NGHỆ THUẬT HẠNH PHÚC TRONG THẾ GIỚI PHIỀN NÃO
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
PHẦN MỘT TÔI, CHÚNG TÔI, VÀ HỌ
Chương 2
Tôi và Chúng Ta
Mối Quan Hệ Trên Trình Độ Căn Bản Của Con Người
Buổi sáng
ngày hôm sau, chúng tôi đã tiếp tục thảo luận về cộng đồng.
“Thưa Đức Thánh Thiện, hôm qua,
chúng ta đã nói về vấn đề những người cảm thấy bị cô lập và những lợi ích của ý
thức cộng đồng này,” tôi bắt đầu, “do thế, một cách căn bản, những gì chúng ta
đang nói đến ở đây là đang đồng nhất với một nhóm rộng hơn, một loại hướng từ việc
tập trung trên “tôi” đến tập trung trên “chúng ta”.
“Đúng đấy.”
“Bây giờ, những lợi ích cho điều này
làm cho sự định hướng rất rõ rệt. Có
những lợi ích cho cá nhân chẳng hạn như sức khỏe tốt hơn, cũng như lợi ích cho
phúc lợi của cộng đồng và xã hội mà chúng ta đang sinh sống. Cũng thế, không nghi ngờ gì nữa rằng những
mối quan hệ giữa cá nhân, mạng lưới xã hội, v.v… cung cấp nguồn gốc năng lực to
lớn nhất cho hạnh phúc con người. Trong
các buổi thảo luận của chúng ta những năm qua, thậm chí trước khi nhận ra tầm
quan trọng của ý thức cộng đồng, ngài thường đề cập, ngài cảm nhận thế nào rằng
sự nối kết của chúng ta với người khác, liên hệ đến người khác với ảnh hưởng
của nhân loại, một nhận thức của ân cần và từ bi, v.v…, là toàn bộ đến hạnh
phúc của cá nhân…”
“Đúng như thế,” ngài tái khẳng định.
“Tốt vậy,” tôi tiếp tục, “tôi nghĩ
có thể có một khả năng rắc rối ở đây.
Một cách chắc chắn là tự nhiên rằng người ta có thể đồng nhất một cách
mạnh mẽ với một nhóm đặc thù hay cộng đồng nào đấy. Nhưng điều này có thể làm nổi bật những sự
khác biệt của chúng ta với những nhóm khác, điều thường đưa đến tính ưu
việt. Sự xác chứng căn cước mạnh mẽ của
một nhóm không chi sản sinh ra tự hào của nhóm mình mà cũng tạo nên khả năng
thực sự của việc phát triển xu hướng hay thành kiến (chấp trước) chống lại
những nhóm khác. Và rồi tất cả những
loại rắc rối có thể nẩy sinh như một hệ quả.
Vì vậy, câu hỏi là, Làm thế nào chúng ta nhiệt tâm với sự chuyển tiếp từ
“Tôi” đến “Chúng ta”, chuyển hướng từ một cảm giác cô lập đến một cảm nhận đồng
nhất với một nhóm, nhưng ngăn ngừa điều ấy khỏi tiến trình đưa đến “Chúng ta”
chống với “Họ”. Dường như rằng loài
người có một lịch sử lâu dài của loại sự việc xãy ra, và từ đấy nó là một bước
rất ngắn để xung đột và thậm chí bạo động.”
“Đây là sự thật,” Đức Đạt Lai
Lạt Ma đồng ý; “đó là tại sao thật là
quan trọng để nhận ra, như tôi đã đề cập hôm qua, rằng có thể có những trình độ
khác nhau của khái niệm “cộng đồng” – và tôi nghĩ điều quan trọng là đặc tính
văn hóa hay quốc gia của cá nhân, hay bất cứ điều gì đi nữa, không nên phủ lấp
căn cước của một con người, cũng là một thành viên của cộng đồng nhân loại. Điều này là quan yếu.”
“À, tôi nghĩ ở đây chúng ta đang nói
về việc nối kết trên một trình độ sâu xa hơn, trình độ căn bản con người, việc
nối kết với những người khác được căn cứ trên sự liên hệ nền tảng nhân loại
ấy. Và tôi nghĩ vấn đề là nhiều người
vẫn thiếu vắng ý thức nền tảng sâu xa của sự nối kết với người khác. Sự vắng mặt mối ràng buộc nền tảng của con
người có thể tạo nên cảm nhận dửng dưng, sự thiếu vắng mối quan tâm đến lợi ích
của người khác có thể lần lượt đưa đến những vấn nạn thứ tự từ nghèo đói đến
tàn phá môi trường. Cũng thế, không có
sự liên kết sâu sắc thì có cảm nhận xa cách, một cảm giác rằng những người kia
khác biệt một cách căn bản, là điều có thể mở ra cánh cửa của thành kiến và
thậm chí có thể đi đến những loại vô nhân đạo mà có thể đưa đến những hành động
hung bạo không thể tưởng tượng. Lịch sử
nhân loại thì đầy ấp những thí dụ như thế này.
Do vậy, vì điều này dường như là ngay tại cốt lõi của vô số rắc rối của
nhân loại, làm thế nào ngài đề nghị việc trau dồi một ý thức rộng lớn hơn của
việc nối kết với người khác, thậm chí toàn nhân loại?”
“Dĩ nhiên, có thể có nhiều nguyên
nhân, nhiều thành phần đối với những vấn đề ông đề cập,” ngài nhắc tôi. “Nhưng bây giờ trong việc trả lời câu hỏi của
ông về việc trau dồi một cảm nhận sâu xa hơn về sự nối kết, tôi nghĩ chìa khóa
là việc chúng ta liên hệ với nhau như thế nào.
Nó đi xuống quan điểm căn bản của
chúng ta, trên những gì nền tảng mà chúng ta liên hệ đến những người chung
quanh chúng ta.”
“Chỉ để cho rõ hơn, khi ông nói,
‘trên căn bản nào’, ông muốn nói…?”
“Câu hỏi là chúng ta liên hệ đến người
khác căn cứ trên những gì phân biệt chúng ta hay trên những đặc trưng mà chúng
ta cùng chia sẻ. Điều này có thể quyết
định chúng ta có một ý thức cơ bản của sự phân biệt với những người khác, hay
cảm nhận quan hệ thân thuộc và mối ràng buộc với cộng đồng rộng lớn hơn.”
“Tôi cho rằng điều ấy đúng,” tôi
đồng ý, “nhưng tôi nghĩ rằng con người tự nhiên có khuynh hướng nhìn người khác
căn cứ nhiều hơn trên những sự khác biệt của họ. Trong thực tế, tôi nghĩ chúng ta thích nhìn
chính chúng ta như đặc biệt, như khác biệt với người khác. Tôi không nghĩ rằng sẽ dễ dàng thay đổi cung
cách chúng ta liên hệ như thế.”
“Điều ấy đúng,” ngài nói. “Để có một cảm nhận thật sự của tình huynh
đệ, anh chị em, căn cứ trên sự xác định rõ chính mình trước nhất và trên tất cả
như một con người là không dễ dàng. Nó
không xãy ra qua một đêm. Nhưng tôi cảm
thấy rằng một bộ phận của vấn đề là trong đời sống ngày qua ngày, đại đa số con
người không đặt một tư duy nghiêm chỉnh cho mối quan hệ chung nhất đến tất cả
những con người khác. Người ta không
dành nhiều thời gian để phản chiếu điều này.
Tôi nghĩ trong phổ quát trong xã hội có sự nhấn mạnh to lớn hơn trên
những khác biệt cá nhân của chúng ta. Do
vậy, đối với nhiều người, sự nối kết của họ đến những người khác là thông
thường không quá hiển nhiên. Nhưng mối
ràng buộc nhân loại luôn luôn ở đấy.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma cầm lên cái ca bằng gốm mà
ngài để trên bàn bên cạnh ngài và mở nắp.
Nhắp một ngụm nước nóng, thức uống thông thường của ngài, rồi tiếp
tục. “Tôi chỉ nghĩ – có thể ông không
thể tưởng tượng một hoàn cảnh khi một người nào đấy bị mắc cạn trên một hòn đảo
không có người ở một thời gian dài, và nếu ông ngẫu nhiên đi ngang qua một
người khác, thậm chí nếu người ấy vô cùng khác biệt với ông và hoàn toàn xa lạ,
ông sẽ lập tức cảm thấy một mối đồng cảm với người ấy. Sau đó mối ràng buộc thông thường như những
con người sẽ trở nên rất rõ ràng.”
“À,” tôi nói, “tôi nghĩ ngài đang
chỉ ra một trong những vấn nạn chính – chúng ta không thường nghĩ đến những vấn
đề này. Xét cho cùng, chúng ta không bị
mắc cạn trên một hoang đảo! Vì thế,
trong đời sống hằng ngày, chúng ta bị tiêm nhiễm trong những vấn đề cá nhân của
chúng ta và chúng ta có khuynh hướng quên lãng mối liên hệ và ràng buộc căn bản
của chúng ta như những con người. Nếu
chúng ta thật sự muốn thay đổi nhận thức của chúng ta, và phát triển ý thức nối
kết chân thành ấy với những người khác, đến tất cả nhân loại, chúng ta bắt đầu
từ chỗ nào?”
“Một lần nữa, nó đi đến chỗ thức
tỉnh – việc trau dồi một sự thức tỉnh đều đặn rộng rãi hơn của những cung cách
mà chúng ta nối kết, những đặc trưng mà chúng ta chia sẻ như những con người,
và việc khuyến khích cẩn trọng những ý tưởng này trong xã hội của chúng ta.”
“Ngài biết không, thưa Đức Thánh
Thiện, tôi không chắc nếu chỉ ‘tỉnh thức’ không mà thôi sẽ làm nên một sự khác
biệt lớn trong việc vượt thắng ý thức riêng lẽ của chúng ta. Ý tôi muốn nói là đã có đủ bằng chứng có giá
trị của những cung cách mà trong ấy chúng ta quá giống nhau như những con
người, chẳng hạn như ‘Công Trình Nghiên Cứu Hệ Gene Nhân Loại’ đã hoàn
thành. Có những câu chuyện trên truyền
thông khắp nơi về việc chúng ta chia sẻ 99,9 phần trăm mã gene với mọi người
trên hành tinh này.”
“Vâng, nhưng tôi nghĩ rằng nghiên
cứu điều gì đấy chỉ mới là bước đầu tiên,” ngài nhắc nhở tôi. “Chúng ta cần thẩm tra, phân tích, và suy
nghĩ thật sự về điều này nhiều lần, cho đến khi chúng ta phát triển một sự
thuyết phục sâu xa, cho đến khi điều này trở thành một bộ phận trong quan điểm
căn bản của chúng ta, cung cách tự nhiên của sự đáp ứng đến thế giới chung
quanh chúng ta. Và sau đó, một khi chúng ta có lòng tin sâu sắc này chúng ta
cần hành động trên việc thay đổi thái độ của chúng ta – hơn nữa, điều này đòi
hỏi nổ lực.
“Nhưng tất cả điều này bắt đầu với
việc đơn giản học hỏi nghiên cứu, đơn giản trở nên tỉnh thức với một vài sự
kiện, qua đọc hay qua nghe về điều gì đấy – rồi thì chúng ta có thể thực hiện
bước tiếp theo, vận dụng nổ lực để làm sâu sắc hơn sự thấu hiểu của chúng ta và
củng cố những gì chúng ta đã học hỏi và nghiên cứu.”
***
Quả thực chúng tôi thật sự hướng tập
trung trên những khác biệt của chúng ta hơn là những sự tương đồng. Tuy thế, Đức Đạt Lai Lạt Ma xác định rõ “tỉnh
thức” về các sự tương đồng, những đặc trưng, các phẩm chất, và những nét mà
chúng ta cùng chia sẻ, như bước đầu tiên trong việc trau dồi một cảm nhận sâu
xa của “mối đồng cảm và liên hệ” với những người khác – và không chỉ từ một
người đến cộng đồng, văn hóa, tôn giáo, hay phe phái chính trị của riêng người
ấy, mà đến toàn thể nhân loại. Không
ngạc nhiên gì khi ngài cũng chỉ ra rằng điều này sẽ không dễ dàng, rằng nó cần
có thời gian vì nó liên hệ một sự thay đổi nền tảng trong cung cách mà chúng ta
nhận thức và đáp ứng đến người khác.
Không hứa hẹn rằng chỉ bằng việc suy tư về vấn đề này một hay hai lần,
rồi đột nhiên chúng ta sẽ bắt đầu cảm thấy có cùng ý thức gần gũi và đồng cảm
với mọi người mà chúng ta có thể cảm nhận cho những vận động viên đội nhà của
chúng ta trong liên đoàn dã cầu chiều Thứ Bảy.
Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận rằng
chúng ta sẽ cần phản chiếu trên những đặc trưng chung như những con người, quán
xét như vậy nhiều lần, cho đến khi chúng ta suy nghĩ như thói quen về những
người khác trong một cung cách mới – cuối cùng, mỗi con người không phải được
cấp một chiếc áo xứng hợp khi sinh ra, có in dòng chữ “Đội ngũ Nhân loại”. Nhưng với tác động sâu thẩm của một quan điểm
có thể giảm thiểu thành kiến, thù hận, và bạo động trên thế giới, không mãy may
nghi ngờ gì về giá trị cho nổ lực tiếp nhận một quan điểm mới – hay tối thiểu
quan tâm vể trách nhiệm mà chúng ta có thể nghiên cứu để liên hệ đến người khác
trong một cung cách mới.
Nhưng chúng ta sẽ không tránh khỏi
gặp phải một sự đề kháng nội tại nào đấy khi chúng ta gắng sức tiếp nhận một
cái nhìn mới. Trong cuộc nghiên cứu này
đến cuộc nghiên cứu khác cho thấy, người ta cố thổi phồng những khác biệt của
họ với người khác, cũng như làm giảm thiếu tối đa các tương đồng trong nhân
loại một cách tổng quát. Chúng tôi đã
đánh giá quá cao tính độc nhất của mỗi người, không chỉ của riêng chính chúng
ta. Trong quyển ‘Trượt Chân trên Hạnh Phúc”, nhà tâm lý xã hội của Harvard,
Daliel Gilbert, kết luận, “Nếu chúng ta giống như hầu hết mọi người, rồi thì
giống như hầu hết mọi người, chúng ta không biết chúng ta giống như hầu hết mọi
người.”
Trong việc tìm kiếm những lý do cho
đặc trưng này của chính con người, ngài chỉ ra đời sống xã hội hằng ngày của
chúng ta liên hệ lập tức đến những chọn lọc – tuyển lựa những cá nhân đặc thù
“để là người tình chăn gối, đồng nghiệp thương mại, bè bạn ném bóng, và hơn
nữa.” Vì đòi hỏi này “mà chúng ta tập
trung trên những thứ phân biệt người này với người nọ chứ không phải trên những
thứ mà tất cả mọi người cùng chia sẻ.”
Điều ẩn ý đã rõ: Cả cuộc đời dành
để tập trung trên những thứ khác biệt giữa con người đưa đến kết quả trong một
sự xuyên tạc nền tảng, trong sự thổi phồng cấp độ đến những điều mà con người
là đồng nhất hay khác biệt. Sau cùng,
trong quá trình diễn biến của đời sống ngày qua ngày, không có nhiều kêu gọi để
khảo sát hay phản chiếu trên những đặc trưng mà chúng ta cùng sẻ chia – cần
thiết một ít để suy nghĩ về việc toàn thể nhân loại cùng thở dưỡng khí oxy như
thế nào mà thôi, hay toàn thể cùng chia sẻ những đáp ứng và mô hình cảm xúc đặc
trưng của thái độ, hay tất cả đều ước muốn hạnh phúc và xa lánh khổ đau – ngoại
trừ, đó là, người ấy là một nhà sinh vật học, tâm lý học, hay một thầy tu Phật
Giáo. Sự thật là dưới những điều kiện bình
thường, người ta thích nghĩ về chính họ như đặc biệt và khác biệt với những
người khác. Như Gilbert báo cáo, “Nghiên
cứu cho thấy rằng khi người ta được làm cho cảm thấy quá giống với người khác,
tính tình họ nhanh chóng trở nên cáu gắt và họ cố gắng để xa cách và phân biệt
chính họ với người khác trong những cung cách bất đồng.”
Chúng ta ấp ủ các khác biệt của
chúng ta, những đặc biệt của chúng ta.
Chính đặc trưng tâm lý này của con người mà Gilbert đã than van trong
thông điệp kết luận cuốn sách của ông, khi chiến lược không đề cập và bất
thường to lớn nhất này của chúng ta đưa chúng ta đến hạnh phúc to lớn hơn. Suốt đời sống của chúng ta, chúng ta tiếp tục
lựa chọn và quyết định, căn cứ trên những gì chúng ta tin tưởng sẽ làm cho
chúng ta hạnh phúc. Vấn nạn là, đối với
những lý do cụ thể và đa dạng, những sự thừa nhận và tin tưởng nền tảng về
những gì sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc thường đơn giản là không đúng. Tuy nhiên, do bởi con người là quá giống nhau
trong nhiều cung cách, chúng ta có sự tùy ý sử dụng một phương pháp đáng tin
cậy và hiệu quả để giúp chúng ta dự đoán một cách chính xác tiến trình nào của
hành động sẽ làm cho hay không làm cho chúng ta hạnh phúc trong tương lai: quán sát những người khác, những người đang
thực hiện cùng quyết định mà chúng ta đang quán chiếu, những người đã vẽ đồ thị
tiến trình này trước đây, và hăng hái quán sát những cá nhân ấy hạnh phúc như
thế nào dưới cùng những hoàn cảnh chính xác như vậy. Tuy thế, buồn thay, do bởi tin tưởng của
chúng ta rằng chúng ta là đặc biệt, rằng tâm thức chúng ta là quá khác biệt với
nhau từ người này đến người nọ, và rằng tất cả mọi người thì quá khác biệt với
nhau, chúng ta thường phủ nhận những bài học mà chúng ta có thể học hỏi từ
những người khác về những gì sẽ mang đến hạnh phúc chân thật cho chúng ta.
Không nghi ngờ gì nếu chúng ta phát
triển một sự tỉnh thức sâu xa về những tương đồng của chúng ta như những con
người, chúng ta có thể thiết lập một tiến trình trực tiếp đối với niềm hạnh
phúc lớn hơn bằng việc quán chiếu mối quan hệ giữa thái độ của những người khác
và trãi nghiệm của họ với hạnh phúc hay khốn cùng. Ý nghĩa của sự tương đồng này cũng có thể
cung cấp căn bản cho việc trau dồi một sự thấu cảm sâu sắc cho tất cả những
chúng sinh khác mà có thể hoạt động như một loại đối trị đối với thành kiến,
thù hận và xung đột bạo động.
Tuy vậy, nếu chúng ta tôn trọng
triệt để ý kiến của Đức Đạt Lai Lạt Ma để nhìn những kẻ khác trên căn bản của
những đức tính nền tảng nhất của nhân loại mà chúng ta cùng chia sẻ, chúng ta
phân biệt một người với những người khác như thế nào ? Làm thế nào chúng ta thực hiện những quyết
định về người nào được chọn làm bạn nghề, người phối ngẫu hay công nhân nào nên
mướn?
Nó sẽ giống như thế nào nếu chúng ta
đang liên hệ đến những người khác chỉ trên căn bản của những điểm mà chúng ta
cùng sẻ chia, nhìn người khác chỉ đơn thuần như những “con người”? Đúng là nếu chúng ta làm như thế, sẽ không có
căn bản cho việc thành kiến, cũng không có việc chống lại bất cứ con người đặc
thù nào, không cơ sở cho định kiến, phân biệt hay thù ghét sinh khởi. Nhưng có phải nó cũng giống như khi liên hệ
đến sự đa dạng rộng rãi của việc nếm những món ăn đơn thuần như “thức ăn”? Như một thí dụ, hãy nói rằng một người nào
đấy đi vào nhà hàng và được đưa cho một thực đơn với nhiều thức ăn đặc sắc, mỗi
thứ có đối trọng tốt và có cùng phần trăm chất đạm, chất béo, đường
(carbohydrate). Nếu chúng ta nhìn những
thức ăn này thuần túy trên căn bản của những điểm mà chúng chia sẻ - chẳng hạn
tất cả đều cấu thành từ những nguyên tử carbon, hydrogen, và oxygen – rồi thì
trên căn bản nào chúng ta có thể lựa chọn món ăn cho chúng ta? Từ nhận thức này, tất cả những thứ ấy phải là
giống hệt nhau.
May mắn thay, chúng ta không phải
làm một sự lựa chọn giữa việc nhìn những người khác duy nhất trong những dạng
thức khác nhau của chúng ta, từ nhận thức của những gì phân biệt chúng ta, hay
nhìn kẻ khác đơn thuần từ lập trường những nền tảng con người mà chúng ta chia
sẻ. Khi những cuộc thảo luận của chúng
tôi tiến triển, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ tiếp tục giải thích việc chúng ta thực
hiện cả hai như thế nào, việc tiếp nhận quan điểm căn bản mới mà trong ấy chúng
ta giữ cả những nhận thức và sự chuyển hóa cái nhìn cùng thái độ của chúng ta
về người khác – nhưng không phải không có một ít cố gắng trước tiên, khi cố
gắng hòa hiệp những lập trường khác biệt của chúng tôi.
Chủ Nghĩa
Cá Nhân Cực Đoan
Mỗi đêm, hàng triệu người Hoa Kỳ
dành ba giờ rỗi rãnh của họ để xem truyền hình hơn là tham gia trong bất cứ
hình thức nào của hoạt động tương tác xã hội.
Người ta xem gì? Trong những năm
gần đây, chúng ta đã thấy truyền hình thực tế trở thành hình thức phổ thông
nhất của truyền hình lập chương trình.
Để khám phá bản chất “thực tế” hiện tại của chúng ta, chúng ta có thể
quan tâm những thí dụ như Sống Sót
(Survivor), loạt chương trình giúp đem lại cuộc cách mạng truyền hình
thực
tế. Mỗi tuần hàng chục triệu khán giả đã
xem một nhóm người bình thường bị bỏ trong một nơi cô lập nào đấy vật
lộn để
gặp đủ thứ những thử thách và chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt. À,
người ta có thể nghĩ, ở đây chúng ta sẽ
thấy nhóm người này làm việc hợp tác với nhau, giống như tổ tiên cổ xưa
của
chúng ta, hoạt động cộng tác nhằm để “chiến thắng”! Nhưng “thực tế” thì
rất khác biệt. Những điều kiện của trò chơi được chuẩn bị,
vâng, vì thế họ phải hành động hợp tác với nhau, nhưng bản chất của sự
liên
minh chỉ là tạm thời và quy ước, khi những đấu thủ mưu tính và vạch kế
hoạch để
chống lại nhau để thắng trò chơi và rời cuộc thi với Giải thưởng Lớn:
một triệu
đô la! Mục tiêu là loại bỏ từng đối thủ
một khỏi một hoang đảo không người ở qua một cuộc bỏ phiếu của nhóm,
loại trừ
từng đối thủ khác cho đến khi chỉ còn một cá nhân đơn độc – “người sống
sót duy
nhất.” Chấm dứt trò chơi là ý tưởng người
Mỹ kỳ quặc tối đa trong Thời đại Chủ Nghĩa Cá Nhân của chúng ta: bị bỏ
lại hoàn
toàn một mình, ngồi trên một núi tiền!
Trong khi Sống Sót là một thí dụ hiển nhiên về định hướng có tính chất chủ
nghĩa cá nhân, chắc chắn nó không phải là duy nhất trong sự tô điểm của tấm
chăn thô kệch của chủ nghĩa cá nhân của nó trên truyền hình Hoa Kỳ. Ngay cả những phút thương mại xen kẻ cung cấp
những thí dụ bắt buộc tương tự, với những quảng cáo như Burger King, tuyên bố
HÃY CÓ NÓ TRONG PHONG CÁCH CỦA BẠN!
Thông điệp? Mỹ Quốc, mãnh đất duy không phải mỗi người đàn ông hay mỗi
người đàn bà là một cá nhân riêng lẻ nhưng cũng là nơi mà mỗi cái bánh mì tròn nhân thịt hamburger là một vật riêng biệt!
Con người không sống giữa khoảng
không; chúng ta sống trong một xã hội.
Vì thế điều quan trọng là hãy nhìn vào những giá trị được thúc đẩy và ca
tụng trong một xã hội quy định và lượng định những gì tác động đến điều kiện
này có trong cảm nhận của chúng ta về độc lập hay của sự liên hệ hổ tương duyên
sinh.
Thật dễ dàng để thấy những xã hội
Tây phương thúc đẩy các giá trị của Chủ Nghĩa Cá Nhân như thế nào. Tu vậy, có nhiều xã hội trên thế giới, chính
yếu ở Á châu, đã khuyến khích một quan điểm khác, những gì mà các nhà nghiên
cứu một cách tổng quát liên hệ như Chủ Nghĩa Tập Thể, căn bản chống lại Chủ
Nghĩa Cá Nhân. Chủ Nghĩa Tập Thể trong
phạm vi này không liên hệ đến một loại triết lý chính trị nào đấy, như Chủ
Nghĩa Cộng Sản chẳng hạn, nhưng thay vì thế liên hệ đến một định hướng căn bản
tập trung trên mối quan hệ duyên sinh và tương tác với người khác.
Người ta có thể thường xác định
những giá trị nền tảng mà một nền văn hóa đặc thù thúc đẩy bằng việc nhìn vào
những châm ngôn truyền thống trong nền văn hóa ấy – trong trường hợp này, thí
dụ, chúng ta thấy châm ngôn đó như “bánh xe kêu cót két cần dầu mở” có gốc rể ở
phương Tây, ca ngợi một cá nhân đứng bên ngoài đám đông và nói lên tâm tư của
mình, trong khi những nền văn hóa Á châu như Nhật Bản chẳng hạn, người ta sẽ
thấy những câu châm ngôn như “cây đinh lộ ra ngoài phải được đóng xuống,” ám
chỉ đến sự tiếp thu mà người ta có thể dự đoán cho việcbước ra khỏi nhóm, một
cách kiêu kỳ.
Câu hỏi nền tảng là, giá trị của nền
văn hóa nào - Chủ Nghĩa Cá Nhân hay Chủ Nghĩa Tập Thể - là thích hợp để thúc
đẩy hạnh phúc trong những thành viên của một xã hội, một câu hỏi mà tôi hy vọng
Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể trả lời khi chúng tôi tiếp tục đàm luận.
***
Vẫn thẩm tra vấn đề Tôi chống lại
Chúng Ta, nhưng đưa trình độ của cuộc thảo luận từ mức độ của quan điểm và các
thái độ cá nhân đến mức độ của những thái độ và giá trị của xã hội, chúng tôi
đã tiếp tục việc đàm luận của chúng tôi.
“Ngài biết không, thưa Đức Thánh
Thiện, chúng ta đang thảo luận về khả năng cá nhân để hình thành những mối ràng
buộc và nối kết xã hội đến những người khác.
Trong việc thiết lập những liên hệ này, ngài không chi đề cập sự cần
thiết cho một sự tỉnh thức rộng rãi hơn của những cung cách mà chúng ta được
nối kết và tầm quan trọng của việc xúc tiến cân nhắc những ý tưởng này trong xã
hội của chúng ta. Ngài cũng đề cập trước
đây về việc con người có thể được tác động bởi những giá trị được thúc đẩy từ
xã hội và văn hóa của họ.
“Tôi đang tự hỏi rằng làm thế nào
đến cấp độ nào ý thức cộng đồng của con người mới có thể được tác động bởi
những giá trị của xã hội mà con người sống trong ấy. Một cách đặc biệt, tôi tự hỏi về những ảnh
hưởng của chủ nghĩa cá nhân. Con người
sống ở những xã hội chủ nghĩa cá nhân hướng tới có một cảm giác 'cái tôi' độc
lập hơn so với những quốc gia Á châu nơi người ta hướng tới ý tưởng của Chủ
Nghĩa Tập Thể, phối hợp với những giá trị truyền thống hơn và một sự tỉnh thức
sâu rộng hơn về duyên sinh tương khởi và tương tác với những người khác.
"Từ một viễn kiến, người ta có
thể nói rằng những nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa có một định hướng của 'Tôi'
phổ quát trong khi những nền văn hóa tập thể chủ nghĩa có một định hướng của 'Chúng
Ta'. Nhưng vấn đề căn bản là xã hội nào
sẽ hạnh phúc hơn. Thí dụ, dường như rằng
việc thúc đẩy Chủ Nghĩa Cá Nhân, với sự tập trung trên 'Tôi', có thể đưa đến ý
thức riêng rẻ và thiếu tính cộng đồng như ngài nói đến. Trái lại, dường như có một số lợi ích nào của
Chủ Nghĩa Cá Nhân: một ý thức độc lập, tự tin, v.v... Thực tế, tôi nghĩ rằng việc thúc đẩy suy tư
độc lập, tự túc, và tự quản có thể đưa đến môt sự sáng tạo lớn mạnh hơn, óc
sáng kiến, sự hoàn thành, khám phá hơn, và rồi thì - "
"Bây giờ, một vấn đề là,"
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngắt lời, "khi ông nói 'Chủ Nghĩa Cá Nhân', tôi nghĩ
điều quan trọng là nhận ra rằng có thể có nhiều trình độ. Một trình độ có thể là vấn đề tích cực, và nó
có thể đưa đến sáng tạo, hay một ý thức tự tin, những thứ này là những điều rất
tích cực. Nhưng cũng có thể trở nên cực
đoan hơn, chỗ mà ông cảm thấy quá độc lập và quá tự mãn, 'Ô, tôi không cần những
người khác.' Nó có thể trở thành một ý
thức tự cho mình là trung tâm, hay vị kỷ, nơi mà chúng ta hoàn toàn không quan
tâm đến lợi ích của người khác. Nếu nó
trở thành những hình thức cực đoan hơn của Chủ Nghĩa Cá Nhân thì điều ấy có thể
làm nên rắc rối."
Trưởng
thành ở Hoa Kỳ, bản chất quá thấm nhuần
với ý tưởng của chủ nghĩa cá nhân, chẳng
bao giờ xảy đến với tôi cái việc phân tích có những hình thức lành mạnh hay cực
đoan hay tìm những thí dụ của bất cứ những hệ quả tiêu cực của điều này trên cá
nhân con người. Nhưng khi Đức Đạt Lai Lạt
Ma nêu ra những sự phân biệt này, thật dễ dàng để đi đến những sự soi sáng về
chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Tôi nghĩ,
thí dụ, Ted Kaczynski[1],
một kẻ Unabomber bị tước quyền công dân,
trong nhiều năm là một kẻ khủng bố nguy hiểm nhất trong nước - có lẽ là hiện
thân của Chủ Nghĩa Cá Nhân cực đoan. Mặc
dù có một đầu óc thông minh về toán học.
Kaczynski cuối cùng phải sống trong lán trại bẩn thỉu ở một vùng xa xôi
hẻo lánh của Montana, tiến hành một cuộc chiến tranh đơn độc chống lại kỷ
thuật, công nghệ, xã hội và mọi hình thức của Chủ Nghĩa Tập Thể. Hắn ta đã dành
những ngày tháng của y trong cô đơn chế những bức thư bom để giết hại và làm
mất tay chân những người hắn không thích.
Dĩ nhiên, bên cạnh những hiểm họa
của chủ nghĩa cá nhân cực đoan, vẫn có một câu hỏi về những ảnh hưởng tiêu cực
của những sự đa dạng ít cực đoan hơn đưa tôi đến thắc mắc, "Thưa Đức Thánh
Thiện, ngài đề cập Chủ Nghĩa Cá Nhân cực đoan có làm ra những thứ như ích kỷ,
nhưng để làm sáng tỏ, ngài có nghĩ rằng việc khuyền khích những hình thức ít
cực đoan hơn của Chủ Nghĩa Cá Nhân có thể tạo nên hay góp phần cho sự cô đơn và
xa lánh lan rộng như ngài đã đề cập trước đây không?"
Ngài ngưng lại để trầm tư một cách
cẩn thận trước khi trả lời. "Tôi
nghĩ rằng không có hệ quả nhiều của việc khuyến khích Chủ Nghĩa Cá Nhân này,
nhân tố làm cho con người cảm thấy phải xa lánh những người khác. Tôi cảm thấy rằng nó sẽ khá hơn, quan điểm
đối kháng không hiện diện. Đấy là yếu tố
đang biến mất.
" Cũng vậy, Howard, tôi nghĩ điều quan trọng phải nhớ
là có thể có những mức độ khác nhau của Chủ Nghĩa Cá Nhân giữa các quốc
gia. Ngay cả ở phương Tây, có thể có
những cộng đồng có được việc đánh giá
rộng rãi sự liên hệ hổ tương của chúng ta, và hợp tác tâm linh. Mặc dù, có thể không phải là trường hợp ở Hoa
Kỳ, các quốc gia Âu châu như Thụy Điển và những nước khác ở bán đảo Scandinavia
của Bắc Âu, cũng như phong trào kibbutz[2] ở
Do Thái, có một ý tưởng xã hội mạnh mẽ.
Tương tự thế, trong mô thức dân chủ nổi tiếng ở Thụy Sĩ, có một sự tự
trị rộng rãi ở cấp độ quận, huyện (district), và khi người ta nói về việc sáng
tạo những chính sách nó sẽ tác động trực tiếp đến đời sống của họ, tôi nghĩ
rằng họ có thể có cảm nhận một ý thức cộng đồng rộng lớn hơn. Và tôi tin rằng những cá nhân sống trong
những loại kiểu mẫu xã hội này chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nhiều.
Ngài đã đúng. Theo "Bản Đồ Hạnh Phúc của Thế
Giới" đầu tiên, được hình thành rõ rệt sau sự dự đoán của Đức Đạt Lai Lạt
Ma về những mức độ hạnh phúc cao hơn trong những quốc gia này, quốc gia Bắc Âu
Đan Mạch được đánh giá là hạnh phúc nhất, Thụy Sĩ thứ hai, và Thụy Điển đứng
vào hàng thứ bảy.
"Vậy thì," Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, "tôi nghĩ
nó đưa đến điều này: Nếu một xã hội thúc đẩy tư tưởng Chủ Nghĩa
Cá Nhân hẹp hòi hay Chủ Nghĩa Xã Hội nhỏ nhen, trong trường hợp nào cũng là
thiển cận, và một cách căn bản không thúc đẩy một sự hạnh phúc lớn rộng nhất
cho những thành viên của xã hội ấy. Thí dụ, nếu một xã hội là quá cực đoan trong
sự tiếp cận xã hội chủ nghĩa của nó đến mức độ là sự trả giá của cá nhân (không
có chỗ đứng cho cá nhân), và nó sẽ giống như một cái cây chỉ có thân cây mà
không có cành cây. Ngoài một chính quyền
mạnh mẽ, không có gì khác nữa. Không có
tự do cá nhân, không có sự sáng tạo.
Không có gì cả. Trái lại, nếu một
xã hội quá đặt sự nhấn mạnh trên cá nhân, đến mức người ta cảm thấy quá độc
lập, có một cảm giác không cần những người khác, và cảm thấy hoàn toàn tự mãn,
rồi thì nó là giống như loại người ngồi trên một cành cây trong khi người ấy tự
cưa nó đi. Thật là khờ dại!"
Như với Chủ Nghĩa Cá Nhân cực đoan,
thật dễ dàng để thấy những hiểm họa của Chủ Nghĩa Tập Thể cực đoan. Trong thực tế, thế giới quá thường thấy những
ảnh hưởng tàn phá của tình trạng dẫm nát trên những quyền của cá nhân nhân danh
tập thể: những trại lao động cải tạo gulag của Liên Xô, những chế độ đàn áp,
những sự kinh khiếp xãy ra khi nhân quyền bị tước đoạt khỏi quyền con người của
cá nhân. Có điều gì đấy thậm chí những
hình thức ôn hòa hơn của Chủ Nghĩa Tập Thể cực đoan dường như dẩm nát óc sáng tạo của con
người, sáng kiến cá nhân, và sự phát triển.
Tôi nhớ lại lần viếng thăm đầu tiên của tôi đến Trung Hoa năm 1981, lúc
mà mọi người chỉ cần đặt chân đến bất cứ một con đường nào ở Bắc Kinh để chứng
kiến Chủ Nghĩa Tập Thể được ca ngợi trong xã hội đó như thế nào. Có điều gì đấy làm bối rối với việc đi tản bộ
trong một thành phố của hàng triệu cư dân, nơi mà chúng ta thấy mọi người , người nào cũng như người nấy, ăn mặc
trong cùng bộ quần áo màu xanh dương đậm của Mao[3] -
à, ngoại trừ những kẻ phản động hiếm hoi mới dám biểu lộ thái độ không theo
trật tự [cách mạng] của họ bằng việc chưng diện một bộ đồ Mao xám đậm thay vì
một bộ đồ xanh dương đậm (có thể nói đây
là quốc phục của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa).
Khi nhớ lại lần viếng thăm ấy, tôi
nghĩ về người hướng dẫn du lịch Trung Hoa của tôi, một chàng thanh niên vui vẻ
vừa mới tốt nghiệp đại học cộng đồng (college).
Anh ta không phải là một người
hướng dẫn chuyên nghiệp, nhưng được phân công cho nhóm du lịch của chúng tôi do
bởi khả năng cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp của anh ta, vì nhóm của chúng tôi bao
gồm vài người Canada nói tiếng Pháp.
Hoàn toàn dự đoán rằng nhóm của chúng tôi tôn trọng triệt để một cách tự
động và giống nhau theo chương trình nguyên bản cẩn thận của nhà nước, anh ta
không chuẩn bị để đối diện với một nhóm bao gồm những cá nhân với những sự ưa
thích của riêng họ về những thứ họ muốn thấy hay làm. Không bao lâu khi chúng tôi đến, nhóm được
sắp đặt để khám phá một vài khu vườn địa phương trong vài giờ. Sau khi đồng ý gặp lại trên xe buýt của chúng
tôi vào giờ quy định, nhóm chúng tôi chia ra làm những nhóm nhỏ hơn, và vài đôi
nam nữ cùng những cá nhân độc thân bắt đầu tự thăm viếng những đặc trưng đa dạng của các khu
vườn. Người hướng dẫn của chúng tôi lập
tức gọi lớn, "Xin vui lòng tập họp chung với nhau! Xin vui lòng tập họp
CHUNG VỚI NHAU!" Anh ta chạy tới chạy lui, cố gắng tập họp chúng
tôi lại, nhưng khi những thành viên trong nhóm chia ra nhiều hướng khác nhau,
anh ta đã trở nên bối rối thấy rõ hơn.
Khi thấy rõ ràng là không thể quy tụ chúng tôi lại được với nhau và đưa
chúng tôi qua những khu vườn như tổ chức, anh hoàn toàn hoảng hốt. Lắp bắp và sôi sục với sự giận dữ và điên
tiết lên, anh ta hét lên, "QUÝ VỊ LÀ NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CÓ TINH THẦN TẬP
THỂ ĐÚNG ĐẮN!!!" giống như đấy là
một sự lăng mạ xấu xa nhất, hổ thẹn nhất mà anh ta có thể xúc phạm đến chúng
tôi.
Tóm tắt lại quan điểm của ngài, Đức
Đạt Lai Lạt Ma kết luận, "Tôi nghĩ một xã hội có thể khuyến khích phát
triển những quyền cá nhân và chấp nhận những quyền cá nhân, trong cùng lúc chú
ý đến quyền lợi và hạnh phúc của toàn thể cộng đồng hay xã hội - cần được tuyên
bố nhằm để mở rộng tối đa hạnh phúc của con người. Bây giờ, trên mức độ cá nhân, vì hạnh phúc
luôn luôn là một tình trạng chủ quan của tâm thức, nhằm để tạo nên một xã hội
hạnh phúc hơn, chúng ta cần bắt đầu ở trình độ tâm thức cá nhân. Sau rốt, một xã hội hạnh phúc được viết nên
từ những cá nhân hạnh phúc vui tươi. Do
vậy, tất cả những sự bàn luận này hổ trợ sự chú ý đến phúc lợi của những cá
nhân.
"Tuy nhiên, chúng ta cũng cần
nhìn vào mức độ xã hội như một tổng thể và chú ý đến những quan tâm của nhóm,
để tạo nên những điều kiện nơi mà những cá nhân và những nhóm có thể phát triển
lớn mạnh, nơi có một ý thức yên ổn toàn bộ, sự chú ý đến phúc lợi xã hội,
v.v... Thế nên, chúng ta cần một nhận thức rộng rãi hơn, thánh thiện hơn bao
gồm cả hai sự tiếp cận. Và tất cả sẽ đi
đến cân bằng."
Có thể có vô số nhân tố ảnh hưởng
đến mức độ trung bình của hạnh phúc trong một quốc gia, nhưng loại xã hội nào
là hạnh phúc hơn? Câu trả lời cho câu hỏi này cho chúng ta trực diện tương ứng với quan
điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma! Trong
việc nhìn vào những nét của các quốc gia hạnh phúc nhất trên trái đất, chúng ta
khám phá một mô thức xuất hiện theo sau nguyên tắc chìa khóa của Đức Đạt Lai
Lạt Ma: sự cân bằng. Ở đây chúng ta thấy
một sự tiếp cận cân bằng tránh những cực đoan của độc lập hay lệ thuộc, Chủ
Nghĩa Cá Nhân và Chủ Nghĩa Tập Thể, mà đúng hơn là kết hợp chặc chẽ cả hai nhận
thức. Trong những nước ở bán đảo
Scandinavia, thí dụ, chúng ta thấy một nền văn hóa công nghiệp Tây phương, một
cách truyền thống kỷ nghệ hơn, với tập quán đặc thù Tây phương của việc tôn
trọng những quyền cá nhân và suy nghĩ độc lập.
Cùng lúc ấy, chúng ta cũng thấy những tiêu chuẩn tập thể, chẳng hạn như
giá trị văn hóa mà chúng ta không nên đứng ngoài lề, đạo đức của "cây đinh
được đóng xuống", Một mô thức tương tự hiện hữu trong những xứ sở khác với
chính những mức độ hạnh phúc nhất, như Thụy Sĩ, minh chứng sự cân bằng giữa ý
thức độc lập và cảm nhận tương liên, quan tâm cho tự do và sáng kiến cá nhân
nhưng với một ý thức mạnh mẽ hơn của phúc lợi xã hội và một sự liên hệ năng
động hơn trong lợi ích của cộng đồng địa phương được thấy trong những quốc gia
ít hạnh phúc hơn ở phương Tây.
Khi đi đến việc xác định loại xã hội
mà chúng ta nên tìm cầu để tạo dựng một thế giới hạnh phúc hơn, tất cả những
chứng cứ có giá trị dường như hổ trợ cho quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma: Chúng ta phải hành động đối với việc xây dựng
những xã hội duy trì sự tôn trọng quyền con người và chân giá trị của cá nhân,
là điều khuyến khích sự phát triển những sức mạnh cá nhân, tính chính trực cá
nhân, và sự tự tin tuy thế cùng lúc thúc đẩy ý thức nối kết sâu xa đến người
khác và quan tâm đến phúc lợi của người khác.
Cân bằng là chìa khóa.
"Không
Phải Tôi hay Chúng Ta, Nhưng Tôi và Chúng Ta"
Thị giả, một tu sĩ mặc y áo màu nâu
đỏ và vàng nghệ với nụ cưởi luôn nở trên môi, di chuyển một cách im lặng âm
thầm, khiêm tốn đặt trà phục vụ trên một bàn cà phê thấp phía trước chúng
tôi. Sau khi rót cho tôi một ít trà và
thêm nước nóng vào chiếc ca sứ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, ông ta dường như biến
mất. Phút giải lao với trà ngắn ngủi đã
cho phép thư ký riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma đi vào phòng và bàn bạc với ngài
trong chốc lát, nhưng chúng tôi đã nhanh chóng trở lại đàm đạo.
"Thưa Đức Thánh Thiện, chúng ta
đang thảo luận về quan điểm của ngài rằng một xã hội hạnh phúc nhất là một xã
hội có sự cân bằng - nơi mà cả phúc lợi của cá nhân và cộng đồng được tôn trọng
và thúc đẩy, và là nơi được phản chiếu trong những chính sách xã hội và các giá
trị được khuyến khích trong xã hội ấy.
Nhưng bây giờ tôi muốn đi ngược trở lại mức độ của cá nhân. Trước đây, chúng ta đã nói về tầm quan trọng
của việc thiết lập một ý thức sâu xa trong việc nối kết với người khác, điều ấy
có thể mang đến niềm hạnh phúc cá nhân to lớn hơn cũng như hổ trợ cho việc vượt
thắng những vấn nạn của xã hội như thành kiến, xung đột, v.v... Do vậy, một cách cốt yếu chúng ta đang nói về
nhiều lợi ích có thể kết quả từ việc chuyển hướng nền tảng trong thiên hướng
nội tại của chúng ta từ Tôi đến Chúng Ta.
Điều này liên hệ việc tập trung
ít hơn trên những sự khác biệt của chúng ta và nhiều hơn trên những sự tương
đồng của chúng ta, trên những đặc trưng chung của chúng ta."
"Vâng."
"Nhưng bây giờ chúng ta cũng
nhận thức những lợi ích của một ý thức lành mạnh của chủ nghĩa cá nhân. Thế nên câu hỏi là, Chúng ta làm hòa hiệp sự
xung đột này giữa việc trau dồi ý thức
độc lập lành mạnh này, một ý thức của Tôi, với một ý thức của sự nối kết
với nhóm, một ý thức của Chúng Ta như thế nào?"
"Tôi không thấy có sự xung đột
ở đây," Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố dứt khoát.
"Ô, nó là câu hỏi về việc làm
thế nào để tìm ra sự cân bằng đúng đắn giữa hai nhận thức khác nhau này. Một phía, chúng ta có một ý thức độc nhất, cá
tính của chính mình, và phía khác là một cảm nhận tùy thuộc, đặc tính của
nhóm. Vậy thì, vấn đề căn bản một cách
thiết yếu là câu hỏi về Tôi Chống Lại
Chúng Ta, và làm thế nào chúng ta - "
"Howard," Đức Đạt Lai Lạt Ma cắt ngang, "Tôi nghĩ
trong việc thảo luận chủ đề này, trước tiên chúng ta phải làm điều đấy rõ ràng
hơn. Bây giờ, chúng ta chú ý rằng đôi
khi con người ở phương Tây có khuynh hướng này để thấy mọi thứ trong những dạng
thức trắng hay đen, tất cả hay không gì cả.
Do vậy, ở đây ông đang nói về điều này, Tôi Chống Lại Chúng Ta, giống như một người cần phải làm một sự lựa
chọn, giống như để đạt đến một cảm nhận thống nhất, mục tiêu của chúng ta phải
là quên đi những sự khác biệt của chúng ta, và chỉ nhìn vào những khu vực mà
chúng ta giống nhau với những người khác.
"Nhưng điều ấy không là mục
tiêu ở đây," ngài nói một cách dứt khoát.
"Sự tiếp cận chúng ta đang chủ trương trong việc đem đến những thay
đổi tích cực là phát triển một quan điểm thực tế hơn, một nhận thức phù
hợp hơn
với thực tế. Do thế, chúng ta không đang
nói đến việc quên lãng chính mình, những sự quan tâm của riêng mỗi
người. Điểu ấy không thực tế. Chúng ta đang nói rằng ông có thể nghĩ
về cả
lợi ích của riêng mình và phúc lợi của những người khác cùng một lúc."
Tuy nhiên tôi đã khăng khăng với câu
hỏi ban đầu của tôi. "Nhưng đối với
tôi dường như trên một mức độ nào đấy, nếu chúng ta muốn có một cảm nhận liên
kết mạnh mẽ với người khác và một loại xác minh với nhóm của mình, cho dù đấy
là một nhóm nhỏ hay cộng đồng địa phương hay xã hội mà chúng ta sống trong ấy, chúng
ta vẫn cần điều hòa thế nào ấy đặc tính của cá nhân về một mặt, tính chất cá
nhân của chúng ta và cảm giác độc lập, riêng lẻ, và cô lập, với cảm giác đối
kháng liên kết, về mặt kia."
Chúng
tôi tiếp tục cùng trên những đường nét ấy trong một lúc nữa, khi tôi khẩn khoản
ngài cho một cung cách để đối phó với sự đối kháng những cảm giác của sự định
hướng một cái Tôi hay một cái Chúng Ta.
Đức Đạt Lai Lạt Ma chà xát một cách
lơ đãng lòng bàn tay trên đỉnh đầu tròn trịa của ngài khi tôi nói, một thái độ bức
rức mà cũng phản chiếu trong biểu lộ thay đổi một cách nhanh chóng trên khuôn
mặt của ngài. Khi sự bày tỏ của ngài
ngừng trên một sự phối hợp không lượng định được của ba phần khó xử, một phần
khôi hài, và một vẻ mệt mỏi, ngài lắc đầu và cười. "Tôi chưa rõ mâu thuẩn nằm ở chỗ
nào! Theo nhận thức của tôi không có sự đối kháng cố hữu ở đây."
Rõ ràng có một sự khác biệt căn bản
về nhận thức đang hoạt động như một rào cản.
Dĩ nhiên, điều này không có gì mới.
Chúng tôi đã bắt đầu loạt gặp gở này với một sự kèn cựa ngắn khi tôi bất
chợt loay hoay quanh mệnh đề "Tất cả chúng ta là giống nhau" và đáp
ứng duy nhất mà ngài có thể nêu lên cho một nhận thức đơn giản như vậy là đưa
ra giả thuyết một cách đùa nghịch về sự xâm lăng của những người Hỏa tinh như
một giải pháp cho những vấn nạn của địa cầu chúng ta.
Sự kèn cựa này để điều hòa những
quan điểm bất đồng của chúng tôi - ngài như một thầy tu Phật Giáo, tôi như một
nhà tâm lý trị liệu Tây phương - là điều gì đấy mà chúng tôi đã chạm trán trước
tiên trong loạt thảo luận lần thứ nhất của chúng tôi nhiều năm trước, được ghi
chép trong tập đầu tiên Nghệ Thuật của
Hạnh Phúc. Nó đã tiếp tục một cách
định kỳ qua năm tháng, mặc dù điều ấy đã trở nên ít thường xuyên hơn khi chúng
tôi đã trở nên quen thuộc hơn với những quan điểm của nhau.
Chứng cứ những quan điểm bất đồng
của chúng tôi vẫn thỉnh thoảng nổi lên, tuy thế, khi trong lòng hăng hái của
tôi cho những giải pháp rõ ràng, dứt khoát đến những vấn nạn bao la của
con người, tôi đã hỏi những điều mà ngài
cảm thấy quá bao quát tưởng như không thể trả lời được. Một cách tổng quát, ngài quy cho những câu
hỏi loại này là từ suy nghĩ đặc trưng "chuyên chế" Tây phương của
tôi, khuynh hướng xem thấy mọi thứ trong những dạng thức của trắng hoặc đen -
tương phản với quan điểm tập quán của ngài rằng những vấn nạn của nhân loại
thường phức tạp, sắc thái, trầm lặng hơn hầu như khó phân biệt. (Tuy thế, vai
trò đôi khi bị đảo ngược khi thỉnh thoảng tôi giải thích một thái độ không
thích nghi của cá nhân trong những dạng thức của những động lực tâm lý phức
tạp, trong khi ngài có thể quy cho thái độ ấy với quyết định đơn giản: "Ô,
họ vừa mới vướng phải thói quen của thái độ đó," hay ảnh hưởng của những
kiếp sống trước.)
Mặc dù những câu hỏi quá sức đơn
giản hay tổng quát hóa có thể làm Đức Đạt Lai Lat Ma bức xúc trong những lúc
nào đấy, nhưng chúng tôi đã phát triển một cung cách đối phó với những loại câu
hỏi này: Chúng thường được bỏ qua với
một câu nói đùa. Chúng tôi đã có một lối
đùa nghịch được đan kết qua những buổi thảo luận của chúng tôi. Chúng tôi đã đặt những loại câu hỏi như thế
vào một trong hai đặc trưng: Không Có Thể hay Ngớ Ngẫn. Nếu tôi biết tôi
sắp hỏi một câu hỏi mà tôi biết là ngài sẽ phản ứng trong thái độ như thế,
nhưng tôi cứ muốn hỏi bất cứ giá nào. Tôi mở đầu câu hỏi tôi bằng cách, "Bây
giờ, thưa Đức Thánh Thiện, đây là một câu hỏi thuộc loại Không Có Thể, và câu hỏi là..." Thế đấy, trong cung cách ấy, chúng tôi đã đi
qua những quan điểm khác nhau của chúng tôi một cách thật dễ dàng, được hổ trợ
bởi thái độ khôi hài tự nhiên và ung dung của ngài.
Buổi sáng hôm ấy, khi Đức Đạt Lai
Lat Ma đã bận tâm với sự thấu hiểu rằng tôi không thể nắm bắt một nhận thức đơn
giản như vậy ra sao - đấy là chúng ta có thể nối kết với những người khác đồng
thời duy trì tính cách cá nhân của chúng ta - ngài chỉ đơn thuần quy cho nó là
cái lối suy nghĩ gàn dở độc đoán của Tây phương, và bùng vở trong cái cười hồn
nhiên tự tại của ngài. Tuy nhiên, tôi
thú nhận là tôi không từ bỏ ý kiến của tôi rằng chúng ta phải bỏ đi tính cách
cá nhân nếu chúng ta muốn 'hiệp nhất' với đặc tính của một nhóm, tôi không hoàn
toàn chấp nhận quan điểm của ngài, cho đến tận sau này, khi tôi bắt đầu tìm
thấy những chứng cứ khoa học hổ trợ cho ý tưởng của ngài.
Gãy đầu và tiếp tục cười, Đức Đạt
Lai Lat Ma tiếp tục, "Tôi vừa mới nghĩ... tôi đang nghĩ là sự khác biệt
giữa Tạng ngữ và Anh ngữ có thể đưa đến sự khác biệt căn bản về nhận thức. Trong Tạng ngữ, chữ mà chúng tôi dùng cho
'tôi' ('I' và 'me') là 'nga' và chữ dùng cho 'chúng tôi - chúng ta' ('we' và
'us') là 'ngatso'. Thế nên trên cấp độ
căn bản của chính từ ngữ do vậy trong Tạng ngữ, có một liên hệ mật thiết giữa
'tôi' như một cá nhân và 'chúng tôi' như tập thể. 'Ngatso' từ ngữ cho 'chúng tôi', có nghĩa đen
của một điều gì như 'một tập thể của "tôi"' hay nhiều cái
"tôi". Vì vậy, loại ý tưởng
này, nó giống như nhiều cái tôi. Vì vậy,
khi ông đang đồng nhất hóa với một nhóm rộng lớn hơn, trở thành một bộ phận của
một nhóm, nó giống như đang mở rộng ý nghĩa của cái tôi, hơn là đánh mất nó. Trái lại thuật ngữ trong tiếng Anh, 'we'
(chúng tôi) và 'I' (tôi) dường như hoàn toàn không liên hệ, căn bản của từ ngữ
khác nhau, chúng không liên hệ...Từ ngữ là gì?"
"Từ nguyên, theo từ
nguyên?"
"Vâng, theo từ nguyên. Do thế, trong câu hỏi của ông về Tôi Chống
với Chúng Ta, có thể điều này chứng tỏ ở phương Tây có một loại cảm giác trong
một mức độ nào đấy của Tôi trong sự đối kháng với Chúng Ta. Vì vậy, có thể khi ông hòa đồng với một nhóm,
hay trở thành một bộ phận của một nhóm lớn hơn, thì hầu như ông đang đánh mất
đặc tính cá nhân của ông. Tôi không
biết." Đức Đạt Lai Lạt Ma thận
trọng.
"À," tôi nói, "dĩ
nhiên, tôi có thể thấy những lợi ích của việc phát triển một ý nghĩa lớn hơn
của đặc tính một nhóm, cảm nhận là một bộ phận của một nhóm rộng lớn hơn. Nhưng dường như tối thiểuvẫn trên một mức độ
nào đấy, rằng nếu chúng ta càng di chuyển vào trong phương hướng ấy, càng có
nguy cơ của sự yếu kém đặc tính cá nhân của chúng ta, mà điều ấy phải hành động
với một cảm nhận của việc chúng ta đặc biệt như thế nào, chúng ta khác biệt với
những người khác như thế nào."
"Không, không nhất thiết phải
là trường hợp ấy," ngài trả lời.
"Và, trong thực tế, tiến trình của việc mở rộng đặc tính này của
chúng ta như là một bộ phận của một nhóm có thể thật sự là một tiến trình rất
tự nhiên xãy ra mà không đánh mất đặc tính cá nhân của mình. Thí dụ, trong một gia đình, có nhiều cá nhân,
và họ khác nhau. Nhưng khi người ta suy
nghĩ trong dạng thức của 'gia đình chúng ta', thế thì có một tính chất bao gồm,
bởi vì chúng ta liên hệ với mỗi người trên căn bản của sự liên hệ. Do vậy, ở đây ông mở rộng đặc tính của ông để
bao gồm gia đình, và ông có đặc tính tập thể gia đình này. Nó thật sự là vấn đề mở rộng phạm vi hay mục
tiêu, bởi vì nếu người ta không tỏ ý chí để mở rộng điều này, họ có thể thậm
chí có một sự phân chia trong chính gia đình họ. Có thể có một gia đình nơi mà họ thực hiện
một sự phân chia trong gia đình căn cứ trên đủ thứ việc - quan điểm chính trị
khác biệt hay quy trình tài chính hay bất cứ điều gì.
"Rồi thì chúng ta có thể có một gia đình, những người có một đặc trưng tập
thể của gia đình, nhưng cảm giác của chúng ta về 'cộng đồng' hay mối quan hệ
thân thuộc là rất hạn chế đến gia đình hạt nhân ấy. Vì vậy chúng ta có người phối ngẫu, con cái,
nhưng nếu chúng ta không thể vươn ra ngoài và mở rộng chu vi vòng tròn của
chúng ta, thề thì một lần nữa, nó là thật là hạn hẹp. Gia đình này sẽ tự khác biệt với láng giềng của
họ, và giữ chính họ hoàn toàn cắt đứt, và rồi thì sống một cách độc lập. Nhưng chúng ta cũng có thể có những gia đình
không chỉ xác định chính họ như một gia
đình nhưng cũng đồng nhất chính họ như là một phần của cư dân láng giềng. Và nếu gia đình chúng ta có thể vươn ra, mở rộng
vòng tròn ấy vượt khỏi hàng xóm bên cạnh, chúng ta có thể phát triển một sự
liên kết và một sự ràng buộc với những người khác căn cứ trên dạng thức 'chúng
ta như một cộng đồng.' Và điều đó sẽ làm
nên một sự khác biệt khổng lồ.
"Nếu những gia đinh con người sống trong
một cộng đồng có thể thật sự liên hệ với nhau như những thành viên của cùng một
cộng đồng, dĩ nhiên, đôi khi có thể có một sự xung đột và tranh luận, v.v...
nhưng tối thiểu sẽ có một cảm giác liên quan.
Nếu chúng ta cảm thấy đôi khi chúng ta cần nói chuyện với ai đấy, chúng
ta chỉ cần gõ cửa nhà người ấy, hay chia sẻ những rắc rối, chia sẻ niềm vui, mời
mọc mọi người chung quanh."
Ngài dừng lại, rồi kết luận. "Vì thế, trong cùng cách này chúng ta có
thể mở rộng đặc tính của chúng ta để bao gồm 'chúng ta như một khu vực' hay
'chúng ta như một quốc gia', v.v... Và căn bản, trong trường hợp của xã hội, cộng đồng nhân loại, chúng ta có thể mở
rộng sự thống nhất này để bao gồm mọi người, nên chúng ta có thể nói, 'chúng ta
những con người trên trái đất.' Do vậy, ở
mức độ nhân loại, có những sự khác biệt trong những cá nhân thành viên nhưng
cùng lúc chúng ta có thể thấy một 'sự đồng nhất', chúng ta có thể liên hệ với
người khác trên một căn bản sâu sắc hơn, nền tảng hơn.... Ông biết không,
"ngài thêm, khi ngài chuẩn bị chấm dứt buổi thảo luận, "những ngày
này, tôi nhận thấy rằng việc sử dụng từ ngữ "nhân loại" rất nhiều,
tôi nghĩ đấy là một tiến triển diệu kỳ - bởi vì điều này rất toàn diện."
Đặt cái ca nước nóng và với lấy đôi giày, Đức
Đạt Lai Lạt Ma tóm lược: "Vì thế, vấn
đề quan trọng ở đây là một cá nhân vẫn có một sự quan tâm đến lợi ích cho chính
mình, để có một ý nghĩa của Tôi (Me), nhưng người ấy có thể mở rộng phạm vi đặc
trưng của cá nhân, và sự quan tâm của cá
nhân, để bao gồm những người khác - không phải là quên lãng những sự
khác biệt của chúng ta quá nhiều, mà đúng hơn là ghi nhớ những sự tương đồng của
chúng ta, cho nó một sự chú ý và tầm quan trọng tương ứng. Một cách căn bản, không phải là vấn đề về Tôi
hay Chúng Ta mà đúng hơn là Tôi và Chúng Ta."
***
Chúng ta bắt đầu thảo luận về hạnh phúc của
con người trong phạm vi xã hội bằng việc khảo sát vấn đề nền tảng Tôi Chống lại
Chúng Ta - riêng lẻ chống lại nối kết. Đức
Đạt Lai Lạt Ma tranh luận rằng con người được phác họa để nối kết với những người
khác, giải thích khả năng tình cảm, nồng ấm, thân hữu, và yêu mến của chúng ta
là giảu có và những nguồn gốc đáng tin cậy của hạnh phúc nhân loại - giống như
tiến trình giả kim nào đấy biến chì thành vàng, sự chuyển hóa Tôi thành Chúng
Ta, trau dồi một ý thức liên hệ, đem đến những phần thưởng phong phú cho sự toại
nguyện của con người, cùng với sức khỏe thân thể, tinh thần, và cảm xúc tốt đẹp
hơn. Cùng lúc, sự nối kết với người khác
sẽ giúp để tăng cường cộng đồng rộng lớn hơn và hổ trợ để xây dựng một xã hội tốt
đẹp hơn. Trong thực tế, cho dù nhìn qua
lăng kính từ bi của Đạo Phật hay trích dẫn chứng cứ khoa học gần đây, người ta
có thể tranh luận một cách hợp lý rằng sự nối kết của nhân loại và những ràng
buộc cộng đồng, căn cứ trên ý thức ân cần, có thể là cội nguồn đơn độc to lớn
nhất của niềm hạnh phúc và toại nguyện của nhân loại.
Nhưng, khi chúng ta chứng kiến qua lịch sử
nhân loại, đôi khi sự việc có thể đi lạc hướng.
Sai lầm kinh khiếp. Trong khi cảm
nhận liên hệ, ý thức Chúng Ta, có thể đem đến những tưởng thưởng vĩ đại, điều
gì xãy ra khi Chúng Ta và Họ trở thành Chúng Ta Chống Lại Họ? Làm thế nào chỉ khái niệm về Chúng Ta và Họ
leo thang thành thành kiến, thù hận, xung đột, và bạo động? Đây là những vấn đề thiết yếu mà chúng tôi phải
đối diện khi những đàm luận của chúng tôi tiếp tục.
Nguyên tác:
Me and
We trích từ quyển The Art of
Happiness in a Trouble World
Ẩn Tâm Lộ ngày 07/06/2011
[1] Sinh ngày 22
tháng Năm 1942, từng là giáo sư phụ tá toán học, bị tù chung thân, không được
miễn giảm.
[2] Cộng đồng tập
thể ở Do Thái, khởi đầu căn bản nông nghiệp.
Ngày nay, nông trại là một bộ phận được hổ trợ bởi những bộ phận khác, kể
cả nhà máy công nghiệp và kỷ thuật cao cấp.
[3] Còn gọi là đồ đại cán, hay áo Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch
cũng mặc bộ đồ này. Các lĩnh tụ cộng sản
Trung Hoa, Bắc Hàn, Việt Nam, Lào và Khmer như Polpot, Ieng Sary đều mặc bồ đồ
này. Từ Cách mạng Văn hóa 1966, bộ đồ
này với chiếc nón công nhân của Lê-nin trở thành đồng phục cho mọi giới ở Hoa Lục
từ quân sự đến dân sự, từ lĩnh tụ đến dân thường, nam cũng như nữ, chỉ có khác
màu, và lĩnh tụ cùng cán bộ cao cấp thì có thêm chiếc áo sơ mi trắng bên
trong. Từ sau Đặng Tiểu Bình, các lĩnh tụ
Trung Hoa cùng các nước cộng sản Á châu đều đã thay bằng bộ đồ lớn hay veston với
cà vạt.