Xin Cứu Ðộ Mẹ Ðất
Thích Trí Siêu
Mẹ Ðất bệnh thì chúng sinh bệnh
1/ Tỵ nạn thiên nhiên
Nhân danh kỹ nghệ văn minh tiến bộ, con người đã và đang tiếp tục tàn
phá môi trường thiên nhiên : rừng cây, đất mầu, sông biển, không khí
v.v... khiến cho dân cư ở đây, vì lâm vào tình trạng thất nghiệp đói
kém, phải đi tỵ nạn về tỉnh hoặc thành phố với hy vọng kiếm được sinh
nhai.
Trước đây 40 năm, dân số ở các thành thị trên thế giới có khoảng 600
triệu, ngày nay số đó đã lên tới 2 tỷ. Ðâu phải ai về tỉnh hoặc sống ở
tỉnh cũng dư giả hoặc dễ sống hết đâu. Dân số càng đông thì tổ chức xã
hội càng khó và phức tạp. Khổ nhất là cho các nước chậm tiến. Hàng triệu
người sống chui rúc trong các chung cư bần dân, những cư xá lụp xụp.
Nhà làm bằng mái tôn rỉ cũ xiêu vẹo, cửa sổ vá víu bằng bao ny lông hoặc
giấy các tông, nước uống, nước rửa pha chảy lẫn lộn, trẻ con thiếu ăn,
bụng phình trướng, quanh năm suốt tháng sống với tiếng ồn, mùi xú uế,
hơi khói, chấy rận. Ðó là số phận của những người tỵ nạn thiên nhiên.
2/ Xã hội nô lệ hóa
Thông thường người ta đánh giá lịch sử của một dân tộc qua tiến trình
văn minh. Từ lúc lên rừng hái quả, săn bắn cho đến canh nông trồng
trọt, từ xây cất thành phố cho đến chế tạo phi thuyền. Người ta tin
tưởng vào khoa học, vì nhờ khoa học mà các nước Âu Mỹ trở nên tiến bộ và
giàu có nhất trên thế giới. Các nước Á Phi rất mơ được như vậy, nhưng
họ đâu có hay rằng giấc mơ kia là đầu mối của một cơn ác mộng. Các nước
Âu Mỹ hiện nay cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng,
nạn thất nghiệp lan tràn, gia tăng. Ngay cả Hoa Kỳ, một quốc gia được
xem là giàu có nhất thế giới, mỗi năm ngân quỷ quốc gia cũng thiếu hụt
cả chục tỷ mỹ kim.
Khoa học thường đi đôi với duy vật. Ngày nay người ta đánh giá sự
thành công của con người qua những tiêu chuẩn như : lương bổng của anh
bao nhiêu ? Nhà anh ở khu nào ? Xe hơi của anh hiệu gì, mấy mã lực ? Anh
đi nghỉ hè ở đâu ? v.v... Con người chỉ biết có tiền và làm sao cho có
được nhiều tiền càng tốt. Nhiều tiền để làm gì chứ ? - Ðể tiêu thụ !
Chính vì tâm lý tiêu thụ này mà vật giá cứ tiếp tục leo thang và nạn lạm
phát không thể ngưng được. Tệ hại hơn nữa, ở Âu Mỹ có mốt bán chịu
(vente à crédit), như vậy lại càng kích thích tâm lý tiêu thụ.
Dân
chúng không có tiền mà cứ tha hồ mua sắm. Mua trước rồi sẽ trả sau.
Không có xứ nào mà dân chúng thiếu nợ nhiều như ở Âu Mỹ. Nợ nhiều thì
phải nai lưng ra làm việc để trả nợ. Ða số đến chết vẫn chưa trả hết nợ.
Tưởng mình tự do, tự do mua sắm, tự do xài sang, tự do tiêu thụ, nhưng
có ai ngờ đâu là mình đang làm nô lệ cho vật chất. Tiêu thụ nhiều thì
phải sản xuất nhiều, muốn sản xuất nhiều thì phải khai thác nhiều, khai
thác không nương tay, không kiêng nể, không nghỉ gì đến thế hệ con cháu
sau này. Làm như xài hết quả đất này thì chúng ta còn có quả đất xơ-cua
(secours) thứ hai vậy.
3/ Không khí, nước và thức ăn ô nhiễm.
Hãy thở đi bạn, chúng ta là sinh vật mà ! Sinh vật nào mà chả hít
thở. Cây cỏ kia còn phải hít thở nữa huống chi là con người. Hít thở là
sự sống và cũng là một niềm tự do. Nhưng niềm tự do đó đang bị tước
đoạt. Hít thở sao cho nổi khi không khí chỉ toàn là khói bụi, xăng nhớt ?
Một bản thống kê năm 1989 cho biết, ở Hoa Kỳ mỗi năm có khoảng một
triệu tấn độc tố hóa học được tống khứ lên bầu khí quyển từ các xưởng kỹ
nghệ. Con số này phải được nhân lên gấp ba nếu ta kể luôn cả khói xe
hơi, thuốc sát trùng, phế thải kỹ nghệ trong nước bốc hơi lên.
Sống ở tỉnh hay thành phố mà muốn hít thở được một chút không khí
trong lành thật không phải là chuyện dễ. Ra đường thì khói xe hơi, khói
kỹ nghệ, vào sở làm thì khói thuốc lá, về nhà thì không khí bế tắc. Do
đó mỗi cuối tuần, rất nhiều người tìm cách mau mau thoát khỏi cái tỉnh
"phòng ngạt" để về miền quê may ra hít thở được một chút không khí trong
lành.
Tìm đâu ra một chút nước sạch để uống ?
Ở các xứ chậm tiến, nhất là vùng thành thị, viêc vứt đổ rác rến phân
tiểu trong giòng nước, sông hồ là một chuyện rất thường không có gì là
lạ cả. Vi trùng, vi khuẩn, sán lải đua nhau sinh nở trong các ống cống,
ống dẫn nước. Xứ đã nghèo, dân chúng lại thất học không biết giữ gìn vệ
sinh, tìm được một chút nước sạch để uống không phải chuyện dễ. Ở các xứ
văn minh, nước không bị nhiễm ô bởi phân tiểu, rác rến nhưng bởi sự phế
thải hóa học. Về nước uống, 20 triệu dân Âu châu tùy thuộc về sông
Rhin, nhưng con sông này đã bị nhiễm ô trầm trọng.
Biết được
nước bị nhiễm ô, thay vì tìm cách chữa trị tận gốc, người ta lại lợi
dụng luôn tình thế, chế bán các loại nước suối (eau minérale) đủ thứ
nhãn hiệu. Bán cho những dân ý thức được sự ô nhiễm của nước và chỉ muốn
uống nước trong lành. Ở trên trái đất này có 7 phần 10 là nước, nước có
rất nhiều, có khắp nơi, ngay cả trong nhà chỉ cần vói tay vặn một cái
là có nước chảy. Vậy mà không uống được, lại phải ra chợ mua nước suối
uống. Tệ hơn nữa, khi uống nước suối người ta lại càng hãnh diện vì nó
biểu lộ sự giàu sang, đài các trưởng giả. Chúng ta cần nhận thức rằng
việc tiêu thụ nước suối chính là hậu quả của sự tàn phá và nhiễm ô môi
sinh. Ngay cả việc chế bán nước suối cũng vậy, phải khai quật các nguồn
suối, chế tạo bình ny lông, vô chai, chất lên xe vận tải đi hàng ngàn
cây số đến trưng bán ở các siêu thị. Tất cả cái đó đều góp tăng thêm sự
nhiễm ô.
Về thức ăn, bộ canh nông Anh quốc đã phải công nhận rằng tất cả thức
ăn bày bán trên thị trường, không có thứ nào mà không bị nhiễm thuốc sát
trùng, không nhiều thì ít. Ðâu phải chỉ nhiễm có thuốc sát trùng mà
thôi, các thức ăn mà chúng ta dùng hàng ngày còn bị nhiễm rất nhiều độc
tố hóa học khác, nhất là các chất kích thích tố (hormones) và trụ sinh
(antibiotiques). Các súc vật như gà, vịt, heo, bò ngày nay được nuôi
dưỡng những chất trên để da thịt mập mạp, nặng ký để bán.
Thức ăn không những bị ô nhiễm mà lại còn khan hiếm nữa. Là người
Việt, may mắn sống ở hải ngoại, vật chất dư giả, chúng ta ít có khi nào
để ý tới sự khan hiếm của thức ăn trên thế giới, nhất là ở các xứ chậm
tiến Á Phi, mỗi năm có đến hàng triệu trẻ em chết đói. Chúng ta càng ăn
sung mặc sướng, hưởng thụ tha hồ bao nhiêu thì dân ở các xứ này càng
chết đói bấy nhiêu.
--------------------------------------------------------------------------------
Nguyên nhân Mẹ Ðất bệnh
1/ Sự u mê, tham lam, ích kỷ
Tàn hoại Mẹ Ðất, phá sản và nhiễm ô môi sinh không ai khác hơn là con
người. Vi u mê, tham lam, ích kỷ nên con người đã lợi dụng trí khôn của
mình cùng với những khám phá khoa học để tàn phá môi sinh, và cùng lúc
xây đắp đời sống hưởng thụ của mình trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác.
Tất cả sự vật trên đời này đều phải nương nhau mà có, cái này có vì
cái kia có. Sự sống của con người có mặt vì muôn ngàn sự sống khác có
mặt, sự sống của đất đá, của cỏ cây, sông biển, núi rừng, v.v... Tất cả
đều góp phần vào sự sống của con người. Con người không thể sống riêng
rẻ một mình nếu tất cả các loài khác bị tiêu diệt. Sự sống là một toàn
thể. Ðây là tính cách duyên khởi của vạn hữu và cũng là lý "trùng trùng
duyên khởi" của kinh Hoa Nghiêm.
Vì u mê, không biết được điều
này nên con người đã thản nhiên ra tay tước đoạt sự sống của mọi loài,
cho rằng đó là những thứ được ông Trời hay Tạo Hóa sinh ra cho mình
hưởng thụ. Hưởng thụ cho riêng mình TA chưa đủ, chúng ta còn muốn hưởng
thụ luôn cho cả vợ Ta, con Ta, gia đình Ta, xã hội Ta, quốc gia Ta. Vì
muốn hưởng thụ cho tất cả những cái liên quan đến Ta và của Ta, nên
chúng ta trở thành tham lam, ích kỷ. Có một muốn mười, có mười muốn
trăm. Muốn nhiều thì tìm ở đâu ra ? Phải moi nơi Mẹ Ðất, khai quật các
mỏ nguyên liệu. Nhưng nguyên liệu thiên nhiên thì có hạn mà lòng tham
của con người thì không đáy. Từ đó sinh ra tranh dành và bóc lột lẫn
nhau, mạnh hiếp yếu, giàu lấn nghèo.
Không hiểu các nước chậm tiến Á Phi làm gì mà hơn nửa thế kỷ nay vẫn
mãi nghèo đói không ngóc đầu lên được ? Chẳng lẽ họ không biết bắt chước
Tây phương phát triển kỹ nghệ, canh nông, tăng gia sản xuất hay sao ?
Họ biết chứ sao không ? Chính vì muốn bắt chước nên họ đã mua sắm rất
nhiều máy móc tây phương, mua chịu (à crédit). Vì mua chịu hay nói một
cách khác là mắc nợ nên phải cố gắng xuất cảng nhiều. Hàng năm số lương
thực xuất cảng nhiều hơn số nhập cảng và được viện trợ bởi Liên Hiệp
Quốc. Vào năm 1973, 36 nước nghèo đói nhất thế giới vẫn phải xuất cảng
lương thực đến Hoa Kỳ. Hơn thế nữa, các thức ăn được xuất cảng thường là
các thứ hảo hạng, có nhiều chất dinh dưỡng hơn các thức ăn nhập cảng
hay được viện trợ. Dân nghèo phải cong lưng ra cầy cấy, đổ mồ hôi sôi
nước mắt, để rồi những sản phẩm đó được đem đi bán rẻ ở các nước giàu có
Tây phương. Ðây há không phải là một hình thức bóc lột sao ?
Cũng vì muốn xuất cảng kiếm ngoại tệ trả nợ mà không biết bao nhiêu
ruộng đất tốt đã bị đem đi dùng để trồng các thứ xa xí phẩm như hoa mầu,
thuốc lá, thay vì trồng lúa gạo cho dân ăn đỡ đói.
Ở Á Phi mỗi năm có đến hàng triệu trẻ em chết đói, trong khi đó ở Tây
phương người ta vẫn thản nhiên tiếp tục ăn chơi tiêu thụ làm như hai
bên không liên quan gì với nhau. Như vừa thấy ở trên, cuộc sống ăn chơi
tiêu thụ của Tây phương được xây dựng trên sự bóc lột mồ hôi nước mắt
của dân nghèo Á Phi, như vậy làm sao có thể nói là không liên quan đến
nhau. Thầy Nhất Hạnh có nói trong quyển Tương Lai Văn Hóa Việt Nam: "Nếu
Tây phương bớt ăn thịt và uống rượu lại 50% thì hàng chục triệu trẻ em Á
Phi sẽ khỏi phải chết đói mỗi năm... Hạt lúa thay vì dùng để nuôi trâu
bò gà vịt và để nấu rượu thì có thể đem đi cứu đói tại các nước này."
Các nước Á Phi vẫn không ngớt cầu cứu Tây phương viện trợ để phát
triển kỹ nghệ, họ cho rằng sự nghèo đói của họ là do chậm tiến mà ra,
nhưng họ không hay rằng "phát triển kỹ nghệ" theo lối Tây phương ngày
ngay đồng nghĩa với "khai thác môi sinh". Bao nhiêu tài nguyên (tức là
tặng phẩm của Mẹ Ðất) như dầu hỏa, than, sắt, đồng, chì, v.v... đều đang
cạn dần vì sự khai thác quá lố. Tại sao như vậy ? Ðó chẳng qua là để
thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ (nói gọn hơn là lòng tham) của dân giàu có, dư
ăn dư mặc.
Một điển hình cụ thể và rõ ràng nhất của sự tiêu thụ phí phạm vô lý
đó là kỹ nghệ xe hơi. Các nước Tây phương đua nhau sản xuất xe hơi, ngày
càng tối tân hơn, chạy nhanh hơn (có thể chạy trung bình từ 200 đến 300
cây số giờ) trong khi đó thì luật lưu thông như ở Pháp cấm không cho
chạy quá 60 cây cố giờ trong thành phố hoặc 140 cây số giờ trên xa lộ.
Thử hỏi chế tạo xe hơi như thế có ích lợi gì, nếu không là để dân chúng
chạy quá tốc độ, vi phạm luật lưu thông hoặc gây ra tai nạn. Ở Pháp mỗi
năm có đến hàng ngàn người chết vì tai nạn xe cộ. Ðó là chúng ta chưa kể
đến giá "sinh môi", tức là ảnh hưởng của sự khai thác môi sinh để tạo
ra một chiếc xe hơi.
Muốn chế tạo xe hơi, trước tiên cần phải có
kim khí như sắt, nhôm, kẽm, đồng, chì, v.v... và như vậy thì phải khai
quật các mỏ kim khí, nấu chảy, đúc nguội; tiếp theo cần đến các chất
nhựa, cao su và thủy tinh, tức là phải khai thác các mỏ nhiên thạch; sau
đó phải chuyên chở tất cả các thứ trên đến xưởng chế tạo. Các xưởng này
cần phải vận dụng nhiều năng lượng, do đó cần phải được kiến thiết rộng
lớn và trang bị máy móc tối tân. Cùng lúc chế tạo xe hơi, người ta phải
xây cất đường xá, xa lộ, tức là phải cần đến đá, sỏi, xi măng, dầu hắc,
v.v... và như vậy lại phải khai mỏ, giựt mìn, phá núi, lấp vá ruộng
đồng. Khi xe được chế tạo xong, đâu phải là chạy được ngay, cần phải có
xăng, dầu, nhớt, tức là phải khai thác các mỏ dầu hỏa, phải bơm, lọc,
chuyên chở.
Rất nhiều tàu chở dầu hỏa thường gặp tai nạn làm đổ
dầu lai láng biển cả. Kỹ nghệ dầu hỏa tống khứ rất nhiều khí độc và làm ô
nhiễm môi sinh nhiều nhất trong số các loại kỹ nghệ. Từ đầu đến cuối,
cứ mỗi giai đoạn là mỗi khai thác và làm ô nhiễm môi trường sinh sống
thiên nhiên. Ðến đây chưa phải là hết, mỗi lần xe chạy, nó nhả nhiều
khói độc có hại cho sức khỏe con người và cỏ cây. Sau cùng khi xe cũ
mòn, không chạy được nữa, người ta tìm cách phế thải và như vậy lại làm ô
nhiễm môi sinh lần nữa.
Trên đây chỉ là một thí dụ nhỏ nói lên sự phí phạm tài nguyên gây ra
bởi xã hội tiêu thụ Tây phương. Tiêu thụ nhiều bao nhiêu thì tài nguyên
cạn dần bấy nhiêu, lúc đó phải tính đến chuyện nhòm ngó nước khác và như
vậy gây ra tranh dành giữa các cường quốc, hoặc chiến tranh xâm lược
các nước nhược tiểu. Trên thế giới hiện nay, với số lượng vũ khí dư đủ
để làm nổ tung 20 lần quả đất, người ta vẫn tiếp tục chế tạo những thứ
độc địa hơn, dù đó là vũ khí hóa học, nguyên tử hay hạt nhân. Mặc dầu
giữa hai cường quốc Nga Sô và Hoa Kỳ, sự kình chống nhau đã nhường chỗ
cho sự thỏa hợp bắt tay nhau để giải tỏa bớt các hỏa tiễn, vũ khí nguyên
tử, nhưng không phải vì thế mà vũ lực nguyên tử giảm dần.
Các
nước chậm tiến vẫn đang hăng say trang bị vũ khí nguyên tử như Do Thái,
Nam Phi, Ấn Ðộ, Pakistan và Irak. Một số đông các nước khác, vì nghèo
hơn, cũng cố gắng trang bị vũ khí hóa học mà họ mệnh danh là "bom nguyên
tử của nước nghèo". Viện cớ rằng các nước nhược tiểu vẫn tiếp tục chế
tạo vũ khí nguyên tử nên các nước tiến bộ Tây phương không chịu giảm vũ
lực của mình, ngược lại họ nhân cơ hội này để bán vũ khí cho các nước
chậm tiến khác. Với sự thỏa hợp hai khối Ðông Tây hiện nay, có thể các
dàn hỏa tiển Âu châu sẽ không còn chĩa mũi về phương Ðông nữa mà sẽ quay
90 độ để chĩa về phương Nam.
Ðến năm 2000, sự sản xuất dầu hỏa của
Hoa Kỳ và Anh quốc sẽ không còn đáng kể và cùng lúc các quốc gia thuộc
vịnh Ba Tư (Golf Persique) sẽ chiếm phần quản lý tiếp vận dầu hỏa cho
thế giới. Nếu lúc đó các nước này dở chứng không chịu bán dầu hỏa hoặc
làm khó dễ tăng giá quá mức thì sao ? Các nước kỹ nghệ Tây phương có
chịu để yên không hay là sẽ sẵn sàng dùng vũ lực uy hiếp ? Với đà trang
bị và chế tạo vũ khí hiện nay ở vùng Trung Ðông liệu các nước Hồi giáo
này có chịu thua kém không ? Trong tương lai vùng Trung Ðông sẽ là mối
đe dọa lớn nhất cho nền hòa bình thế giới.
Tóm lại nếu con người cứ tiếp tục tiêu thụ quá mức, khai thác và tàn
hoại môi sinh thì không biết xã hội tân thời này sẽ sống còn trong vài
thế kỷ tới hay không ? Hay là sẽ bị tiêu diệt bởi sự bùng nổ của chiến
tranh nguyên tử. Hoặc giả nếu không chết vì chiến tranh thì cũng chết vì
đói, vì thiên tai, hạn hán, bảo lụt và bệnh dịch.
2/ Gương xưa châu Ðại Dương
Cách đây khoảng hơn 12.000 năm về trước, trên trái đất có một châu
tên là châu Ðại Dương (Atlantide). Người ở đây rất thông minh, nền văn
minh của họ tiến bộ gấp trăm hay ngàn lần nền văn minh khoa học của
chúng ta hiện nay. Họ đã chế biến những dụng cụ rất tối tân, có thể làm
đảo lộn thời tiết như biến mùa Ðông ra mùa Hè, có thể vận dụng ý tưởng
để di chuyển đồ vật, v.v... Tuy nhiên sự tiến bộ khoa học mà không đi
đôi với đạo đức thì dễ gây ra thảm họa. Một số người gian ác đã lợi dụng
khoa học để gây phe đảng và củng cố quyền lợi cá nhân. Từ đó xảy ra
chiến tranh giữa các bè phái, họ đem ra những vũ khí rất ư là tối tân và
độc địa để tàn sát lẫn nhau, và cùng lúc họ cũng vô tình hủy hoại vùng
đất nơi họ đang ở.
Một số các hiền giả đạo đức thấy rõ nguy cơ
diệt chủng sắp đến, nên họ đã tìm cách di cư lánh nạn. Một số di cư sang
châu Âu và lập nghiệp ở Ai Cập (Egypte), nơi đây có những Kim Tự Tháp
được xây trước đây trên 6000 năm, đó là những vết tích văn minh của
nhiều thế hệ con cháu giống dân Ðại Dương (Atlantes), một số khác di cư
sang chây Mỹ và họ là sơ tổ của các giống dân Mayas, Incas. Ở miền nam
Mỹ châu cũng có những Kim Tự Tháp tương tợ như ở Ai Cập, với vài nét
kiến trúc hơi khác.
Các nhà tiên tri Atlantes đã đoán đúng, sau cùng châu Ðại Dương đã bị
một trận Ðại Hồng Thủy, tức đã bị những trận thiên lôi địa chấn và chìm
xuống đáy biển. Nơi đây sau này trở thành biển Ðại Tây Dương (Océan
Atlantique) ngăn cách châu Âu và châu Mỹ.
Sự tích của châu Ðại Dương được đa số xem là một huyền thoại, nhưng
vẫn có một số ít các nhà khoa học khảo cổ tin chắc sự hiện hữu của châu
này. Ở đời đâu phải chỉ có những gì mắt thấy tai nghe mới là thật có, có
rất nhiều điều tai trần mắt thịt của chúng ta không nghe không thấy mà
chúng vẫn hiện hữu. Thí dụ điển hình như Kim Tự Tháp Ai Cập, đến nay vẫn
chưa ai hiểu nổi làm sao cách đây 6000 năm, con người đã có thể khiêng
và chồng lên nhau gần 2 triệu tảng đá, với mỗi tảng nặng khoảng 2 tấn.
Hiện nay nhân loại đang đi vào con đường diệt vong cũ của châu Ðại
Dương mà không hay biết. Ở đời đã có biết bao nhiêu cuộc bể dâu, trước
kia là biển nay thành đồng hoang, trước kia là núi nay thành biển cả.
Mặt mũi của Trái Ðất cũng thay đổi như mặt mũi của chúng ta. Khi vui mặt
đẹp, khi buồn sầu đau. Khi con người biết sống trong thương yêu, hòa
thuận với nhau thì mặt đất cũng xinh tươi, lúa mạ phì nhiêu, nhà nhà ấm
no hạnh phúc. Khi con người thâm hiểm, gian ác, ích kỷ, chỉ gây đau khổ
cho nhau thì mặt Trái Ðất cũng nhăn nhó, động đất, thiên tai, bão lụt,
nhà nhà đói khổ, than oán.
--------------------------------------------------------------------------------
Xin cứu độ Mẹ Ðất
Có ý thức được tính cách đồng sinh cộng tử của mọi loài và tình trạng
bi đát của Trái Ðất đang bị tàn hoại thì mới nghĩ đến chuyện cứu độ
Trái Ðất. Còn nếu cứ tiếp tục sống tham lam ích kỷ chỉ lo hưởng thụ cá
nhân thì việc cứu độ Trái Ðất sẽ trở thành một việc lo sợ viễn vông.
1/ Phật pháp bất ly thế gian pháp
Từ đầu sách đến đây, bạn đọc có thể tự hỏi sao mãi chưa thấy nói gì
đến giáo lý đạo Phật. Xin nhắc bạn một điều : "Phật pháp bất ly thế gian
pháp". Nếu tách rời các pháp thế gian ra thì không thể có Phật pháp.
Ðức Phật xưa kia cũng phải ăn, mặc, đi, đứng, ngủ, nghỉ... Giáo lý của
Phật không nói chuyện trên trời dưới biển hay những chuyện siêu hình mà
nói về những chuyện rất thực tế như sinh, già, bệnh, chết. Vả lại cuộc
tầm đạo của thái tử Tất Ðạt Ða (Siddhartha) phải chăng đã bắt nguồn từ
sự nhận thức thực tại khi ngài dạo chơi qua bốn cửa thành ? Có thấy khổ
mới tìm cách cứu khổ. Nhận thức được thực tại khổ đau là cửa vào đầu
tiên của đạo Phật. Cũng vậy, vấn đề nhận thức về hiện trạng tàn hoại của
Trái Ðất là vấn đề chính yếu cần phải được nhấn mạnh trước khi nói đến
việc cứu độ Trái Ðất. Dù có là Phật tử đi nữa, bạn đọc cũng không nên để
giáo lý hay những danh từ Phật học quản thúc và hạn cuộc mình. Bạn đọc
hãy tập nhìn thẳng vào thực tại bằng con mắt quán chiếu của thương yêu
và hiểu biết.
Trong thế gian có rất nhiều người thực hành Bồ Tát đạo mà không mang
danh Bồ Tát hoặc không hề hay biết gì về đạo Phật. Ðó là những người hy
sinh thân mạng, tài sức của mình để cứu giúp kẻ khác. Thí dụ như Mẹ
Térésa (người lãnh giải Nobel Hòa Bình năm 1979), suốt đời cứu giúp
người cùi, các hội từ thiện nhân đạo như Hội Bác Sĩ Không Biên Giới
(Médecins sans frontières), Hội Bác Sĩ của Ðịa Cầu (Médecins du Monde),
Hội Hồng Thập Tự (Croix Rouge), v.v... Họ lăn xả vào các vùng khói lửa
chiến tranh để cứu cấp, chữa trị dân lành bị tàn sát bởi hai phe thù
nghịch. Các nhà bảo vệ môi sinh (écologistes) đứng ra lớn tiếng hô hào
phản đối sự lạm dụng bành trướng kỹ nghệ nguyên tử. Việc làm của họ hình
như không dính líu gì đến Phật pháp cả, nhưng đứng trên tinh thần của
đạo Phật thì chúng ta có thể xem họ như những vị Bồ Tát, vì họ đang ra
tay cứu độ Trái Ðất.
Cứu độ Trái Ðất là việc chung của tất cả mọi người, mọi dân tộc, mọi
quốc gia trên thế giới chứ không phải của riêng một nhóm người nào.
Riêng hàng Phật tử, chúng ta lại càng phải ý thức và ra tay ngay từ bây
giờ, vì chúng ta đã nguyện theo gương Ðức Phật, sống từ bi hỷ xả, ban
vui cứu khổ mọi loài, chẳng lẽ chúng ta lại thờ ơ mặc cho Mẹ Ðất bị tàn
hoại để rồi những thế hệ con em của chúng ta sau này sẽ lâm vào cảnh đói
khát, hạn hán, thiên tai, bão lụt và chiến tranh ? Trong các thời kinh
nhật tụng, chúng ta vẫn thường nguyện cứu độ tất cả chúng sinh, đây là
một điều nguyện cao thượng rất tốt. Nguyện có nghĩa là tự hứa với mình,
là điều căn bản đầu tiên của sự tu hành, nhưng sau đó phải tập bước sang
phần thực hành thì lời nguyện đó mới có thể thành tựu được. Cứu độ Trái
Ðất cũng nằm trong phần cứu độ chúng sinh vì nếu Trái Ðất bị tàn phá
hoại diệt thì chúng sinh cũng theo đó mà chết dần, chết mòn.
Các nhà bảo vệ môi sinh trên thế giới có đưa ra rất nhiều giải pháp
để cứu vãn tình hình như : hạn chế sự khai thác tài nguyên; tái thiết và
sửa sang các môi trường đã bị tàn phá; phế bỏ dần những sinh hoạt gây
tổn hại thiên nhiên và cùng lúc khuyến khích các kỹ thuật sản xuất biết
nể thương Trái Ðất; chuyển hóa dần xã hội tiêu thụ phung phí về một xã
hội biết tiết kiệm nguyên liệu hữu hạn và giảm thiểu sự phế thải để bớt ô
nhiễm môi sinh, v.v... Tất cả những dự án này đều hay và đúng cả, nhưng
nếu nhìn kỹ một chút, ta sẽ thấy nó vẫn chưa nhằm giải quyết tận gốc
vấn đề. Nguyên nhân hay thủ phạm của sự tàn phá, nhiễm ô môi sinh chính
là con người chứ không phải là khoa học hay kỹ thuật. Hẳn bạn đọc còn
nhớ thuyết nhân duyên của đạo Phật, cái này có vì cái kia có, cái này
sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Có nhiễm ô bên ngoài
vì có nhiễm ô bên trong. Bên ngoài ở đây tức là môi trường sinh sống
thiên nhiên và bên trong chính là con người. Trong con người thì tâm làm
chủ của mọi hành động tạo tác. Nếu tâm bị nhiễm ô bởi tham lam, sân
hận, u mê, ích kỷ thì đương nhiên con người sẽ hành động ô nhiễm và như
vậy thì môi sinh lãnh đủ. Do đó nếu chúng ta muốn thanh tịnh hóa thiên
nhiên thì phải thanh tịnh hóa thân tâm của mình trước hết.
Muốn cứu độ Mẹ Ðất, chúng ta không cần phải Cầu An hay Cầu Siêu nhiều
cho Mẹ Ðất mà hãy tập sống đời tỉnh thức, tu tập chánh niệm, sống đời
thiểu dục, nuôi dưỡng đức hiếu sinh. Cuộc sống của chúng ta liên quan
ảnh hưởng đến sự sống của mọi loài và ngược lại cũng vậy. Ðây chính là
lý "trùng trùng duyên khởi" của kinh Hoa Nghiêm. Cũng may là nhờ có sự
tương quan tương duyên như thế mà chúng ta mới mong thanh tịnh hóa được
môi sinh.
2/ Sống đời tỉnh thức
Sống đời tỉnh thức tức là ngược lại với sống đời lãng quên, sống say
chết ngủ. Sống mà không làm chủ được mình để cho sự đam mê vật chất lôi
cuốn đi như kẻ say, ăn chơi tiêu thụ, thỏa mãn dục lạc để rồi cuối ngày
lăn ra ngủ như một người chết. Sống tỉnh thức tức là ý thức được sự sống
của mình và của mọi loài, ý thức được sự mầu nhiệm và quý báu của sự
sống, ý thức được những gì đanh xảy ra nơi mình và chung quanh mình. Thí
dụ khi cắn một miếng bánh mì, ta ý thức được sự tàn sát hàng tỷ côn
trùng, sâu bọ của người nông dân khi trồng lúa; khi cầm trong tay một
bát cơm dẻo thơm, ta ý thức được sự may mắn của mình và cùng lúc thấy
được công phu lao tác, cầy sâu cuốc bẫm của hàng triệu dân nghèo đói Á
Phi; khi uống một tách trà thơm, ta biết trà này từ đâu đến, đã có rất
nhiều đất đai mầu mỡ, thay vì được dùng để trồng lúa gạo, thực phẩm, đã
bị đem đi trồng trà hay cà phê để xuất cảng, trong khi đó mỗi năm có đến
hàng chục triệu người chết đói; mỗi khi cầm trong tay một tờ báo, ta ý
thức được đã có không biết bao nhiêu rừng cây bị đốn phá để làm bột
giấy; mỗi khi lên xe rồ máy, ta biết được ảnh hưởng của sự di chuyển của
ta trên bầu khí quyển v.v...
Từ lâu chúng ta đã quen sống một cách hối hả, phóng túng, bên ngoài
thì chạy theo vật chất, danh lợi, bên trong thì chạy theo quá khứ, tương
lai, sống với những ảo tưởng và phiền não, vì thế nên khó có thể một
sớm một chiều mà trở về cuộc đời tỉnh thức. Muốn sống tỉnh thức chúng ta
phải tu tập chánh niệm, tức là đưa tâm trở về giờ phút hiện tại, ý thức
được nh"ng gì đang xảy ra trong và ngoài thân : đang ăn biết mình đang
ăn, đang đi biết mình đang đi, v.v... Trong đạo Phật có một pháp môn rất
hay để tu tập chánh niệm đó là pháp Thiền Tứ Niệm Xứ (Satipatthana).
Nhờ có chánh niệm tỉnh thức, chúng ta mới có thể nhìn sâu vào lòng thực
tại (danh từ đạo Phật gọi là quán chiếu) thấy được mối liên quan giữa ta
và vạn vật. Thấy và hiểu được như vậy chúng ta sẽ không dám tàn sát
sinh vật và tiêu thụ thả cửa nữa mà ngược lại sẽ biết xót thương mọi
loài và muốn sống đời thiểu dục.
3/ Ðức Hiếu sinh và Tình Thương Nhân Loại
Hiếu sinh là quý trọng và bảo vệ sự sống. Chúng ta tham sinh úy tử
bao nhiêu thì các loài khác cũng ham sống sợ chết bấy nhiêu. Hơn nữa sau
khi thấy được tính cách đồng sinh cộng tử của mọi loài làm sao chúng ta
có thể điềm nhiên tước đoạt sự sống của loài khác ? Ðức Hiếu sinh là
một đức lớn nhất của đạo làm người. Phật tử ăn chay cũng chính là để thể
hiện đức này. Ngoài việc ăn chay tránh sát sinh, chúng ta cũng cần tham
gia tích cực "chống lại tất cả những gì đe dọa sự sống và đe dọa tàn
phá môi trường của sự sống : chiến tranh, vũ khí nguyên tử, phóng xạ
nguyên tử, sự khai thác và xài phí không nương tay những nguyên liệu của
trái đất, sự chế tạo và tiêu thụ những hóa phẩm không thực sự cần
thiết" (Trích Tương Lai Văn Hóa Việt Nam).
Ngoài đức hiếu sinh, chúng ta cũng cần phát triển tình thương nhân
loại. Là con người, ai cũng cần tình thương để sống. Nếu không có tình
thương, con người sẽ khô héo, đau khổ mà chết. Tình thương cũng như một
thứ nước cam lồ vậy. Tình thương trong đạo Phật thường được biểu hiện
qua hình ảnh của Quan Thế Âm Bồ Tát. Ai cũng biết đây là một vị Bồ Tát
giàu lòng từ bi, đã phát nguyện cứu vớt những ai kêu khổ, bởi lý do đó
nên chúng ta thường niệm danh hiệu của Ngài. Khi niệm danh hiệu cũng có
hai cách : tiêu cực và tích cực. Cách niệm tiêu cực là người niệm chỉ
thấy mình là nạn nhân đau khổ của cuộc đời, của nghiệp báo, nên kêu gọi
tên Ngài cầu cứu. Nói một cách khác, người niệm kiểu này là người rất
cần tình thương. Cách niệm tích cực là người niệm ý thức được trong tâm
mình cũng có những đức tính từ bi của Quan Thế Âm, nhưng những đức tính
này không được phát triển. Do đó niệm Quan Thế Âm Bồ Tát là để nhớ lại
những đức tính này, tìm cách phát triển và thể hiện ra ngoài. Niệm danh
hiệu Quan Thế Âm là tìm cách trở thành Quan Thế Âm, tưới tẩm mình bằng
nước cam lồ của tình thương và chia xẻ cho người khác. Niệm càng nhiều
thì tình thương càng lớn, người mà có tình thương rộng lớn đối với mọi
loài, nếu không phải Bồ Tát thì là gì nữa ?
Chúng ta thấy, cũng cùng niệm danh hiệu như nhau, nhưng hiệu quả có
khác : Một đàng niệm mà vẫn mãi mãi làm chúng sanh nghèo đói tình
thương, một đàng niệm mà dần dần trở thành Bồ Tát giàu có tình thương
ban rải cho người khác. Vậy người Phật tử hãy cố gắng niệm danh hiệu
Phật hay Bồ Tát theo cách tích cực này.
Hiệu lực của tư tưởng hay tâm niệm quan trọng lắm. Trong Ðạo Phật có
nói rằng một niệm dung thông tam giới, hoặc TÂM dẫn đầu các Pháp, v.v...
Thiên đàng hay Ðịa ngục cũng đều do TÂM mà ra. Chiến tranh bùng nổ đâu
phải ngẫu nhiên mà có, nó bắt nguồn từ những tư tưởng, ý niệm chia rẽ,
hận thù, gian ác. Xã hội suy đồi, thoái hóa là do ảnh hưởng của những tư
tưởng ích kỷ, tham lam, trụy lạc. Chúng ta thường cho rằng tư tưởng hay
ý niệm không có hình tướng, nhưng đó chỉ vì mắt trần không trông thấy
mà thôi. Mắt trần không trông thấy được không khí, vi trùng hay vi khuẩn
nhưng phải chăng chúng không có? Phải cần những máy móc khoa học, kính
hiển vi mới thấy được. Những người tu có thiên nhãn hay tha tâm thông
đều có thể thấy được tâm niệm của kẻ khác.
Ngày nay khoa học đã có những máy đo làn sóng điện não
(électro-encéphalogramme) hoặc máy chụp hình hào quang của Kirlian (một
nhà khoa học Nga) có thể chụp được hào quang (aura) thể phách, thể vía,
và thể trí của con người. Thí dụ như một người đang có sự giận tức trong
tâm thì hình chụp cho thấy chung quanh người được bao phủ bởi một đám
mây màu đen, hoặc đỏ thẫm. Một người tu hành đạo đức thì có hào quang
màu vàng cam. Qua màu sắc và cường độ của hào quang, người ta có thể
đoán biết được tình trạng sức khỏe, tình cảm và tâm linh của đương sự.
Nếu 100 người gần nhau và cùng có những tâm niệm sân hận thì người có
thiên nhãn sẽ thấy đó là một đám mây khổng lồ màu đen đỏ thẩm. Có lẽ vì
thế mà xưa kia trong truyện Tây Du Ký, Tề Thiên Ðại Thánh thấy được từ
xa những nơi có yêu khí bốc lên ngùn ngụt ?
Ngày nay, nếu một phi hành gia có thiên nhãn, ở trong không gian mà
nhìn lại Trái Ðất thì sẽ thấy nó bị bao phủ bởi những đám mây đen, đỏ u
ám, màu của những tư tưởng tham lam, ích kỷ, u mê, hận thù ... Và như
vậy thì Trái Ðất sẽ phải chết, hoặc nếu muốn sống thì nó phải vùng vẫy
chuyển mình để thoát khỏi đám mây độc hại này. Một con chó mà trên người
nó có nhiều rận hay bọ chó bám vào hút máu thì nó sẽ, hoặc chết dần
chết mòn, hoặc vùng vẫy, dãy dụa để tìm cách hất tung những con rận ra
khỏi mình nó. Quả đất cũng sẽ như thế!
Ðể cứu vãn tình thế, hóa giải những đám mây hào quang u ám bao bọc
Trái Ðất, chúng ta hãy tập phóng ra những ý niệm lành, phát khởi thật
nhiều và thường xuyên những tư tưởng thương yêu, hiểu biết. Khi những tư
tưởng này thấm nhuần thân tâm ta rồi thì nó sẽ khởi ra hiện hình một
cách tự nhiên, không cần ai sai bảo, không cần ai biết tên để ý.
Ðể có một ý niệm khởi đầu, chúng ta có thể tập phát khởi thường xuyên trong ngày những ý niệm như sau :
Nguyện cho tất cả mọi loài đều được an vui hạnh phúc, chuyên tạo điều lành.
Nguyện cho tất cả đều thoát khỏi đau khổ, phiền não, ngưng tạo điều ác.
Nguyện cho tất cả đều có tâm hoan hỷ, thương yêu nhau, không oán ghét, hận thù.
Nguyện cho tất cả đều có tâm bình đẳng, không phân biệt chia rẽ người thân, kẻ thù.
Trên đây là bốn điều mà trong Phật giáo gọi là Tứ Vô Lượng Tâm, tức là bốn tâm niệm rộng lớn đem lại hạnh phúc cho muôn loài.
Có những vị tu sĩ, đạo sĩ thường ẩn tu hay ẩn mình nơi thâm sơn cùng
cốc. Bề ngoài họ có vẻ như lánh đời, không giúp ích gì cho thế gian,
nhưng ta nào có biết, ngày đêm họ không ngừng phóng ra những tư tưởng
thiện lành cho nhân loại. Nếu ta có trong tay máy đo điện từ trường,
hoặc máy chụp hào quang thì có lẽ ta sẽ thầm cảm ơn họ đã góp phần vào
sự cứu độ Trái Ðất, vào sự sống còn của nhân loại.
4/ Thiểu dục tri túc
Thiểu dục tri túc có nghĩa là ít ham muốn và biết dùng vừa đủ. Không
nên lầm thiểu dục với keo kiệt. Keo kiệt tức là ích kỷ, khư khư ôm lấy
tiền bạc không dám chi xài gì cả, không biết bố thí làm phước, không
biết giúp đỡ kẻ nghèo khó. Người keo kiệt là người ham muốn nhiều, ham
muốn tích trữ tiền bạc của cải cho cá nhân mình. Thiểu dục tri túc được
kể là điều giác ngộ thứ hai trong tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân
(Kinh Bát Ðại Nhân Giác). Người có trí hiểu rằng ham muốn nhiều là
nguyên nhân của khổ đau, bao nhiêu cực nhọc trong cuộc đời đều do ham
muốn mà ra. Người ít ham muốn thì không bị hoàn cảnh sai sử và nhờ đó
cảm thấy thân tâm được thư thái nhẹ nhàng. Người thiểu dục tri túc là
người biết sống tiết kiệm, không chi xài phung phí, thái quá. Trong Luật
Tạng có kể rằng, một ngày kia thầy Ananda đã có dịp cắt nghĩa cho Vua
Udena (Ưu Ðiền) cách dùng tiết kiệm một tấm áo cà sa. Khi thầy Tỳ Kheo
được cúng dường một tấm y cà sa mới thì tấm y cũ không bị vứt đi mà sẽ
được dùng làm khăn trải giường. Khi tấm khăn trải giường này cũ thì nó
sẽ được dùng làm khăn trải nệm. Khi khăn trải nệm cũ thì nó được dùng
làm chăn đắp ngủ. Khi chăn đắp ngủ cũ thì nó được dùng làm giẻ lau. Khi
giẻ lau này rách nát thì nó được trộn với đất sét để lấp vá sàn nhà hay
vách tường bị nứt lở, và như vậy không có gì bị phí phạm cả.
Người tiêu xài phung phí được ví như "kẻ ăn táo rừng". Có một người
muốn ăn táo bèn vào rừng hái táo. Ðến dưới chân cây táo, anh ta không
leo lên hái mà lại đứng rung cây làm tất cả táo trên cây đều rụng hết,
chín cũng như chưa chín. Sau đó anh ta chỉ nhặt lựa những trái đẹp ưa
thích còn bao nhiêu trái khác để lại mặc cho tất cả bị thối rữa. Hành
động này trước hết được xem là vô ý thức (không tỉnh thức), thứ hai là
phí phạm, chỉ cần vài ba quả mà làm rơi rụng thối rữa hàng chục quả, thứ
ba là bất nhân, không biết thương nghĩ đến kẻ khác đang thiếu ăn. Ða số
chúng ta trong đời sống hàng ngày đều có những hành động không khác gì
"kẻ ăn táo rừng" trên. Quần áo chỉ cần vài ba bộ là đủ mặc che thân, vậy
mà mua hết bộ này đến bộ kia rồi chất đống trong tủ, có khi cả năm
không đụng đến. Ăn thì nhất định đòi ăn thịt này cá nọ, cao lương mỹ vị,
trong khi đó thì rau cải, ngũ cốc cũng đủ chất dinh dưỡng để sống. Thay
vì có thể đi bộ được 100 thước, vừa làm thể dục vừa khỏe chân tốt máu
thì lại nhảy lên xe hơi rồ máy, vừa tốn xăng lại làm ô nhiễm không khí.
Chúng ta hãy tập làm chủ lấy mình, đừng để cho bích chương quảng cáo,
vô tuyến truyền hình hấp dẫn mê hoặc, chạy theo lối sống tiêu thụ, đua
đòi xa hoa của Âu Mỹ. Ðối với đồ dùng hư cũ cũng không nên phế thải bừa
bãi. Ở Việt Nam có mốt bán ve chai rất tốt mà ngày nay ở Tây phương họ
cũng làm tương tựa bằng cách đặt ở các đầu đường những thùng rác đặc
biệt chuyên thâu nhặt vỏ chai thủy tinh để nấu lọc dùng lại. Họ cũng
biết mua lại các sách báo cũ để xay ra và chế tạo thành giấy dùng trở
lại. Như vậy tránh khỏi phá rừng khai mỏ, làm kiệt quệ tài nguyên của
Trái Ðất.
Không ai cấm chúng ta tiêu thụ cả, nhưng hãy tiêu thụ một cách thông
minh và ý thức. Hãy xem gương loài ong bướm kia, chúng hút nhụy hoa để
sống mà không làm hại hoa, không tàn phá hoa, ngược lại chúng làm cho
hoa thêm vẻ đẹp. Nếu so sánh cách biết tiêu thụ thì chúng ta thua xa
loài ong bướm kia nhiều lắm. Chúng ta đã và đang tiếp tục hút nhựa sống
của Mẹ Ðất và tàn hoại Mẹ Ðất. Có thể vì mãi lo làm ăn sinh sống nên
chúng ta không hay biết hoặc không ý thức được việc Mẹ Ðất đang lâm
nguy, nhưng nay biết được thì chúng ta phải lo cứu độ Mẹ Ðất càng sớm
càng tốt, kẻo sau này có hối thì đã quá muộn.
5/ Thông điệp
Cứu độ Mẹ Ðất là một thông điệp quan trọng hiện nay trên thế giới mà
người Phật tử không thể không biết đến. Nhiều bậc tôn đức trong Phật
giáo từ lâu đã ý thức được tính cách đồng sinh cộng tử, tương quan tương
duyên của mọi loài nên đã lên tiếng cảnh tỉnh và nhắc nhở chúng ta,
nhưng thông điệp của các ngài, chúng ta vẫn chưa tiếp nhận được vì mải
mê theo vật chất, sống đời lãng quên.
Thiền sư Ajahn Pongsak trụ trì chùa Palad (Wat Palad) gần tỉnh Chiang
Mai vùng bắc Thái Lan, năm 1980 đã đích thân ra tay hướng dẫn dân làng
vùng Mae Soi tái thiết lại các khu rừng bị tàn phá và dẫn nước về làm
sống lại vùng đất khô cằn, mặc dù vùng Mae Soi đã bị chính phủ tịch thâu
và ra lệnh cấm không cho ai được quyền đụng tới. Ban đầu việc làm của
ngài gặp nhiều trở ngại, phản đối của nhà cầm quyền. Ngay cả một số đệ
tử cư sĩ của ngài, hiện nay có chức sắc trong chính phủ cũng làm ngơ
không giúp đỡ vì họ không hiểu được rằng sự tái thiết rừng cây chính là
Phật sự. Ðối với họ, Phật sự có nghĩa là xây chùa tháp và cúng dường chư
Tăng. Tuy vậy ngài vẫn kiên nhẫn tụ họp dân làng và giảng giải cho họ
rằng : " Ðối với người nông dân, rừng cây không những là căn nhà thứ
nhất (từ đó mới có gỗ để xây nhà ở) mà cũng là cha mẹ thứ hai. Ðất mầu
có thể trồng trọt được và cho ra hoa quả là nhờ nước, và nước ở đây
chính là do rừng cây cung cấp. Có rừng cây thì mới có thức ăn. Nếu ta
mang ơn cha mẹ đã sinh ra ta thì sao ta có thể quên ơn rừng cây nuôi
sống ta ? Một cái tâm không biết ơn rừng cây là một cái tâm thô tục,
không có giới pháp, và một cái tâm như thế làm sao có thể mong giác ngộ
được? " (Trích Buddhism and Ecology). Việc làm của ngài sau cùng cũng đã
thành công và được sự ủng hộ của trong và ngoài nước.
Ðức Dalai Lama, vị lãnh đạo quốc gia và Phật giáo Tây Tạng, người đã
lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình thế giới năm 1989, trong buổi diễn văn
tại Oslo nước Na Uy có nói : "Chúng ta biết rằng gây ra chiến tranh
nguyên tử ngày nay chính là một hình thức tự sát toàn thể; làm ô nhiễm
không khí hoặc biển cả, chỉ vì muốn kiếm một chút lợi tức phù du, chính
là tàn phá nền tảng của sự sống còn. Mỗi cá nhân và mỗi quốc gia đã trở
nên tương quan tương sinh một cách mật thiết đến nỗi chúng ta không có
cách nào khác hơn là phải tập sống với tinh thần trách nhiệm đại đồng".
Trong giới Phật Giáo Việt Nam thì có Thầy Nhất Hạnh, từ lâu trong các
tác phẩm của Thầy đã bàng bạc nhấn mạnh tính cách tương duyên tương
sinh của mọi loài, nhất là vấn đề bảo vệ môi sinh.
Riêng ở đây, trong khi viết tập sách này, tôi cốt hướng về hàng Phật
tử và gợi lên một vấn đề nhận thức liên quan đến lý duyên khởi của đạo
Phật qua vài ba tài liệu lượm lặt. Do đó chắc chắn có nhiều điều thiếu
xót và lỗi thời, không theo kịp với tin tức biến chuyển thời sự, rất
mong các bạn chuyên gia về môi sinh, kinh tế hay chính trị vui lòng miễn
thứ cho.
Nguyện sống đời tỉnh thức,
Ðể thấy rõ thực tại.
Nguyện tu tập chánh niệm,
Ðể lòng hết say mê.
Nguyện sống đời thiểu dục,
Cho Mẹ Ðất xinh tươi.
Nguyện nuôi đức hiếu sinh,
Cho muôn loài an lạc.
--------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo
Dharma No. 7 Institut Karma Ling, Hiver 1989-1980
Edward Golsmith, Nicolas Hildyard, Peter Bunyard, Patrick Mc Cully:
- 5000 jours pour sauver la planète - France Loisirs 1991
Martine Batchelor and Kerry Brown:
- Buddhism and Ecology. Cassell 1992
Le Monde Diplomatique, Avril 93
Science & Avenir, Hors-Série No. 61
Science & Vie No. 900, Septembre 1992
Thích Nhất Hạnh:
- Being Peace - Parallax 1987
- Tương Lai Văn Hóa Việt-Nam - Lá Bối 1982
- Từng bước nở Hoa Sen - Lá Bối 1985