Trong
 cái thời tiết buổi sáng mùa Xuân xứ Huế hơi se se lạnh, đến chùa, cùng 
quý thầy nhắp chén trà xuân, dùng một lát mứt gừng ngọt ngọt cay cay rồi
 dạo thăm vườn chùa để giao hoà cùng khí xuân là cái thú du xuân của 
người Huế.
Bắt nguồn từ nhiều yếu tố, nhưng chung 
nhất vẫn là từ triết lý "lấy thiên nhiên làm đạo tràng hành đạo giải 
thoát giác ngộ". Các vị thiền sư xưa đã đến Thuận Hoá – Phú Xuân chọn 
những vùng đất có cảnh quan thiên nhiên sông núi hữu tình lập ra những 
am tranh, lều cỏ để tu hành và đã góp phần mở mang, khai sáng văn hoá 
làm chỗ dựa tinh thần cho dân. Trong thời buổi đó, sự phát triển của 
Phật giáo cũng chính là sự khai mở văn hoá của vùng miền Thuần Hóa...

Cảnh vườn chùa Từ Hiếu Huế
Là những người đi "khai hoang", 
các vị thiền sư đã dừng chân giữa bạt ngàn rừng núi tạo dựng lên một 
loạt những am tranh mà sau này trở thành những ngôi cổ tự nổi tiếng xứ 
Huế như chùa Quốc Ân do tổ sư Nguyên Thiều dựng năm 1684, chùa Từ Đàm do
 tổ Minh Hoằng-Tử Dung khai sơn năm 1695, chùa Thiền Tôn do tổ sư Liễu 
Quán khai sơn 1708, chùa Báo Quốc, do tổ sư Giác Phong lập vào cuối thế 
kỷ 17, chùa Từ Lâm do tổ sư Từ Lâm khai sơn cuối thế kỷ 17, chùa Từ Hiếu
 do tổ sư Nhất Định khai sơn năm 1842...Những ngôi chùa nầy tiền thân là
 những am tranh nằm ẩn mình trong núi rừng thâm u ít có dân cư. Nhiều 
sách vở ngày nay con lưu lại cho biết thuở ấy trong vùng nầy chỉ có 
những tiếng nói cười sang sảng của các thiền sư cùng với chim hót suối 
reo và tiếng gầm rú của thú dữ (Đây là một trong những lý do để chùa Huế
 có đất đai, vườn tược rất rộng). Cảnh quan của những am tranh ngày xưa 
và những danh lam thắng cảnh chùa Huế ngày nay do vậy thường hài hoà 
giữa suối khe, sông núi hữu tình.

Việc dựng một am thất như thế nào cho phù
 hợp với cảnh quan phong thuỷ rất được các Tổ sư xưa đặc biệt quan tâm. 
Khởi nguyên, các vị Tổ sư dựng thiền trượng lập am tranh là thuận theo 
địa thế, tự nhiên mà chọn lựa thế đất tiền khê thuỷ, hậu sơn lâm để làm 
minh đường hậu chẩm và hai bên có tả thanh long hữu bạch hổ yểm trợ mà 
hoàn toàn không làm "tổn hại" đến cảnh quan xung quanh thậm chí còn tô 
thêm nét trầm mặc, thiền vị. Sau nầy, khi các vị kế thế trong điều kiện 
vững mạnh, dân tình ngày càng đông đúc hơn, nhu cầu về tín ngưỡng cao 
hơn, những am tranh đó được nâng lên thành những ngôi chùa bằng gỗ với 
mô thức chung là nhà rường một gian hai chái (hoặc là ba gian hai chái) 
với hệ thống chùa-tăng đường-trai đường-hậu tổ liên hoàn với nhau tạo 
thành một thể thống nhất kiểu chữ khẩu rất đặc trưng, một kiểu kiến trúc
 khiêm tốn hài hoà với thiên nhiên.

Một góc vườn chùa Kim Tiên
Cho nên, việc "thiết kế" một  khu vườn 
chùa  như thế nào trong cảnh quan và kiến trúc của tổng thể ngôi chùa 
cũng là một nét đặc trưng của chùa Huế. Ngay từ thuở còn trong hình thái
 của am tranh với sự an cư đơn giản của các vị thiền sư, vườn chùa chưa 
mang tính phổ quát mà chỉ mang tính tạp mộc rất tự nhiên. Sau nầy, các 
vị trụ trì kế thế, do nhu cầu của đời sống nhà chùa, trong vườn chùa đã 
có sự cải đổi về chủng loại cây trồng có nhiều rau, cải, cà, mướp, đậu, 
mè...một số cây ăn quả như mít, dừa, măng cụt, nhãn...cũng đã được đưa 
vào để thay thế các cây cổ thụ tự nhiên nhằm để cải thiện bữa ăn...Do 
vậy vườn chùa rất quan trọng trong đời sống tu hành của nhà chùa.

Một góc vườn chùa Thiên Mụ
Ngày nay vườn chùa Huế chủ yếu đã được cải tạo theo hướng "kiểng tính"
 nhiều hơn chứ ít thấy chùa nào trồng hoa màu nữa. Các chùa đã chú trọng
 việc làm đẹp vườn chùa sao cho thật hài hoà với yếu tố tự nhiên mà ngôi
 chùa toạ lạc. Vườn chùa Huế ngày nay đa số đều trồng cỏ, có hòn non bộ,
 có vườn hoa, có nhà thuỷ tạ rất đẹp, rất tân thời mà mất dần nét duyên 
truyền thống-đơn sơ mà sâu lắng, mỗi mùa xuân đến khách đến chùa thưởng 
lãm vườn chùa có cảm giác mất dần hương sắc ấm cúng, đạo vị ...

Vườn chùa Tra Am