Bất cứ ai quan tâm đến lịch
sử đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà
(Cunda) cúng dường, trong đó có món ăn sūkara-maddava như là nguyên nhân
dẫn đến cái chết của Ngài.
Theo Kinh Trung Bộ, trên đường đi về
hướng Câu Thi Na (Kushinagar), đức Phật và Tăng đoàn của Ngài dừng nghỉ
tại khu vườn xoài của nhà ông Thuần Đà ở làng Pava. Thuần Đà hay tin
liền đến ngay chỗ Thế Tôn đảnh lễ và nghe Ngài thuyết pháp. Sau khi nghe
pháp, Thuần Đà phát tâm cúng dường bậc Đạo Sư và Tăng đoàn bữa ăn trưa
ngày hôm sau tại nhà. Đức Thế Tôn im lặng nhận lời.
Sáng sớm hôm sau Thuần Đà sửa soạn các món ăn “loại cứng, loại mềm và nhiều thứ Sūkara-maddava” để dâng cúng vào thời ngọ trai. (Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sūkara-maddava là một loại mộc nhĩ)
Trong bữa ngọ trai hôm đó, sau khi an vị chỗ ngồi, đức Thế Tôn nói với Thuần Đà “hãy mang món mộc nhĩ đã soạn sẵn cho ta, còn những món ăn khác hãy dọn cho chúng Tỳ kheo”.
Chờ cho Thuần Đà dọn xong các món ăn, đức Thế Tôn bảo Thuần Đà đem chôn
món ăn mộc nhĩ còn lại, vì Ngài biết rằng không một ai có thể “tiêu hóa được” khi ăn món mộc nhĩ này.
Sau bữa ăn đó, bữa ăn cuối cùng, đức Thế
Tôn bị nhiễm bệnh trầm trọng và Ngài quyết định lên đường đi tiếp đến
Câu Thi Na, cách đó khoảng 15 cây số.
Kinh Đại Bát Niết Bàn trong Kinh Trường
Bộ của Tam Tạng kinh điển Pāli với bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh
Châu mà chúng tôi dẫn chiếu trên là nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất về
bữa ăn cuối cùng của Đức Phật (vào khoảng 483 trước Công nguyên). Trong
bản Việt dịch, Hòa thượng dùng chữ sūkara-maddava một lần và chuyển ngữ chữ này thành “món ăn mộc nhĩ” 6 lần trong suốt bản văn kinh. [01]
Song hành với Kinh Trường Bộ Pali là Kinh Trường A Hàm Sanskrit, Hòa
Thượng Thích Thiện Siêu dịch là “nấm chiên-đàn (chiên-đàn-thọ nhĩ)” và
ghi chú là “Chiên-đà ở đây nên hiểu là quý báu. Thức ăn này theo
chữ Pali là sūkara-maddavam, có nghĩa là một loại nấm hay rau mà loài
heo ưa thích”. [02]
Thật ra “sūkara-maddava”
là một thuật ngữ đã gây tranh luận từ rất lâu trong giới học giả Phật
Giáo, vì thế trong một số bản dịch Anh ngữ thuật ngữ này được để lại y
nguyên. Sūkara-maddava được phân làm hai từ: "sūkara " và "maddava".
Theo nhiều học giả Pali thì danh từ sūkara được dịch
là "lợn / heo rừng" mà tính từ maddava được dịch là "được ưa thích, mềm
mại, dịu dàng". Tuy nhiên, trong bài viết bằng Anh ngữ “How did the Buddha die?” Tiến sĩ Bình Anson, một học gỉa/hành giả Phật Giáo Nam Truyền thời nay cho biết:
“thuật ngữ sūkara -maddava
có nghĩa là (1) phần mềm của lợn hay heo rừng, (2) một loại mà giống
lợn/heo rừng thích ăn, được cho là một thứ nấm (mushroom) hay loại nấm
truffle, khoai lang hay tuber (LND: truffle là quả thể phát sinh từ nấm tuber mọc hoàn toàn dưới mặt đất). Trong một số bài bình luận khác, sūkara -maddava cũng được nhắc đến như là một loại "cây thuốc" (dược thảo) trong y học cổ Ấn Độ, hoặc là "măng non bị chà đạp bởi lợn".
Tất cả các nhà sư học giả ngày nay đều đồng ý với ý nghĩa của "nấm hoặc nấm truffle", và tôi đồng tình với họ. Theo các quy tắc của tu viện, các nhà sư không được phép ăn thịt từ động vật đặc biệt bị giết để làm thức ăn cho họ. Ý nghĩa của sūkara -maddava là "thịt lợn / thịt heo rừng " không thích hợp ở đây. "
(“sūkara -maddava
may mean: (1) the tender parts of a pig or boar,(2) what is enjoyed by
pigs or boars, which may be referred to a mushroom or truffle, or a yam
or tuber. In some other commentaries, sukara-maddava was also mentioned
as a "medicinal plant" in classic Indian medicine, or as "young bamboo
shoots trampled by pigs".
All the current scholar monks
agree with the meaning of "mushroom or truffle", and I concur with them.
According to the monastic rules, the monks are not allowed to eat meat
from animals specifically killed to make food for them. The meaning of
sukara-maddava as "pork/boar meat" is thus not appropriate here.”) [03]
Ngoài ra, trong lời nói đầu cho bản dịch
tiếng Đức Kinh Trung Bộ, Karl Eugen Neumann, một trong những học gỉa
Phật Giáo sớm nhất của Đức Quốc đã trích dẫn từ một bản tóm lược các cây
thuốc Ấn Độ thì có một vài cây thuốc bắt đầu với chữ sūkara và ông kết
luận sūkara –maddava có nghĩa là một món ăn ngon của heo, một loại nấm
truffles. [04]
Trong bản dịch từ tiếng Pali sang tiếng Anh, học giả Rhys Davids cũng đã dịch thuật ngữ sūkara –maddava là “truffles” [05].
Một học gỉa khác là Arthur Waley trong một luận án viết vào năm 1932 (("Did Buddha die of eating pork?") đã giải thích sūkara –maddava có ít nhất bốn nghĩa: (1) thức ăn mềm của heo (pig's soft-food), (2) món ăn ưa thích của lợn (pig's-delight), (3) thực phẩm, chà đạp bởi lợn (pig-pounded) và
ông liệt kê một số thực vật bắt đầu bắng chữ “pig” như sūkara -kanda
(pig-bulb), sūkara -paadika (pig's foot), sukaresh.ta (sought-out by
pigs). Và sau khi phân tích các chữ và nghĩa, ông cho rằng sūkara –maddava không có nghĩa là thịt heo mà chính là một loại thực phẩm mà heo ưa thích, một loại nấm truffles. Hơn
nữa, Waley chỉ ra loại thực vật này là do dân địa phương xứ Ma Kiệt Đà
(Maghada ) tức bang Bihar (Bắc Ấn) ngày nay đặt ra mà vùng Tây và Nam
Ấn, nơi Phật Giáo Pali hoàn toàn không biết nên đã hiểu lầm sūkara
–maddava là món ăn làm bằng thịt heo. [06].
Tưởng cũng nên biết rằng (1) Tại sao
Phật dặn Thuần Đà đừng dọn cho các vị Tăng khác món ăn nấm và phải chôn
phần còn dư của món này. Có phải Phật đã biết món ăn nấm đã bị nhiễm độc
là cơ duyên cuối để Phật Niết Bàn nên không cho chư tăng khác ăn? Cho
nên rất có thể đây là món ăn mộc nhĩ như Hòa Thượng Minh Châu dịch hay làmón ăn nấm như
đa số các học gỉa Phật Giáo thời nay đồng ý, vì loại nấm này, một loại
nấm chỉ mọc ngầm dưới đất có thể bị nhiễm độc và chỉ có heo rừng mới tìm
ra được mà thôi. (2) Một điều nữa cần biết thêm là vùng Pava, nơi cư
ngụ của ông Thuần Đà là trung tâm truyền giáo của Kỳ Na Giáo thời Phật
tại thế, một đạo giáo chủ trương triệt để ăn chay thuần, cấm sát sinh và
cấm uống rượu.[07]
Nói tóm lại, phần lớn các học giả Phật
giáo đều đồng ý với ý nghĩa của sūkara -maddava là "một loại nấm
truffle", chứ không thể là thịt lợn hay thịt heo rừng vì các nhà sư
không được phép ăn thịt từ động vật đặc biệt bị giết để làm thức ăn cho
họ. Điều này cũng dễ hiểu vì Thuần Đà là một vị cư sĩ Phật tử đã quy y
theo Phật, biết luật Phật, biết Đức Phật rất nhạy cảm đến nỗi khổ đau
của chúng sinh, ngay cả việc Ngài không dùng sữa của bò trong mười ngày
đầu khi bê con ra đời; nên ông không thể nào nỡ giết heo làm thịt cúng
dường Phật.
Đức Phật biết nhân duyên tịch diệt của
Ngài đã đến, lại thêm lòng từ bi muốn tạo phước đức cho Thuần Đà nên
Ngài quyết định dùng bữa ăn do Thuần Đà cúng dường, cho dù không dùng
bữa ăn ấy thì ngày giờ Niết Bàn của Đức Thế Tôn cũng được Ngài quyết
định từ ba tháng trước [08]. Để xóa tan nghi ngờ và niềm hối hận trong
lòng của cư sĩ Thuần Đà vì nghĩ rằng chính thức ăn mà mình dâng cúng làm
cho đức Thế Tôn Niết Bàn. Đức Phật bảo Ngài A Nan hãy đến trấn an tinh
thần Thuần Đà.
Tác giả: Tâm Diệu/Nguồn: www.thuvienhoasen.org
[01] Thích Minh Châu: Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trung Bộ Kinh, tụng phẩm IV từ đoạn 16 đến hết đoạn 20:
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-17992_5-50_6-1_17-71_14-1_15-1/kinh-dai-bat-niet-ban.html
[02] Thích Thiện Siêu: Kinh Trường A Hàm, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản năm 1986, trang 86.
[03] Bình Anson, How did the Buddha die www.budsas.org/ebud/ebsut006.htm)
[04] Karl Eugen Neumann, Preface to the Majjhima Nikaaya, p.xx.
[05] Dialogues of the Buddha, Vol. Ill
of Sacred Books of the Buddhists, ed. T.W. Rhys Davids (London: Oxford
Univ. Press, 1910), p. 137.
[06] Waley Arthur, Did Buddha die of eating pork? : with a note on Buddha's image: Melanges Chinois et bouddhiques vol 1931-1932 Juillet 1932 P.343-354
[07] Tự điển Bách Khoa Wikipedia. Pava
là thị trấn cổ Ấn Độ, nay là Fazilnagar, được biết với tên “Pawanagar”,
là trung tâm của đạo Kỳ Na và nơi giáo chủ Kỳ Na Giáo Lord Mahavir nhập
diệt.
[08]
Đức Phật đã quyết định Niết Bàn vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch
(vesakha) tức vào năm 483 trước Công nguyên. Sự việc này đã được ghi lại
trong kinh Ðại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna) và kinh Cunda.