Sa la là loài thân gỗ, danh pháp Shorea robusta, thuộc họ
dầu (Dipterocarpaceae), lá mọc so le, hình bầu dục, gân lá nổi rõ như
hình xương cá, búp nụ xoắn, hoa 5 cánh nhỏ hơi quăn, màu trắng, mọc
thành từng chùm ở đầu cành, có hương thơm ngát.
Cây “Sa la” mà khá nhiều người Việt hiện nay hiểu nhầm không phải là cây
Sāla (Sal tree), một loài cây ghi dấu nơi Đức Phật Thích Ca nhập diệt
trong rừng Sāla tại Câu Thi Na (Kusinārā), kinh đô của tiểu quốc Mallas,
Ấn Độ cổ đại.
Cây “Sa la” bị gọi sai chính là cây ngọc kỳ lân, đầu lân, hay hàm rồng,
tên khoa học là Couroupita guianensis, thuộc họ Lecythidaceae, chi lộc
vừng (Barringtonia), người Ấn cũng xem là một loài cây thiêng, được
trồng ở một số đền thờ Hindu giáo, nhưng họ gọi loài này là Nagakeshar,
hay Nagalingam. Người Trung Quốc và người Nhật đều gọi Sāla là Sa la
song thụ, song ít nhiều vẫn có nhầm lẫn, còn tiếng Thái Lan gọi là
“ดอกพะยอม”.
|
Hoa Sa La là một trong ba loài cây thiêng liên quan đến cuộc đời của Đức Phật
|
Kinh Đại bát Niết bàn miêu tả lúc Đức Phật nhập diệt như sau:
“Lúc đó, đúng giữa đêm, Đức Như Lai nằm trên giường thất bảo trong rừng
Sa la nhập tứ thiền yên lặng mà Niết bàn. Liền đó, bốn cặp cây Sa la:
cặp hướng đông, cặp hướng tây, bốn ngọn cây hợp lại thành một tàng, cặp
hướng nam, cặp hướng bắc, bốn ngọn cây hợp lại thành một tàng, che
giường thất bảo trùm lên thân Như Lai. Những cây Sa la đó, tất cả lá
biến thành sắc trắng như bạch hạc, nhánh lá, hoa trái và thân cây thảy
đều rụng rớt nứt nẻ, lần lần khô héo gãy rớt. Đồng thời, vô lượng thế
giới ở mười phương đều chấn động, vang ra tiếng rằng: “Khổ thay! Khổ
thay! Thế giới trống rỗng”. Lại vang ra tiếng buồn than diễn nói nghĩa
vô thường, khổ, không”.
Sa la là loài cây đã phủ hoa xuống trắng rừng để cúng dường kim thân Đức
Phật lần cuối cùng, kính tiếc giã biệt một bậc Thầy của trời và người.
Những cánh hoa trắng bay khắp rừng như cùng diễn nói nghĩa của các pháp
vô thường, khổ, không.
Không còn thấy: “Vào mỗi buổi sáng sớm, Người mặc trang phục, khoác áo
cà sa, cầm bình bát đi vào thành khất thực. Khi trở về, thọ trai xong,
Người tự tay xếp dọn y bát, rửa chân và ngồi lên chiếc bồ đoàn, hai chân
xếp chéo, thân ngay thẳng, mắt chăm chú nhìn về phía trước…”.
Nhưng hình ảnh Đức Như Lai cầm bình bát với đôi chân trần bước đi trong
nắng mai ấm áp, gương mặt an lạc rạng ngời, trên đầu là bóng mây lành
che phủ, chung quanh là cỏ cây hoa lá, thú rừng và những tiếng chim hót
líu lo, cùng tỏa ra những năng lượng an lành, ấm áp yêu thương, diễn nói
sinh động bốn đức lớn Từ, Bi, Hỷ, Xả. Tất cả những hình ảnh giản dị,
thanh khiết đó đã in đậm trong tâm trí biết bao thế hệ Phật tử.
Để vào năm 250 trước Tây lịch, vị hoàng đế nhân từ Asoka, người đã dựng
lên khắp mọi nơi trên đất nước Ấn Độ hai loại nhà thương cho người và
cho súc vật, khi đến đảnh lễ cúng dường nơi Đức Phật Thích Ca nhập diệt,
đã không kìm được nước mắt từ sâu thẳm lòng mình, khóc ngất đi trong
tiếng rì rào của gió rừng Sa la và sự trầm mặc của những ngôi tháp cổ.
Đức Phật đã chọn rừng cây Sa la để nhập diệt, bởi đó cũng là nơi mà bảy
lần trong tiền kiếp Người đã nhập diệt. Và trong vô tận của chân thường,
chân lạc, chân ngã và chân tịnh, vẫn còn đó sắc trắng của những đoá Sa
la tán xuống…, Người cũng như hoa vẫn thường tại thế!