Theo
Từ điển Bách khoa toàn thư mở, đền Đô còn được gọi là đền Lý Bát Đế
hoặc Cổ Pháp điện. Đây là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ tám vị
vua đầu tiên của nhà Lý. Đền được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử -
văn hóa năm 1991.
Đền Lý Bát Đế được
khởi công xây dựng từ ngày 3 tháng ba năm Canh Ngọ (1030) bởi Lý Thái
Tông, khi vị hoàng đế này về quê làm giỗ cha. Sau này, đền được nhiều
lần trung tu và mở rộng. Trong đó, lần trùng tu lớn nhất là vào năm thứ
hai niên hiệu Hoàng Định của vua Lê Kính Tông (tức năm 1620), khắc văn
bia ghi lại công đức của các vị vua triều Lý.
|
Chính diện đền Đô ở làng Cổ Pháp. |
Trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đã phá hủy nhiều di sản văn
hóa ở Cổ Pháp. Năm 1952, Pháp dội bom, phá hủy hoàn toàn đền. Đến năm
1989, đền đã được khởi công xây dựng lại, theo đúng hình dáng và kiến
trúc mà các nhà nghiên cứu lịch sử đã phác thảo, căn cứ vào dấu tích còn
lại và các tài liệu lưu trữ.
Đền Đô
hiện rộng 31.250 m², với trên 20 hạng mục công trình, chia thành 2 khu
vực: nội thành và ngoại thành. Tất cả đều được xây dựng công phu, đắp vẽ
chạm khắc tinh xảo.
Đền Đô thờ tám vị vua nhà Lý, đó là: 1.Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (1009-1028); 2.Lý Thái Tông (1028-1054); 3.Lý Thánh Tông (1054-1072); 4.Lý Nhân Tông (1072-1128); 5.Lý Thần Tông (1128-1138); 6.Lý Anh Tông (1138-1175); 7.Lý Cao Tông (1175-1210) và 8.Lý Huệ Tông (1210-1224). |
Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc". Cổng
vào nội thành gọi là Ngũ Long Môn vì hai cánh cổng có trạm khắc hình năm
con rồng. Trung tâm của Khu nội thành và cũng là trung tâm đền là chính
điện. Chính điện gồm trước tiên
là Phương đình (nhà vuông) 8 mái 3 gian rộng đến 70 m². Tiếp đến nhà
Tiền tế 7 gian rộng 220 m². Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ. Phía bên
trái điện thờ có treo tấm bảng ghi lại Chiếu dời đô của vua Lý
Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý.
Phía bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi tiếng của Lý Thường Kiệt:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư...".
Sau
cùng là Cổ Pháp điện gồm 7 gian rộng 180 m² là nơi đặt ngai thờ, bài vị
và tượng của 8 vị vua nhà Lý. Gian giữa là nơi thờ Lý Thái Tổ và Lý
Thái Tông; ba gian bên phải lần lượt thờ Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và
Lý Thần Tông; ba gian bên trái lần lượt thờ Lý Anh Tông, Lý Huệ Tông và
Lý Cao Tông.
Trong nội thành còn có
nhà chuyển bồng, kiến trúc theo kiểu chồng diêm 8 mái, 8 đao cong mềm
mại, nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ. Đặc biệt, phía Đông
đền có nhà bia, nơi đặt Cổ Pháp Điện Tạo Bi (bia đền Cổ Pháp).
Tấm bia đá này cao 190 cm, rộng 103cm, dày 17cm, được khắc dựng năm Giáp
Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn văn bia, ghi lại sự kiện
lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý.
Khu
ngoại thất đền Lý Bát Đế gồm thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đây là nơi
để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ này thông với
ao Cả trên và ao Cả dưới và sông Tiêu Tương xưa. Thủy đình ở phía Bắc
hồ rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong. Thủy đình đền
Lý Bát Đế từng được Ngân hàng
Đông Dương thời Pháp thuộc chọn là hình ảnh in trên giấy bạc "năm đồng
vàng" và là hình in trên đồng tiền xu 1000 hiện nay. Nhà văn chỉ ba gian
chồng diêm rộng 100 m² nằm bên trái khu nội thành thờ Tô Hiến Thành và
Lý Đạo Thành, những quan văn đã có công lớn giúp nhà Lý. Nhà võ chỉ có
kiến trúc tương tự nhà văn chỉ, ở bên phải khu nội thành thờ Lê Phụng
Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc, những quan võ đã có công lớn giúp nhà
Lý. Ngoài ra, ở khu vực ngoại thành còn có nhà chủ tế, nhà kho, nhà
khách và đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng),...
Lễ
hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch nhằm kỷ
niệm ngày Lý Công Uẩn đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất 1009), ban Chiếu dời đô.
Đây là ngày hội lớn thu hút nhiều khách hành hương thể hiện lòng thành
kính và nhớ ơn của người dân Việt đối với các vua Lý. Đó cũng là lễ hội
truyền thống có từ lâu đời và trở thành phong tục được nhân dân xã Đình
Bảng tự nguyện lưu giữ, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống
văn hóa tinh thần của nhân dân.
Bảo Bình