Cho nên có thể nói lịch sử của Phật giáo Việt Nam gắn liền
với lịch sử dân tộc Việt Nam như nước hòa với sữa. Điều này hiển nhiên
như ánh mặt trời mặt trăng, không ai có thể phủ nhận được.
Có mặt và luân chuyển theo dòng thời gian ấy, biết bao triều đại quân
vương nối tiếp nhau nắm giữ vận mệnh quốc gia, để cho hồn nước muôn thuở
vẫn thiêng liêng trong lòng dân tộc. Có triều đại ngắn ngủi, nhưng cũng
có những triều đại thọ mệnh dài lâu, uy quang rạng rỡ, hào khí ngất
trời, điểm lên trang sử Việt những nét son rực rỡ, mãi mãi không phai
mờ. Trong đó, chói tỏa nhất có thể nói là hai triều đại Lý và Trần.
Lý Thái Tổ là một ông vua Phật tử, nổi tiếng thuần hậu nhân đức, nhờ
phúc ấm ấy mà vương triều nhà Lý kéo dài trên 200 năm. Lịch sử Việt Nam
đã ghi chép rất rõ về Lý triều Thái Tổ, nhà vua hội ngộ với đạo Phật như
một nhân duyên đã định. Để từ ấy Phật giáo trở thành nguồn sống tinh
thần không thể thiếu của triều đại nhà Lý, và vì thế hơi thở của thiền
sư cũng chính là hơi thở của nhà vua. Luân lý đạo đức của Phật giáo cũng
chính là nền tảng luân lý đạo đức mà các vua triều Lý đã đưa vào sách
lược trị nước an dân trong suốt hơn 200 năm tại vị.
Sinh ra và lớn lên tại chùa Lục Tổ làng Cổ Pháp, Lý Thái Tổ được các
thiền sư nhận làm con nuôi, trực tiếp giáo huấn, nên mặc nhiên trở thành
con Phật thuở mới nằm nôi. Sư Vạn Hạnh nhìn thấy ở ông từ lúc trẻ thơ,
“đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên át có thể giải nguy
gở rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ”. Xung quanh việc lên ngôi của
Lý Công Uẩn cũng phủ đầy những huyền thoại, sấm ký. Tất cả sự kiện ấy
đều được Thiền sư Vạn Hạnh giải thích là điềm báo nhà Lý sẽ thay thế nhà
Lê. Qua đó cho thấy vai trò của Thiền sư Vạn Hạnh và Phật giáo trong
cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi vua là điều không thể phủ nhận.
Lý Công Uẩn thông minh có chí lớn khác thường. Ông đến kinh đô hoa Lư
làm quan nhà tiền Lê, do tài năng và đức độ nên được phong đến chức Điện
tiền chỉ huy sứ, còn gọi là quan Thân Vệ. Đến đời vua Lê ngọa triều,
nhà tiền Lê đi vào con đường suy thoái, Lê ngọa triều hoang dâm vô độ,
quan lại tham ô, dân chúng lầm than thống khổ. Và như một quy luật tất
yếu, khi đất nước rên xiết, toàn dân uất ức thì mệnh lệnh lịch sử lên
tiếng, ra lệnh thay ngôi đổi chủ. Đây chính là nguyên nhân để đưa Lý
Công Uẩn lên ngôi vua vào ngày 22 tháng 11 năm Kỷ Dậu tức ngày
21-11-1009 tại kinh đô Hoa Lư.
Ngay sau khi lên ngôi, Thái Tổ đã nghĩ phải chọn cho đất nước một kinh
đô xứng đáng. Có thể nói, đây là tầm nhìn thong suốt và chiến lược nhất
của vua, để 1.000 năm sau Việt Nam có được một Thăng Long – Hà Nội bước
vào tuổi thiên niên, rực rỡ hương sắc thanh tân mà vẫn phưởng phất cái
bản sắc cố đô thuở xa xưa. Kinh đô Hoa Lư dưới triều Đinh và Tiền Lê
chật hẹp, giao thông không thuận lợi, chưa xứng đáng là nơi hội tụ của
quốc gia nên vua Lý quyết định dời đô ra đất Đại La.
Đại La là một thành lũy lớn, dân cư đông, tương lai sẽ là một trung tâm
kinh tế đầy triển vọng. Đại La lại có núi Tản Viên, tam Đảo án ngự tạo
thành đất đế vương theo quan điểm phong thủy. Vị trí, điều kiện tự nhiên
và tiến trình lịch sử đã cho thấy Đại La hoàn thiện nhất để đóng vai
trò kinh đô của đất nước thời kỳ phục hưng. Cống hiến lớn lao của vua Lý
Thái Tổ là nhận thức được điều đó, tự tin ở sức mạnh của toàn dân và đi
đến quyết đoán lịch sử. Những ý tưởng và suy tính của nhà vua được
trình bày ngắn gọn trong văn kiện Chiếu dời đô, cho thấy tầm nhìn xa
rộng, thâm thúy và có tính chiến lược của nhà vua lúc bấy giờ, mà chắc
hẳn trong đó có sự đóng góp của Thiền sư Vạn Hạnh.
Bài “Chiếu dời đô”, tự tay nhà vua viết được xem là một văn kiện lịch sử
danh bất hư truyền, đồng thời có giá trị văn chương kiệt xuất. Chiếu
viết:
“Ngày xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành
Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng, tự
dời đô xằng bậy đâu.Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa,
làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân,
nếu có chỗ tiện thì dời đổi cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu
thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời,
không noi theo việc cũ Thương, Chu cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nội
thế đạo không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vận không
hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao vương, ở giữa khu vực trời đất,
được thế rồng cuộn, hổ ngồi, chính giữa Nam, Bắc, Đông, Tây tiện nghi
núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng và bằng phẳng, thế đất cao mà
sáng sủa, dân cư không khổ vì thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi
tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ
hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô khinh sư mãi muôn
đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”
Câu hỏi sau cùng của nhà vua đã chứng tỏ Lý Thái Tổ là bậc minh quân
nhân đức, khiêm tốn, biết tôn trọng ý kiến của thần dân, tuy là mình
rồng trên ngôi cữu trùng nhưng không tự mãn kêu hãnh, mà biết cúi xuống
lắng nghe kẻ bề tôi. Quần thần nghe thế, ai mà chẳng đồng thuận vâng
theo? Cho nên tả hữu đều thưa: “Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên
cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc
giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo”. Vua cả mừng. (Đại Việt
sử ký toàn thư).
Sử ghi lại khi thuyền ngự đến Đại La thì có rồng vàng xuất hiện. Rồng
bay lên và kinh đô Đại Việt được nhà vua đặt tên là Thăng Long. Lý Thái
Tổ quả thật là vị minh quân, là nhà tổ chức vĩ đại của triều Lý, một
hoàng đế văn võ song toàn, thân chinh dẹp loạn, đánh đâu thắng đó. Đối
với nhân dân, Thái Tổ hết lòng vì dân, được chính sử đánh giá là “khoan
thứ, nhân từ, tinh tế, hòa nhã, có lượng đế vương”. Âu cũng là nhờ ảnh
hưởng tinh thần Phật giáo vậy. Các vua nhà Lý được đào tạo và chuẩn bị
lên ngôi đều theo tinh thần đó.
Như đã nói, nhà vua có nhân duyên đối với đạo Phật, là con của Phật nên
một lòng quy ngưỡng Tam bảo. Để tưởng nhớ lại công đức nuôi dưỡng và
huấn dục của thầy tổ, Thái Tổ xây dựng rất nhiều chùa trong nước, cho
người sang Trung Quốc thỉnh kinh. Có thể nói trong thời nhà Lý, Phật
giáo giữ vai trò tham mưu trong hệ tư tưởng và đời sống tinh thần của xã
hội. Hai thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông tiếp tục phát
triển, thêm thiền phái mới là Thiền phái Thảo Đường. Các vua Lý và nhiều
quý tộc, thân vương đều tôn sùng đạo Phật, bỏ tiền của xây dựng chùa
khắp nơi, cúng ruộng cho chùa. Nhà chùa trở thành trung tâm văn hóa
chính trị trong xã hội, nhiều chùa có đến hàng trăm, hàng ngàn tăng Ni.
Phật giáo thời Lý phát triển trong sự gắn bó với lợi ích và vận mạng dân
tộc.
Một số vua tu Phật như Lý Thái Tông thuộc thế hệ thứ bảy của phái Vô
Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông thuộc thế hệ thứ nhất, Lý Anh Tông thuộc
thế hệ thứ ba, Lý Cao Tông thế hệ thứ năm của phái Thảo Đường. trong
triều đình, bên cạnh các quan chức văn võ, nhà lý vẫn duy trì quan chức
Phật giáo thời Đinh, tiền Lê, đứng đầu là Tăng thống, Tăng lục. Những
nhà sư có tài năng và uy tín được nhà vua phong làm Quốc sư như Quốc sư
Viên Thông (1080 -1151), Quốc sư Thông Biện (?-1134).
Về phương diện văn hóa, Thăng Long trở thành trung tâm hội tụ và đào
nhân tài của cả nước. Đế đô của triều Lý với nhiều hoàng đế tài đức như
Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, nhiều tướng soái
kiệt xuất mà tiêu biểu là thái úy Lý Thường Kiệt. Đây cũng là nơi có
trường Quốc Tử Giám được xây dựng từ năm 1070, tức năm Thần Vũ thứ 2 đời
Lý Thánh Tông, là nơi mở những khoa thi tuyển chọn nhân tài, đào tạo
đội ngũ trí thức cho đất nước. Đồng thời đây cũng là một trung tâm Phật
giáo với tên tuổi nhiều cao tăng siêu xuất như Thiền sư Vạn Hạnh, Minh
Không, Thông Biện…
Thăng Long không những tập trung những cung điện của triều đình, mà còn
có nhiều chùa tháp nổi tiếng, tiêu biểu là chùa Diên Hựu (chùa Một Cột),
chùa Sùng Khánh Báo Thiên (chùa Báo Thiên). Trong bốn công trình nghệ
thuật được coi là “An Nam Tứ Đại Khí” của thời Lý - Trần, thì 2 công
trình mang niên đại Lý trên đất Thăng Long chuông Qui Điền (năm 1080 tại
chùa Diên Hựu) và tháp Bảo Thiên (năm 1057 tại chùa Báo Thiên). Trong
những thập kỷ gần đây, khảo cổ học tìm thấy trong lòng đất Hà Nội nhiều
di tích và di vật đời Lý, trong đó có những gạch ngói, đồ gốm sứ đạt
trình độ kỷ thuật và thẩm mỹ cao.
Xưa cũng như nay, Thăng Long luôn là trung tâm qui tụ, kết tinh tài
năng, trí tuệ dân tộc, tạo nên phong cách và truyền thống văn hóa thủ
đô, để từ đây tỏa chiếu ảnh hưởng ra cả nước. Định đô Thăng Long năm
1010 là cột mốc lơn mở đầu lịch sử Thăng Long – Hà Nội, đánh dấu bước
ngoặt của lịch sử đất nước. Thăng Long – Hà Nội giữ vai trò kinh đô lâu
dài nhất trong lịch sử dân tộc và cũng xếp hạng vào những kinh đô có bề
dày lịch sử nhất trên thế giới. Thật xứng đáng với sự lựa chọn và tiên
liệu của vua Lý Thái Tổ, “thượng đô của kinh sư muôn đời”.
Lý Thái Tổ quả thật xứng đáng là vị vua khai sáng triều đại nhà Lý anh
minh lỗi lạc, một Phật tử chân chánh thuần thành. Cuộc đời ông gắn bó
với Phật giáo, đạo tình son sắc đã thành tựu cho đế nghiệp của ông và
con cháu đời sau cửu trụ dài lâu. Trong đó Thăng Long – Hà Nội là một
minh chứng hùng hồn và sâu sắc nhất, để cho dân tộc và Phật tử Việt Nam
luôn tự hào và giữ gìn bản sắc muôn thuở của mình.
Nhà Trần kế thừa sự nghiệp lơn lao của nhà Lý, đúng theo quy luật duyên
sinh của các pháp. Cuối đời nhà Lý, Chiêu Hoàng lên ngôi rồi nhường lại
cho chồng là Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông mới có 8 tuổi, nên mọi việc
trong nước đều do thái sư Trần Thủ Độ quán xuyến cả. Bài chiếu nhường
ngôi, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ban hành ngày 21 tháng 11 năm 1225
đã ghi như sau:
“Từ xưa nước Đại Việt đã có các bậc đế vương trị vì thiên hạ. Riêng nhà
Lý ta vâng chịu mệnh trời, làm chủ bốn biển, các vị thánh vương truyền
nối đã hơn 200 năm. Chẳng mai đức Thượng Hoàng mắc bệnh, không có người
nối dõi, thế nước nguy khốn, đành sai trẫm nhận minh chiếu, gượng lên
ngôi vua. Thật là từ xưa tới nay chưa có việc như thế bao giờ!
Than ôi, trẫm là nữ chúa, tài đức đều kém, lại thiếu người giúp đỡ, mà
giặc cướp thì nổi lên như ong, làm sao có thể giữ gìn ngôi vị quá nặng
đó được?
Trẫm những thức khuya dậy sớm, chỉ sợ gánh vác không nổi; lòng thường
cần mong có bậc hiền nhân quân tử, cùng giúp chính sự. Ngày đêm trẫm vẫn
canh cánh nghĩ về việc đó.
Nay trẫm một mình suy đi nghĩ lại, duy có Trần Cảnh là người văn chất rõ
ràng, phong thái đúng là bậc hiền nhân quân tử, uy nghi trầm mặc, lại
có tư chất của đấng văn võ thánh thần, dù Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông
cũng không hơn được. Trẫm đã sớm suy nghĩ, nghiệm xét từ lâu nên nhường
lại ngôi lớn để yên lòng trời, để thỏa ý trẫm, có vậy mới mong ai nấy
đồng lòng gắn sức, phù trì vận nước lâu dài, để cùng chung hưởng hạnh
phúc thái bình. Nay bá cáo cùng thiên hạ cùng nghe biết”.
Việc thay đổi đế nghiệp của cả một triều đại diễn ra như vậy là khá êm
đẹp, tuy cũng có chút đau lòng cho hậu duệ nhà Lý. Nhưng xét cho cùng đó
là phúc ấm mà nhà Trần xứng đáng được thừa hưởng từ nhà Lý, bởi nhà
Trần có những nhà chính trị kiệt xuất, những bậc dũng tướng uy phong lẫm
liệt, đầy đủ bản lĩnh để lãnh đạo toàn dân đứng trước vận hội vô cùng
khó khăn của đất nước, đối đầu với giặc ngoại xâm hung hãn vào bậc nhất
thế giới là quân Nguyên Mông. Nếu không phải là các vua quan thời Trần
thì làm gì nước Đại Việt ta đã có một thời uy danh lừng lẫy, làm cho
giặc ngoại xâm phải hồn siêu phách lạc, lân bang kính nể, không dám dòm
ngó đến bờ cõi phương Nam.
Hàng loạt nhân vật lịch sử sáng chói của Việt Nam vào thời Trần như Trần
Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh
Tông nối nhau ra đời như một sứ mệnh thiêng liêng mà dân tộc và đất nước
đã giao phó. Đặt biệt trong thời này, có Hưng Đạo đại vương là một nhà
quân sự kiệt xuất của Đại Việt đã làm cho cả năm châu bốn bể phải khiếp
phục, không dám xem thường dân tộc ta. Uy dũng là thế, nhưng sáng chói
hơn vẫn là đức độ bao dung, tha thứ rất đáng khâm phục của vua tôi nhà
Trần.
Một hành sử cao đẹp đến không ngờ của vua Trần Nhân Tông là khi quân dân
ta đánh thắng giặc Nguyên, tịch thu được tráp có sớ đầu hàng của các
quan, nhà vua không cho truy cứu, mà bảo đốt sạch. Từ đó về sau trong
triều ngoài nội, trên từ thượng quan dưới đến vạn thứ lên dân, không ai
không theo về, Đủ thấy nhà vua dùng dức hiếu sinh đãi người, dùng tâm
Phật để chiết phục và chuyến hóa kẻ phản thần. Nếu không có khí lượng
của bậc đại nhân thì làm sao được thế!
Về văn hóa, kinh tế, chính trị, đây cũng là triều đại sản sinh cho lịch
sử những nhân vật kỳ tài như các vua đầu nhà Trần và các thân vương sáng
giá như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Nguyên Đán… Tuy nhiên,
trên hết vẫn là vì sao sáng Trần Nhân Tông. Một minh quân, một thiền sư,
một trái tim Bồ tát đã đến và đi trong cuộc đời như có như không, như
chưa từng đến cũng chưa từng đi.
Tất cả pháp chẳng sanh,
Tất cả pháp chẳng diệt,
Nếu hay hiểu như thế,
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi gì?
Nhà vua Thiền sư Việt Nam có mặt rồi phất áo ra đi như Tuệ Trung Thượng
sĩ, đẹp như vầng trăng ngự giữa trời không, thong dong, tự tại, thống
khoái giữa muôn trùng biến động vô thường, để lại cho dân tộc Việt Nam
một sức sống hồn hậu quật cường, cho Phật giáo Việt Nam một thiền phái
Trúc Lâm bi trí tròn đầy, mang mạch sống thiền tuôn chảy đến vô cùng.
Nhân Tông là con của Thánh Tông, cháu của Thái Tông, đệ tử của Thượng sĩ
Tuệ Trung. Kết tinh từ ba vì sao sáng ấy, nên Trần triều có được một
Điều Ngự Giác Hoàng khí lượng thâm trầm, tỉnh tại của một thiền sư hơn
là bậc đế vương. Ngài đứng trên đỉnh Phù Vân mà trông chừng Anh Tông ở
chốn kinh kỳ, dạy con việc nước việc nhà, việc tu việc sống ở đời. Tư
chất này, phẩm lượng này âu cũng từ Thượng sĩ mà nên.
Khi còn là thái tử, Nhân Tông đã được Tuệ Trung trao cho cẩm nang vào
đạo “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Từ đó nhà vua có
được một con đường sống, dù ngồi trên ngai vàng mà tâm đã ở nơi cửa
Phật. Cương lĩnh của dòng thiền Trúc Lâm được Điều Ngự nêu lên rất rõ
trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
Thật ra, kiến giải và tâm chứng này, các vua Trần đã được Thiền sư Viên
Chứng trên đỉnh Yên Tử khai mở từ khi Trần Thái Tông bỏ ngôi vua, trốn
lên núi tìm Phật. “Trong núi vốn không có Phật. Phật chỉ có ở trong tâm.
Tâm lặng mà biết, đó đích thị là Phật”. Tuệ Trung Thượng sĩ thì nói:
“Khi mê không biết ta là Phật, khi ngộ thì ra Phật là ta”. Chính những
câu nói này đã đánh thức nguồn mạch tâm linh vô tận của các vua Trần,
đem đến một sức sống mạnh mẽ và sáng suốt cho Phật giáo thời Trần. Một
thời đại Phật giáo với những con người siêu xuất thế gian mà vẫn trụ tại
thế gian, để thực hiện trọn vẹn xứ mệnh đạo pháp và dân tộc của mình,
vì lợi ích nhân sinh mà phụng sự quên mình.
Phật giáo đời Trần là nền Phật giáo nhập thế, đưa Phật giáo vào tận hang
cùng ngõ hẻm của xã hội, thiết lập một chuẩn mực đạo đức cho đời sống
nhân dân. Tuệ Trung Thượng sĩ với tư tưởng “hòa quang đồng trần”, chính
là cái xương cốt của nền Phật giáo nhập thế này. Đúng như lời của vua
Trần Nhân Tông ca ngợi: “Thượng sĩ sống giữa dòng thế tục, hòa ánh sáng
mình trong cuộc đời bụi bặm, trong mọi tiếp xúc. Thượng sĩ luôn luôn giữ
thái độ hòa ái nên chưa bao giờ gặp phải những trường hợp phiền
nghịch”. Thượng sĩ thong dong tự tại, không bị ràng buột bởi hình thức
nào:
“Sâu thì xoắn áo chừ cạn thì nhón gót,
Dùng thì phô ra chừ bỏ thì ẩn tàng,
Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt,
Tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.
Phóng cuồng ngâm.
Các thiền sư Việt Nam thời Trần đã thể hiện trọn vẹn nhất cốt tủy của
đạo Phật qua mạch sống thiền. Và vì thế Phật giáo thời Trần đã được đánh
giá là thời kỳ vàng son nhất của Phật giáo Việt Nam, đsong góp cho đất
nước và dân tộc Việt Nam một nền móng đạo đức vững vàng. Từ đó nâng cao,
ổn định và giữ thăng bằng đời sống tâm linh của con người, đưa nước nhà
đi lên trong mọi lĩnh vực, đem đến nguồn an vui hạnh phúc cho muôn nhà.
Quả thật đây là một triều đại thía bình thịnh trị, trãi qua 13 đời vua,
kéo dài 175 năm (1225 – 1400).
Tuy nhiên, sẽ thấu đáo hơn khi chúng ta nhận ra rằng hơi thở của Phật
giáo Việt Nam sâu lắng, tròn đầy và sung mãn nhất là nhờ vào các vị vua
Phật tử hiền đức của cả hai triều đại Lý – Trần. Nếu như triều Lý các
bậc đế vương gieo hạt ươm mầm cho chủng tử Phật đi vào đời thì đến triều
Trần, quân vương cũng chính là pháp vương nuôi dưỡng vun bồi, cho hạt
giống Bồ - đề ấy ra hoa kết quả. Đức vua Trần Nhân Tông được tôn xưng là
Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ngài đã rũ bỏ vương quyền, lợi danh để xuất
gia vào lúc đang ở đỉnh cao vinh hoa phú quý. Và cuối cùng Ngài đã thành
tựu được đạo nghiệp cao cả, làm tiêu bảng cho hành giả tu thiền Việt
Nam, sớm tỉnh thức và mãnh tiến trên con đường Phật đạo.
Triều Lý không có triều Trần và những triều đại tiếp nối theo sau, thì
liệu ngày nay Việt Nam có được 1000 năm Thăng Long – Hà Nội nồng ấm trái
tim thủ đô? Và Phật giáo Việt Nam có được một Thiền phái Trúc Lâm bất
diệt, với những thiền sư là bậc quân vương xem ngai vàng như đôi dép
rách, ung dung trên đỉnh Yên Tử sơn, mặc cho tuế nguyệt tròn khuyết vơi
đầy chẳng bận lòng, mà bờ cõi muôn thuở vẫn vững âu vàng!
Có thể nói đây chính là niềm tự hào nhất của dân tộc Việt Nam nói chung
và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Và đây cũng chính là linh hồn, là nguồn
mạch nuôi dưỡng một sức sống vương lên, vươn lên mãi của ngàn năm Thăng
Long – Hà Nội trong trái tim Việt Nam.