pháp thân, là Bồ đề”]

Chúng ta khác nào như con chó chạy theo vật động trước mắt, chẳng biết nhắm ngay vào người nên vật ấy không bao giờ ngừng.(vì vật này do người ấy giựt dây); Chỉ biết niệm Phật quá khứ hiện tại chẳng chịu niệm Phật vị lai (chẳng kính trọng chúng sanh) nên tâm khinh mạn không đoạn dứt được. Nếu biết làm như Sư tử nhắm ngay vào người thì vật ấy tự ngưng, biết tưởng niệm chúng sanh là Phật vị lai thì tâm khinh mạn dứt vậy.

Song đã nghe lẽ Kính Khinh rồi, để cải đổi mà lại đổi kính ra khinh, coi cha mẹ ngang bằng kẻ bình thường thì thành kẻ đại nghịch; còn đổi khinh ra kính, coi người bình thường ngang bằng cha mẹ thì là người đại hiếu. Do đó Kinh Phạm Võng nói: “Sáu đường chúng đều là Cha mẹ ta, hiếu gọi là giới”. Ýù muốn nói về việc này vậy.

Ðối với việc xem chúng sanh là Phật vị lai, thì bảo rằng  “Chúng sanh là cha mẹ”ø đó chỉ mới nói chỗ gần thôi. Nếu có thể như chú Sa di cứu kiến khiến thọ mạng ngắn trở nên dài, có thể đồng làm như Lưu Thủy trưởng giả cứu cá cảm hoa trời rơi xuống như mưa, bỏ cái thấy là chúng sanh từ vô thỉ kiếp”, chỉ nghĩ đó là thân của đức Phật tương lai, biết trong phân nhơ vốn có vàng ròng, tin giữa mây dày có vầng trăng sáng thì cái “sương mù” ăn thịt, cái”bụi khói” sanh tử sẽ bị “ngọn gió” trí tuệ trong “bầu trời” tam muội quét sạch Phạm võng Kinh nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành. Thường có lòng tin như thế, thì giới phẩm được trọn vẹn”. Sao chẳng nghĩ suy?

Hỏi: Thịt không thể ăn thì tin được rồi. Còn ngũ tân thì thế nào?

Ðáp: Lời Phật dạy rõ ràng. Trong Kinh Ðại Phật đảnh chép [ Phật bảo Anan “năm thứ cay nồng này ăn chín thì phát dâm, còn ăn sống thì tăng nóng giận. Người ăn ngũ tân giả như đọc tụng 12 bộ Kinh thì mười phương Tiên thiên đều do ghét mùi hôi nhơ ấy mà tránh xa cả. Các ngạ quỉ vì thấy người ấy ăn ngũ tân nên đến liếp môi mép họ. Họ thường chung đụng với quỉ, mặt trời phước đức dần dần lặn mất làm tăng trưởng nhiều điều bất lợi. Người ăn ngũ tân này khi tu Tam ma địa(Samadi), các Bồ tát Thiên Tiên trong mười phương cũng không đến bảo hộ được, bọn ma vương có nhiều dịp để quấy phá”. Phật lại bảo Anan: “Người tu đạo bồ đề bỏ vĩnh viễn ngũ tân được gọi là người tu hành có trình tự tiến nhanh nhất”]. Ðây là lời từ Kim Khẩu của Phật, há chẳng thành thật ư?

Với rượu, cố nhiên chẳng cần nói cũng phải biết.

Trong Kinh Bách Dụ chép: Xưa có người nghèo đi đường gặp túi tiền vàng. Ôâng ta rất vui mừng liền đếm tới đếm lui. Ông đếm chưa xong, người chủ túi tiền bỗng lấy lại hết rồi đi. Ông ta mới hối hận “sao mình chẳng đi sớm?” rồi trong lòng buồn tức, dáng vẻ rất là khổ não. Người gặp Phật pháp cũng như thế. Tuy được gặp Tam Bảo mà chẳng chuyên cần tu hành, chỉ ham thích nghe nhiều. Lúc ấy chợt mạng chung sẽ đọa vào ba đường ác, khác nào kẻngu kia bị người chủ lấy hết tiền rồi bỏ đi vậy. Kệ viết:

“Hôm nay lo việc này Ngày mai lo việc kia
Vui đắm chẳng thấy khổ  Bất ngờ giặc chết đến
Vội vàng lo các việc Phàm nhân đến thế cả
So kẻ đếm tiền kia Việc này cũng như vậy”.

Bảy điều trên đều nói về niệm chư Phật vị lai để thấu suốt ý nghĩa tam thế chư Phật. Nếu thích niệm Phật Di Lặc thì được sanh lên cung trời Ðâu suất gặp ngài Từ Thị. Ðây là chỗ ngài Di Thiên Thích Ðạo An tán thán vậy.

 

VIII- NIỆM CHUYÊN CHÚ 1 CẢNH PHẬT HIỆN TẠI

Hỏi: Về niệm Phật vị lai tức là Chúng sanh, đã biết rõ huyền nghĩa và sự lý sâu rộng rồi. Song, sợ niệm như thế tâm tán loạn khó kiểm soát. Nay muốn hợp nhất bằng cách chuyên hướng về Tây phương niệm một Phật Di Ðà ngõ hầu đến được địa vị bất thối, dứt trừ tâm hữu lậu, bơi chiếc xuồng con ở ao Huỳnh Kim, lễ đức Di Ðà trong điện Bạch Ngọc, thấu suốt được ba đời, thấm nhuần ngôi cửu phẩm. Như thế có được hay chăng?

Ðáp: Trong Thập Trụ Bà Sa Luận của Long Thọ Bồ Tát viết để giải thích Kim Hoa Nghiêm, phần luận về hạnh dễ hành có nói: “Bồ tát đạo có hạnh khó hành như bơi xuồng trên  lộ, cũng có hạnh dễ hành như chèo ghe dưới nước. Ðức Phật A di Ðà vốn có nguyện lực. Nếu ai nghe đến danh hiệu của ngài rồi xưng niệm tự muốn về nước ấy thì khác nào như ghe gặp nước, lại được thuận gío, phút chốc vượt cả ngàn dặm, rất là dễ dàng. Nhờ thế mà phụ vương và quyến thuộc của Ðức Thích Ca Như lai gồm 6 muôn người họ Thích đều sanh về cõi Cực lạc cả. Bởi vì Phật A di Ðà cùng với chúng sanh ở cõi này có nhân duyên rất sâu xa”. Như vậy, chuyên chú niệm một cảnh ấy cũng là phương pháp rất hay để thấu suốt trọn vẹn ba đời chư Phật.

Hỏi: Chuyên chú niệm một cảnh thì thấu suốt trọn vẹn ba đời là điều chắc thật rồi. Song, xưng niệm tự muốn vãng sanh về nước ấy cũng là việc hữu vi hư ngụy như gío nhiều sóng to, làm tâm thêm loạn. Vì sao không bỏ các ý tưởng giong ruỗi bên ngoài ấy, chỉ gom tâm vào trong cho hợp với yếu chỉ vô vi?

Ðáp: Hữu vi tuy hư ngụy nhưng xả bỏ thì đạo nghiệp không thành. Vô vi  tuy chơn thật nhưng chấp thủ thì tuệ tâm cũng chẳng sáng. Kinh nói: “Chán lìa công đức hữu vi tức là ma nghiệp, đắm thích công đưùc vô vi cũng là ma nghiệp”. Nay người còn có tâm chán thích thì làm sao ra ngoài vòng ma.

Lại như thấy Thánh Hiền nhiếp tâm mà gọi là trong, thấy phàm phu giong ruỗi tư tưởng mà bảo là ngoài. Rồi cho rằng  “duyên ra là loạn, trụ vào là định” thì cũng là cái giong ruỗi trong ngoài, chẳng phải ý chỉ nhiếp tâm của niệm Phật tam muội. Khi giải nghĩa kinh Duy ma, ngài La Thập pháp sư có kể: “Ởû một nước nọ có một cô gái, thân mình màu vàng ròng. Cô ta được con một trưởng gỉa tên là  Ðạt-mô-đa-la đem ngàn lượng vàng làm lễ mời vào rừng trúc cùng đi. Bấy giờ ngài Văn Thù Bồ Tát hiện thân làm một người cư sĩ mặc y phục bằng ngọc báu đứng ở giữa đường. Cô gái trong thấy, trong tâm liền khởi lòng tham. Ngài Văn Thù đoán biết nên nói rằng: “Cô muốn được y này phải phát tâm bồ đề”. Cô gái hỏi: “Thế nào là tâm bồ đề?” Ngài Văn Thù đáp: “Chính là thân cô”. Cô gái hỏi: “Sao là thân tôi?”, ngài Văn Thù trả lời:” Tánh của Bồ đề là không, thân của cô cũng không nên tâm bồ đề là thân cô vậy”. Cô gái này đã từng ở nơi đức Phật Ca Diếp gieo trồng nhiều căn lành, rộng tu trí tuệ nên nghe lời ấy rồi liền  chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ðắc xong Pháp Nhẫn, cô bèn bày tỏ lỗi lầm ham muốn của mình, sau đó quay ra đi với con trưởng gỉa vào  rừng. Khi đã vào trong rừng, cô hoá hiện thân mình chết, sình trướng hôi thối. Người con trưởng giả thấy vậy rất ghê sợ, bèn đi đến chỗ Phật. Ðức Phật vì ông nói pháp. Ông cũng chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn”.

Chưa thành tựu Ðại giác tức chưa rảnh việc làm nên gọi là nhẫn. Quán thật tướng của thân mình và thật tướng của thân Phật, thì thân người nữ là không, thân Phật cũng không, chưa từng có dị biệt. Cũng thế, nghĩa của bồ đề há có dị biệt sao?

Vậy thì tất cả hữu vi đều là vô vi, mọi thứ trong ngoài đều chẳng phải trong ngoài. Song, tại hữu mà chưa từng có hữu, hữu mà thường vo â; ở nơi vô mà chưa từng vô, vô mà luôn luôn hữu, như thế thì lo gì Phật có tướng, tâm có niệm.

IX – ÐỜI NÀY ÐỜI SAU TÙY THUỘC MỘT NIỆM VÀ MƯỜI NIỆM.

Hỏi: Vấn đề dễ hành, khó hành và quán thân là bồ đề, yếu chỉ ấy đã rõ ràng không còn thắc mắc nữa. Xét nghĩ, con người sống trong thế gian, thế gian thoáng mau như chớp lóe lưaû xẹt, một niệm sai lạc rồi thì ăn năn không kịp. Người tu đạo đã không yêu tiếc tâm há lại yêu luyến thân, thân mình còn không thương yêu há lại thương yêu thân ngoài ư? Thường sợ hơi thở đi ra rồi không trở lại phải thuộc đời sau như cỏ bồng  trong gió cuốn mờ mịt không biết về đâu. Xin ngài chỉ bày pháp một niệm và mười niệm ngõ hầu dự bị cho đời này và đời sau.

Ðáp: Gặp được pháp môn tịnh độ là có phước nghiệp và công đức lớn vậy. Hàng nhị thừa ngưng thần trong cảnh giới hư vô, đắm trước ngoan không sợ hãi các tướng, chẳng nghĩ đến chúng sanh nên không có tịnh đoä. Chỉ có đại thừa mới có Tịnh độ mà thôi.

Kinh Bi Hoa nói: “Phật A Di Ðà, thuở xưa là vua Chuyển Luân tên Vô Tránh Niệm có đủ các báu và ngàn người con. Nhờ có Ðại Thần Bảo Hải làm Thiện tri thức, nên ngài ở nơi đức Phật Bảo Tạng phát bồ đề tâm, nguyện giữ lấy cõi Tây phương Cực lạc tịnh độ”. Trong tất cả các kinh, những vị Phật Bồ Tát Thinh Văn đều là ngàn người con của ngài thưở xưa cả. Trong đó vị thái tử đều tên Bất Thuấn tức ngài Quán Thế Âm. Vị kế tên Ma ni là ngài Ðại Thế Chí. Vị kế nữa tên Vương Chúng là ngài Văn Thù Sư Lợi. Vị kế nữa tên Năng-gìa-nô là ngài Kim Cương Trí Tuệ Quang minh Bồ Tát. Vị kế nữa tên Vô Uý tức là Liên Hoa Tôn Như Lai. Vị kế nữa tên Am-bà-la tức Hư Không Quang Minh Bồ Tát. Vị kế nữa tên Thiện Tý tức Sư Tử Hương Bồ Tát. Vị kế nữa tên Miên đồ tức ngài Phổ Hiền Bồ Tát. Vị kế nữa tên Mật-Tô tức là Phật A Súc.

Ngài Vương tử Mật-tô từ khi phát tâm đến nay, mỗi lúc đi, ở từng bước chân từng tâm niệm đều luôn niệm chư Phật. Hiện nay ngài đã thành Chánh giác sanh về cõi Diệu Lạc. Chúng ta đây cũng thấy mình đi trên đường rộng, bước chỗ rừng sâu thì có khác gì cái thấy của Ngài Mật tô. Như vậy lúc vào nơi náo nhiệt, khi đi chỗ bình yên, với đủ vẻ trang nghiêm hay đang ngựa xe vội vã há chẳng thể dụng tâm niệm Phật trong từng bước một được ư? Ðược thế thì so với xưa, tiết tháo vẫn không sai khác vậy.

Phàm lúc uống ăn, làm việc, giao tiếp trong vòng sanh tử, không ai không có hơi thở ra vào. Một hơi thở ra mà không trở lại thì thuộc đời sau đúng như điều ở trên đã hỏi. Người ở đời phần nhiều dùng ngọc báu, thủy tinh, kim cương, hột bồ đề hoặc các thứ cây để làm chuỗi. Chúng ta nếu lấy hơi thở làm chuỗi, tùy theo hơi thở mà xưng niệm Phật tức có chỗ nương nhờ thì đâu còn sợ “hơi thở không trở vào liền thuộc đời sau” (chẳng còn lo tái sanh). Tôi thường đi đứng nằm ngồi đều dùng chuỗi hơi thở này, giả như có ngủ mê thì ngậm Phật mà ngủ, tỉnh dậy liền tiếp tục. Như thế chắc chắn trong mộng sẽ được thấy Phật. Như cọ cây lấy lửa, khói là tướng trước của lửa, thấy có khói thì lửa sẽ co ù; cũng vậy trong mộng thấy Phật thường xuyên thì tam muội chắc chắn thành, tương lai chắc chắn được tận mặt thấy đức Phật Di Ðà, được thân cận ngài và được ngài thọ ký. Ðược như thế thì muôn việc chẳng mất một điều gì vậy. người hãy nên cố gắng!

Hỏi: Một niệm vãng sanh và mười niệm vãng sanh, điều nào đúng?

Ðáp: Chỉ một niệm được vãng sanh trụ vào hàng bất thối. Ðây là điều đúng vậy. như Phật nói: “báng Phật, huûy kinh, đánh tăng,chửi thánh, làm tội ngũ nghịch tứ trọng đều chỉ một niệm mà ác nghiệp thành tựu, đọa vào vô gián địa ngục nhanh như tên bắn. Nay niệm phật sanh về tịnh độ, cũng chỉ một niệm mà thiện nghiệp thành tựu, vãng sanh cực lạc chóng tợ co tay. Một niệm trước ngũ ấm diệt, một niệm sau ngũ ấm sanh giống như sáp đèn cầy dính vào vật, sáp hết thì thành dấu. Như thế còn chẳng cần đến hai niệm há cần đến mười niệm ư?

Lại một niệm như kinh nói: Chú Sa di thích ăn Lạc tô, chỉ vì khởi một tâm niệm ham muốn mà sau bị sạnh làm con trùng trong lạc tô. Hay như vợ trưởng giả Ðại-Tát-bà ngồi soi gương tự yêu thích thân mình, sau đi trên biển bị gió thổi lật thuyền làm chết đuối, sanh làm trùng trong tử thi của mình, cứ vui chơi qua lại chẳng rời tử thi ấy. Ðó đều là một niệm chẳng phải mười niệm.

Lại Kinh Ðại Vô Lượng Thọ noí: “Chỉ một niệm niệm Phật cũng đều được vãng sanh”. Trong Quán kinh nói mười niệm là có lý do. Bởi người mắc bệnh gầy yếu, sức kém, tâm yếu đuối cần phải xưng 10 lần đức Di Ðà để trợ lực cho tâm niệm bên trong. Nếu kẻ có tâm mạnh mẽ không mê muội thì chỉ được một niệm liền được vãng sanh.

X-TÂM NÀY LÀ PHẬT, TÂM NÀY LÀM PHẬT

Hỏi: Kinh đã nói: “Tâm này là Phật, tâm này làm Phật”, sao lại còn dụng tâm xưng niệm Di Ðà, giữ tư tưởng nơi nước Cực lạc xa xôi? Vả lại niệm Phật hiện tại và khởi cung kính Phật ở vị lai đều là cầu bên ngoài làm sao gọi “tâm này là Phật” được?

Ðáp: Ông hỏi như thế chẳng đúng! Ông chỉ biết dẫn Kinh mà chẳng biết chỗõ qui thú của Kinh. Câu ấy ở trong Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh là kinh nói về niệm Phật A Di Ðà. Vì niệm Phật, Phật từ tư tưởng sanh ra nên nói “tâm này là Phật”. sao lại trộm lấy pháp quán Di Ðà rồi trở lại bêu rêu tâm Di Ðà. Nếu hiểu như thế thì chẳng niệm Phật vẫn bảo rằng tâm là Phật, chẳng tưởng ác lại nói rằng tâm là ác được sao? Cả hai đều đã chẳng phải như vậy. Huống hồ đối với đức Di Ðà, 10 vạn ức núi tu di chẳng ngăn được nhãn căn của ngài, hà sa tướng hảo quang minh đều do nguyện lực tạo thành; và đối với Cực Lạc, chỉ trong khoảng co cánh tay liền được vãng sanh, sao còn lo ngại phương ấy gần xa?

Hỏi: Xin nghe theo sưï giảng giải về lý “Tâm này là Phật” của ngài. Song, về 16 pháp quán trong kinh này trình bày thì có thể tưởng băng, mặt trời, núi vàng sáng chói...; còn ánh sáng ma ánh sáng Phật, quán của mình, quán của người có tà chánh lẫn lộn nếu cả hai đều trong lặng thì làm sao phân biệt. Xin ngài chỉ bày các việc này để người niệm Phật tu tập một mình không gần thầy có thể tự an tâm.

Ðáp: Tưởng về băng là gốc để mở rộng tưởng đến đất lưu ly, tưởng mặt trời để dần dần tưởng đến ánh sáng bạch hào. Y theo tư tưởng mà hiện thì gọi là của mình là chánh. Còn chẳng hiện đúng với sự tưởng tượng thì gọi là của kẻ khác, là tà. Như vốn tưởng về bạch hào, bạch hào chưa hiện rõ; trong khi chưa tưởng về mắt xanh mà mắt xanh lại hiện ra, như thế là trái với tâm gốc, gọi là tà. Tưởng tượng về các thứ khác cũng vậy.

Lại nữa, ánh sánh ma thì có bóng và chóa mắt, ánh sáng Phật thì không có bóng và chẳng chóa mắt. Nên trong Lăng Già Kinh có kệ nói:

“Cõi Phật hơn tất cả Rất thanh tịnh trang nghiêm
 Rực rỡ như lửa hừng Quang minh soi cùng khắp
Sáng bừng không hại mắt Bao trùm hết ba cõi”.

Hỏi: Như thế thì ánh sáng bừng chiếu làm hại mắt là ma, còn ánh sáng không chóa mắt là Phật phải chăng?

Ðáp: Nếu là ánh sáng chơn thì nó làm cho thân tâm người niệm Phật được lặng trong thanh tịnh. Còn ánh sáng ngụy thì khiến người niệm Phật tâm xao động hoảng hốt. Do đó kinh Niết Bàn nói: “Trong ngần thanh tịnh là chơn giải thoát. Chơn giải thoát tức là Như lai”.

Hỏi: Ðấng Chí Nhơn (Thánh) vô tư, ta nay lại dùng tưởng há chẳng sai lầm ư?

Ðáp: Chẳng sai lầm. Như Kinh Ðại Uy Ðức Ðà la ni nói: “Muốn vượt ngoài sự ràng buộc của các cõi phải phát tâm ham thích tưởng nghĩ điều vô dục”. Nay cũng vậy, muốn tu niệm Phật cũng phải phát tâm tưởng để nghĩ tưởng điều vô tưởng. Vì lẽ đó mà Kinh Phương Ðẳng Phổ Hiền nói: “Lòng ham muốn ác, tưởng về người nữ thì mộng thấy người nữ; lòng ham thích thiện; tưởng đến Phật thì mộng thấy Phật”.

Nên biết hai tư tưởng ấy tuy đồng là tưởng mà có thiện ác cách biệt như trời vực. Ðừng nghe nói “đó là tưởng” rồi chán bỏ. Nếu chán bỏ tưởng thì tuy chẳng hủy kinh báng Phật cũng vẫn chỉ sanh vào cõi trời cô tưởng. Nếu cứ cố chấp vô tưởng rồi dèm chê việc tưởng Phật thì gọi là báng Pháp. Báng pháp thì đọa trong tù ngục ở mười phương không có ngày ra, há có thiên cung để mong cầu. Giả như được sanh lên cõi trời vô tưởng ấy thì cũng gọi là ngoại đạo thiên, chẳng phải đường giải thoát.

Niết bàn kinh nói: “Nghe nhằm tiếng trống độc, gần xa đều chết cả”. Ðiều này cũng như vậy. người nào bỏ tư tưởng thì gần xa đều sa đọa. Kinh nói: “Có khi cách mặt đất một thước hai thước du hành qua lại” là ý nói chỗ này. Như thế thì làm sao khỏi trôi lăn trong ba cõi, đồng vãng sanh vào cửu phẩm liên hoa. Huống hồ làm chìm ghe, làm nổi ghe đều do nước; nguyên nhân vấp ngã, nguyên nhân đứng dậy là đất; Cũng vậy tư tưởng vọng là chúng sanh, tư tưởng chơn là Phật, lìa ngoài tư tưởng thì lấy gì mà dùng.

Hỏi: Sự đã giải xong, còn lý thì thế nào? Như Kinh Ban Châu tam muội nói: “Tâm khởi tư tưởng tức là si mê, vô tưởng là Niết bàn”. Nay nói phải dùng tư tưởng thì chẳng trái với kinh sao?

Ðáp: Chẳng trái. Vì giữ tư tưởng Phật, tâm thường nghĩ tưởng đến Phật thì chẳng phải si. Chỉ có bỏ tư tưởng Phật lấy tư tưởng ác và chấp thủ cái Không làm vô tưởng mới là điều rất si mê. Chúng ta nay rõ biết Phật từ tư tưởng sanh, vốn thật không có Phật không có tưởng, như thế thì có gì là si. Ðó là quán “Không tam muội” là chẳng tà kiến vậy.

Ông lại hỏi về lý, tôi nói cho ông rõ. Người đã thể nhập được thể tánh chơn thật lặng lẽ thì tâm thường rỗng rang như hư không, tuy vaïn pháp soi chiếu mà tâm chưa từng có niệm. Ấy là Chơn trí không duyên vào đâu thì không có niệm, Tục trí có duyên neân niệm tưởng sanh. Lại nữa “Tưởng chẳng khác Không, Không chẳng khác tưởng” gọi là “Ðệ nhất nghĩa trung đạo”; đây là hiển bày pháp thân. “Tưởng tức là Không” gọi là chơn đế; phá 25 cõi đắc 25 tam muội, thường không tịch thường hóa hiện hòa quan lợi vật đều từ chơn đế, đây là hiển nói hóa thân. “Không là tưởng” gọi là tục đế, hằng sa vạn đức đều nương vào tục đế, đây là hiển báo thân. Như thế là lấy tam quán để quán tam đế chứng tam đức thành tựu tam thân, cho đến thập chủng tam pháp, có gì lại chẳng được mà muốn loại trừ tư tưởng thanh tịnh, thủ lấy cái tưởng vô tưởng, bế tắc nẽo thiền định giữ mãi sự cách ngăn với việc thành Phật.

Kinh Lăng Già Mật Nghiêm chép: “Thà khởi cái thấy có như núi tu di, đừng khởi cái thấy không dù chỉ bằng hột cải” cái thấy có nghĩa là tin nhân quả, giữ tư tưởng Phật. khởi thấy như thế được sanh về cõi tịnh độ Cực Lạc nên bảo “thà khởi thấy có”. Khởi thấy”Không” nghĩa là bài bác nhân quả, hủy báng niệm Phật. Khởi thấy như vậy chắc chắn sanh vào A tỳ địa ngục nên răn bảo “đừng khởi thấy không”. Ðây là điều đáng sợ vậy.

---o0o---


Âm lịch

Ảnh đẹp