Ba học thuyết ấy thành ra ba tôn giáo, người ta thường gọi là Tam giáo,
đều có ảnh hưởng rất sâu về đường tin tưởng và sự hành vi trong cuộc
sinh hoạt của ta ngày xưa. Đến nay cuộc đời thay đổi, người ta theo
khuynh hướng vật chất, coi rẻ những điều đạo lý nhân nghĩa. Đó cũng là
sự dời đổi biến hóa trong cuộc đời.
Đời là biến hóa không có gì là thường định. Mỗi một cuộc biến hóa lại
giống một mắt xích trong cái dây xích, rồi cái nọ tiếp giáp cái kia,
thành cái dây dài không biết đâu là cùng tận. Sự biến hóa tuần hoàn ấy,
kể thực ra không có gì là chuẩn đích nhất định, chẳng qua là nó theo
thời mà luân chuyển. Cái trước ta cho là tốt, thì bây giờ ta cho là xấu;
cái bây giờ ta cho là hay, sau này người ta lại cho là dở. Dở dở, hay
hay vô thường vô định, thành ra như cái trò quỉ thuật làm cho người ta
mê hoặc.
Các bậc thánh hiền đời trước, biết rõ những điều ấy, muốn tìm ra một con
đường mà đi trong đám tối tăm mờ mịt, nên mới lập ra học thuyết nọ, tôn
giáo kia để đưa người ta đi cho khỏi mắc phải chông gai nguy hiểm. Nho
giáo, Đạo giáo và Phật giáo đều có một quan niệm như thế cả. Song mỗi
một học thuyết có một tôn chỉ và một phương pháp riêng để học đạo tu
thân, cho nên cách luận lý, cách lập giáo và sự hành đạo có nhiều chỗ
khác nhau.
Bàn về căn nguyên của vũ trụ, thì học thuyết nào trong tam giáo cũng lấy
cái lý tuyệt đối làm căn bản, cho vạn vật sinh hóa đều gốc ở cái một.
Gọi cái một là thái cực, là đạo, là chân như hay là thái hư, danh hiệu
tuy khác, nhưng vẫn là một lý. Chia ra thì thành trăm đường nghìn lối,
mà thu lại chỉ có một. Đó là cái ý của Khổng Tử nói ở thiên Hệ từ trong
Kinh Dịch rằng: “Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự.”
Cái một ấy mới thật là cái có tuyệt đối thường định tự tại. Còn vạn vật
là sự biến hóa của cái một ấy, thì chỉ là những cái có tỷ lệ tương đối,
tức là những ảo tưởng vô thường mà thôi.
Vạn vật đã là ảo tưởng, thì cuộc đời có khác chi những trò tuồng ở trên
sân khấu, bày ra đủ mọi trò rồi lại biến mất. Cho nên về đường triệt để,
thì Nho, Đạo và Phật đối với cuộc đời đều có cái tư tưởng như thế cả.
Song Nho giáo thì cho rằng dù thế nào cũng là bởi cái lý tự nhiên, mà đã
sinh ra làm người để diễn các trò tuồng, thì ta hãy cứ đóng các vai trò
cho khéo, cho giỏi, khỏi phụ cái tiếng ra đóng trò. Đạo giáo thì cho
rằng đã là trò tuồng, ta nên tìm chỗ yên lặng để ngồi mà xem, tội gì ra
nhảy múa cho nhọc mệt. Phật giáo thì cho rằng các trò tuồng là nguồn gốc
sự đau buồn khổ não, lăn lộn vào đó làm gì cho thêm buồn thêm khổ, chi
bằng tìm lối ra ngoài những cuộc múa rối ấy, đến nơi yên vui thảnh thơi,
khỏi phải ở những chỗ ô trọc xấu xa.
Cái tỷ dụ giản dị ấy có thể biểu lộ được cái thái độ và cái nền tư tưởng
của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Nho giáo thì khuynh hướng về đạo
xử thế, Đạo giáo và Phật giáo thì khuynh hướng về đạo xuất thế. Song Đạo
giáo vẫn ở trong sự biến hóa càn khôn, mà Phật giáo thì ra hẳn ngoài
càn khôn.
Đó là nói cái đại thể, chứ tựu trung ba học thuyết ấy, học thuyết nào
cũng có chỗ nhập thế gian và xuất thế gian. Ngay cái học thiết thực như
Nho giáo mà cũng có người như Nguyên Hiến chịu an bần lạc đạo, không
thèm ganh đua danh lợi ở đời; mà trong những người tin theo Đạo giáo hay
Phật giáo, thường cũng thấy có người cúc cung tận tụy với việc đời để
cứu nhân độ thế. Vậy thì Tam giáo tuy có khác nhau ở chỗ lập giáo và
hành đạo, nhưng lên đến chỗ cùng tột tuyệt đối thì cùng gặp nhau ở chỗ
lý tưởng, cho nên vẫn dung nạp được nhau. Đó là cái đặc sắc của các tôn
giáo ở Á Đông.
Nhân khi hội Phật giáo ở Bắc Việt thành lập, tôi có đọc mấy bài diễn văn
nói về Phật giáo. Sau vì loạn lạc, sách vở bị đốt cháy, tôi về Sài Gòn
nhặt được ba bài, xếp thành một tập, mong có ngày in ra được để tín đồ
nhà Phật có thể xem mà suy xét thêm về cái đạo rất mầu nhiệm ở trong thế
gian này.
TRẦN TRỌNG KIM