Lịch sử kết tập Pháp tạng lần thứ tư
I-
Thuyết thứ nhất
Sau Phật Niết bàn
khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca
Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh
vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những
lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh
Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
Nhưng vua thấy quan điểm mỗi người một khác, không ai
giống ai, nên rất băn khoăn, không biết làm sao để giải
tỏa. Vì vậy vua liền thỉnh giáo Hiếp Tôn Giả (Parsva),
Hiếp Tôn Giả liền thưa: " Tâu Đại vương, vì đức Như
Lai nhập diệt trải qua năm tháng đã lâu, các đệ tử thường
dựa theo quan điểm của thầy mình, có những nhận thức
bất đồng, do đó mà sinh ra mâu thuẫn với nhau".
vua nghe nói thế rất
lấy làm buồn lòng, trầm ngâm hồi lâu, rồi bạch với tôn
giả: "Trẫm nhờ hưởng được phúc đức của tổ tiên,
nên được kế thừa tông miếu, cai trị muôn dân, nay tuy xả
cách Thánh nhân (Phật), nhưng còn may mắn nếm được pháp
vị. Trẫm muốn quên sự hèn kém của mình, dốc lòng thiệu
long chánh pháp, mở đại hội kết tập pháp tạng để
thống nhất những quan điểm riêng của các bộ phái".
Hiếp Tôn Giả tán thán:
"Đại vương đã gieo trồng căn lành từ đời trước, nên
đời này đủ phước lộc, lại lưu tâm đến Phật pháp,thực
là hợp với nguyện vọng của bần tăng". Thế rồi, vua
truyền lệnh triệu tập các bậc thánh triết xa gần. Nhận
được sắc chỉ, các bậc minh triết thông đạt tam tạng,
những bậc hiền tài xuất chúng từ bốn phương vân tập
về kinh thành.Vua bèn thiết lễ cúng dường suốt 7 ngày, và
bàn kế hoạch mở đại hội kết tập. Nhưng thấy số người
khá đông đúc, sợ khó tránh khỏi ô hợp, nên vua đem điều
thao thức của mình trình lên Tăng chúng rồi truyền lệnh:
"Những vị nào đã chứng đắc Thánh quả thì ở lại,
những vị nào còn triền phược xin hãy trở về chỗ cũ".
Tuy vậy, chúng hội vẫn còn quá đông, nên vua lại ra lệnh:
"Các bậc vô học (chứng quả A la hán) xin hãy ở lại,còn
các bậc hữu học hãy ra về. Thế nhưng số người vẫn còn
nhiều, vì thế vua lại hạ lệnh: "Những vị đầy đủ
tam minh lục thông hãy ở lại, còn những vị khác đều hãy
trở về". Nhưng hội chúng vẫn còn đông, buộc lòng vua
phải hạ lệnh một lần cuối cùng: "Những ai đối với
nội giáo thì tinh thông Tam tạng, đối với ngoại điển thì
quán triệt ngũ minh, xin mời ở lại, còn những vị khác xin
hoan hỷ lui về trú xứ".
Chung cục, sau bốn
lần gạn lọc, số người còn lại tính được 499 người.Lúc
ấy, nhà vua thấy trong nước mình hay mưa nắng bất thường,
sợ làm khổ nhọc các vị tôn túc, nên định đưa hội chúng
đến thành Vương Xá - nơi thạch thất mà tôn giả Ca Diếp xưa
kia đã kết tập giáo pháp - mở đại hội kết tập.Nhưng
Hiếp Tôn Giả cùng các vị tôn túc can rằng: "Thưa Đại
vương, không nên. Vì ở đó có nhiều ngoại đạo, nhiều
luận sư khác phái rất phức tạp. Chúng ta sẽ phải bận
rộn thù tiếp,giao tế với họ mất hết thì giờ, ắt hẳn
sẽ gây trở ngại công việc kết tập và soạn ra luận
giải. Hơn nữa, đại chúng giờ đây đều nhất trí muốn
thực hiện việc kết tập tại nước này. Vì đất nước này
ở bốn phía có núi non kiên cố,có thần Dược Xoa gìn giữ,
đất đai phì nhiêu , sản vật phong phú, là nơi thánh hiền vân
tập, các bậc thần tiên qua lại,và hiện giờ Tăng chúng đang
quy tụ tại đây". Sau khi nghe trình bày, vua thấy hợp lý,
nên chuẩn thuận đề nghị ấy.
Thế rồi, vua truyền
lệnh cho công nhân xây dựng lo thiết lập già lam tại thành
Ca Thấp Di La (Kasmira) để kết tập pháp tạng.
Lúc bấy giờ, các
vị A la hán thấy tôn giả Thế Hữu (Vasumitra) mặc y phục
luộm thuộm, đang đứng trước hành lang, bèn nói với tôn
giả: "Ông chưa đoạn trừ kiết sử, nếu luận nghị giáo
pháp sẽ vấp phải sai lầm, vậy ông nên rời khỏi đây mà
đi nơi khác".
Thế Hữu nói:
"Nay chư hiền đối với chánh pháp không có điều chi
nghi ngờ, muốn thay Phật để tuyên dương nên mới tập họp
nơi đây mà luận bàn Phật pháp. Tôi tuy không được thông
tuệ, nhưng cũng hiểu giáo pháp ít nhiều, văn chương u
huyền của tam tạng và những lý luận khúc chiết của ngũ
minh cũng đã từng nghiên cứu và đạt được những ý thú
nhất định".
Các vị A la hán nói:
"Lời nói suông không có gì làm bằng chứng, nếu vậy thì
thầy hãy ẩn cư nơi vắng vẻ một thời gian, lo tu tập gấp
để chứng đạt quả vô học, rồi mới tham dự cũng chưa
muộn".
Thế Hữu nói: " Tôi
xem quả vô học cũng như đàm dãi, chí tôi chỉ cầu Phật
quả, chẳng thèm đi con đường nhỏ". Bèn vò cái y rách
ném đi.Khi chiếc y chưa rơi tới đất, thì tôn giả (tuyên
bố mình) chứng được thánh quả vô học.
Lúc ấy, các vị A la
hán lại khiển trách: "Kẻ Tăng thượng mạn chính là người
này đây. Quả vô học được chư Phật hết lời tán thán,
đâu có thể chứng đắc dễ dàng như thế?"
Muốn cho mọi người
hết mối ngờ vực, Thế Hữu bèn ném chiếc y lên hư không,
chư Thiên bèn tiếp lấy và cung kính thỉnh cầu: "Tôn
giả nên chứng Phật quả để sau này kế thừa Đức Từ
Thị (Di Lặc), làm bậc tôn quý nhất trong ba cõi, và làm
chỗ nương tựa cho bốn loài, chứ giờ đây tôn giả chứng
quả nhỏ làm chi?".
Bấy giờ các vị A la
hán thấy sự ly kỳ như thế bèn tạ lỗi, và mời tôn giả
tham gia đại hội kết tập cho đủ số 500 người. Đồng
thời hội chúng suy cử Thế Hữu làm đệ nhất và Hiếp Tôn
Giả làm đệ nhị chủ tọa cuộc kết tập để quyết đoán
những ý kiến bất đồng của cử tọa.Những vấn đề của
kinh điển, sau khi được hội nghị thảo luận và biểu
quyết, bèn biên tập thành ba bộ luận, đó là:
1. Bộ luận "Ưu
Ba Đề Xá" gồm 10 vạn bài tụng, dùng để giải thích
Kinh tạng.
2. Bộ luận "Tì
Nại Da Tì Bà Sa" cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải
thích Luật tạng.
3. Bộ luận " A
Tì Đạt Ma Tì Bà Sa" cũng gồm 10 vạn bài tụng, để
giải thích Luận tạng.
Như vậy cả ba bộ
gồm 30 vạn bài tụng, chín trăm sáu mươi vạn lời
(9.600.000), giải thích đầy đủ ba tạng giáo điển. Trong đó,
không có chi tiết nào là không bàn bạc tận cùng, không có
chỗ sâu xa nào là không cứu xét rốt ráo. Những nghĩa lý thâm
u được làm cho sáng tỏ, những lời nói còn mù mờ được
làm cho rõ ràng. Thành quả này nhằm truyền lại muôn đời
cho hậu thế dùng làm cương lĩnh.
Kế đến, vua Ca Nị
Sắc Ca bèn sai thợ đúc đồng dùng đồng đỏ dát thành lá
mỏng, để chép luận văn, rồi đem cất vào trong hang đá, xây
thép lên trên để cúng dường. Vua lại sai thần Dược Xoa phòng
vệ khắp nước, không để cho ngoại đạo mang bộ luận ấy
ra khỏi lãnh thổ. Những ai muốn học tập nó thì phải đến
đó mà học .
Sau khi xong việc, vua bèn
thiết lễ trai tăng cúng dường rất trọng hậu để chúc
mừng đại hội kết tập vừa thành công viên mãn (Đại Đường
Tây Vức,quyển ba, Sa môn Biện Cơ soạn tại chùa Từ Ân, ĐTK
51, ký hiệu 2087, tr 886b).
Tóm
tắt
1/ Lý do kết tập:
vì chư Tăng của các bộ phái có những kiến giải bất đồng
về kinh điển,nên mới mở đại hội kết tập.
2/ Thời gian kết tập:
Khoảng 400 năm sau Phật Niết Bàn.
3/ Địa điểm kết
tập: tại thành Ca Thấp Di La (Kasmira), tên cũ gọi là Kế Tân,
nước Kiền Đà La (Gandhàra) thuộc miền Tây Bắc Ấn Độ.
4/ Vị chủ tọa cuộc
kết tập: Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra) với sự trợ thủ
của Hiếp Tôn Giả.
5/ Số người tham dự
kết tập: 500 vị Hiền thánh (kể cả vị chủ tọa) đã đạt
địa vị vô lậu, tức quả A la hán.
6/ Người khởi xướng
cuộc kết tập: vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka), vị hộ pháp được
xem là có công tương đương với hoàng đế A Dục.
7/ Thành quả cuộc
kết tập: Soạn ra ba bộ luận: kinh sớ, luật sớ, và luận
sớ, gồm ba mươi vạn bài tụng, 9.600.000 lời.
8/ Phương thức bảo
quản: Vua ra sắc lệnh sai thần Dược Xoa bảo vệ không cho
ngoại đạo hay người nào mang bộ luận này ra khỏi nước.
II-
Thuyết thứ hai
1. Thời gian kết
tập: Sau Phật Niết bàn 500 năm, và thời gian biên tập xong các
bộ luận kéo dài đến 12 năm.
2. Địa điểm kết
tập: Tại Kế Tân, tức Ca Thấp Di La (Kasmira)
3. Vị chủ tọa cuộc
kết tập: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử, và Bồ tát Mã Minh
chấp bút.
4. Số người tham dự:
500 vị La hán và 500 vị Bồ tát.
5. Thành quả: Soạn
một bộ luận gồm 8 kiền độ (tức 8 phần), đặt tên là
Phát Tuệ luận (hay Phát Trí luận) gồm 5 vạn bài kệ. Sau 12
năm mới hoàn thành, giả thích rộng rãi, gồm thành 100 vạn
bài kệ.
6. Phương thức bảo
quản: Các thánh giả dùng thần lực khiến các thần linh
bảo vệ không cho bất cứ một ai mang bộ luận này ra khỏi
nước (Bà Tẩu Bàn Đậu - Vasubandhu) pháp sư truyện, Chân Đế
đời Trần dịch, ĐTK 50, ký hiệu 2049, tr 189a).
III-
Thuyết thứ ba
1.Thời
gian kết tập: Vào thời vua Bà Tha Già Mã Ni (Vattagàmani) cai
trị Tích Lan (ước chừng 400 năm sau Phật nhập diệt (?).
2. Địa điểm kết
tập: tại thôn Mã Đặc Lê, phía Đông A Lư Ca, nước Tích
Lan.
3. Vị chủ tọa cuộc
kết tập: Thượng tọa La Hi Da Đại.
4. Số người tham dự:
500 vị Tỳ kheo.
5. Người khởi xướng
và bảo trợ: Vua Ba Tha Già Mã Ni (Vattagàmani).
6. Thành quả kết
tập: Kỳ kết tập này đọc lại giáo điển 3 tạng của Thượng
tọa bộ, hiệu đính lại những chú thích của ba tạng, sắp
xếp lại thứ tự của kinh điển, viết một bộ Tam tạng
bằng tiếng Pàli, và làm bản chú thích bằng văn Tăng Già La
(Tích Lan) (đảo sử Tích Lan, theo sự dẫn lại của Phật
Quang Đại từ điển, tr 5189a).
Vài
điều ghi nhận
- Thuyết thứ nhất, tư
liệu lấy từ Tây Vức ký, một tác phẩm viết khá súc
tích, khúc chiết và chặt chẽ, khá nổi tiếng, nhất là về
phương diện sử liệu. Do đó, gần như hầu hết các học
giả đều công nhận học thuyết này.
- Thuyết thứ hai lấy
từ Bà Tẩu Bàn Đậu pháp sư truyện. Văn của tập
truyện này viết chuệch choạc rời rạc, các dữ kiện phần
lớn không giống với Tây Vức ký. Tuy cũng được xem là
lần kết tập pháp tạng thứ tư, nhưng rất ít học giả công
nhận giá trị của nó.
- Thuyết thứ ba, tư
liệu còn ghi lại đầy đủ trong Đảo sử. Địa điểm và
thành phần tham dự hoàn toàn khác hẳn với cuộc kết tập
tại Ca Thấp Di La. Tuy vậy, các học giả đều công nhận đây
là lần kết tập thứ tư của Phật giáo Thượng tọa bộ
tại Tích Lan.
- Nếu như nước
Kiền Đà La hay miền Tây-Bắc Ấn Độ được xem là cái nôi,
là căn cứ địa mà Phật giáo đại thừa thai nghén và phát
triển, rồi từ đó truyền sang các nước thì trái lại, Tích
Lan chính là trung tâm của Phật giáo của các nước khác
trong vùng.
- Thời điểm vua Ca
Nị Sắc Ca ra đời có tới 5 mảng tư liệu đề cập đến,
xê dịch từ 300 đến 700 năm, nhưng chỉ có thuyết cho rằng
ông ra đời vào khoảng 400 năm sau Phật nhập diệt, là được
các học giả đồng tình hơn hết (Xem thêm Phật Quang đại
từ điển, tr.3976b).
-