Nhân
tài chịu tác động qua lại của ba yếu tố: di truyền bẩm sinh, môi trường
tự nhiên - xã hội và thường xuyên tự rèn luyện từ trong thực tiễn của
mỗi cá nhân.
Trong “Tờ chiếu xây dựng việc học” (Lập học chiếu) thời vua Quang Trung, nhà chính trị, nhà thơ Ngô Thì Nhậm viết:
“Kiến quốc dĩ giáo học vi tiên.
Cầu trị dĩ nhân tài vi cấp”
(Xây dựng đất nước lấy dạy và học làm đầu; yêu cầu cai trị đất nước lấy việc dùng nhân tài làm cấp thiết).
Ngay sau
khi lên ngôi, Minh Mệnh rất coi trọng việc học tập, chọn lựa nhân tài và
đã ra chỉ dụ cho bộ Lễ: “Đạo trị nước tất phải lấy việc gây dựng nhân
tài làm ưu tiên”.
Người xưa
dùng chữ “đãi sĩ” để chỉ cách đối xử với kẻ sĩ, với nhân tài. “Đãi sĩ”
đi đôi với “chiêu hiền”. “Chiêu” phải biết “Đãi”, “Đãi” để mà “Chiêu”.
Các bậc đế vương anh minh đã nhận thức sâu sắc vai trò của nhân tài đối
với xã hội, quốc gia, đặc biệt là đối với sự hưng vong của ngay bản thân
các triều đại. Trải qua các triều đại, “chiêu hiền” đã được nâng lên
thành quốc sách.
Trong thời kỳ cực thịnh của chế độ phong kiến Việt
Nam, vua Lê
Thánh Tông đã đặc biệt coi trọng công tác giáo dục và đào tạo nhân tài
cho đất nước. Vâng mệnh vua Lê, nhà văn hóa lớn Thân Nhân Trung, Tao Đàn
Phó đô nguyên súy, đã thảo bài văn bia năm 1484 và bài văn bia năm
1487, qua đó, ông nhấn mạnh những nội dung cơ bản trong chính sách hiền
tài của Nhà nước: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì
thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp
kém. Vì thế các bậc thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ,
bồi dưỡng nhân tài, vun trồng nguyên khí là công việc cần kíp. Bởi kẻ sĩ
có quan hệ trọng đại với quốc gia như thế, cho nên được quý chuộng
không biết dường nào...” (Văn bia 1484). Trong thư tịch cổ nước ta, khó
có thể tìm được áng văn nào nói hay hơn về vai trò của hiền tài đối với
đất nước cũng như thái độ trọng nhân tài của Nhà nước. Có thể coi đây là
tuyên ngôn bất hủ về chính sách nhân tài không chỉ của nhà Lê mà của
muôn thời.
Thân Nhân
Trung đã khẳng định một chân lý lịch sử: “Kẻ sĩ có quan hệ thật là quan
trọng đối với sự phát triển của đất nước” (Văn bia 1484).
Tại Văn
Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội), văn bia nói trên đã luôn luôn nhắc nhở các
triều đại, các Nhà nước về chính sách đối với hiền tài, bởi lẽ, sự
thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài.
Tháng
11-1429, sau khi đánh tan quân Minh, Lê Lợi hạ Chiếu cầu hiền do Nguyễn
Trãi soạn thảo, trong đó có đoạn: “Tuy người tài ở đời vốn không ít mà
cầu tài không có một đường. Hoặc có người nào có tài kinh luân mà bị
khuất ở hạng quan nhỏ, không ai tiến cử, cùng người hào kiệt ở nơi đồng
nội hay lẫn trong binh lính, nếu không tự đề đạt thì Trẫm bởi đâu mà
biết được. Từ nay về sau, các bậc quân tử ai muốn đi chơi với ta đều cho
tự tiện”.
Nước Đại
Việt là một nước văn hiến với đủ hai nhân tố: nền tảng văn hóa của nhân
dân và sự xuất hiện những hiền tài của đất nước. Hiền tài thể hiện tinh
hoa của phẩm chất và tâm hồn được chắt lọc và nâng cao từ trong nhân
dân. Mối quan hệ giữa nhân dân và hiền tài tạo nên sức mạnh trường tồn
của dân tộc. Ý nghĩa này được Nguyễn Trãi khái quát trong Đại Cáo Bình
Ngô:
“Như nước Đại Việt từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu...
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt không bao giờ thiếu”.
Mùa Xuân
năm Kỷ Dậu (1789), sau khi đại thắng quân Thanh, vua Quang Trung ban bố
ngay “Chiếu cầu hiền” nói rõ: “Dựng nước lấy việc học làm đầu. Trị nước
lấy nhân tài làm gốc. Trẫm buổi đầu dựng nước, tôn trọng việc học, lưu
tâm yêu mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài ra giúp nước... Trẫm đang để ý
lắng nghe, sớm hôm mong mỏi. Thế mà những người tài cao, học rộng, chưa
có ai đến, hay Trẫm là người ít đức, không xứng để phò tá chăng ? Ôi !
Trời đất bế tắc, thì hiền tài ẩn náu ! Xưa thì đúng như vậy, còn nay
trời đất thanh bình chính là lúc người tài gặp gió may...” Vua Quang
Trung là người hết sức khiêm tốn, tôn trọng và khoan dung, độ lượng với
các bậc hiền tài, nên nhiều sĩ phu thức thời đã một lòng một dạ phò tá
nhà vua như: Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích...
Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một mẫu mực tuyệt vời, tiêu biểu nhất về việc trọng dụng
nhân tài. Chỉ trong vòng một năm sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Người đã
có hai bài đăng trên báo Cứu quốc (tiền thân của báo Đại Đoàn Kết):
“Nhân tài và kiến quốc” (14-11-1945) và “Tìm người tài đức”
(20-11-1946). Đó là Chiếu cầu hiền của cách mạng với những lời lẽ chân
thành, lay động con tim của đông đảo trí thức, nhân tài lúc bấy giờ.
Trong bài “Tìm người tài đức”, Người viết: “Nước nhà cần phải kiến
thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc
không thiếu người có tài, có đức... Nay muốn... trọng dụng những kẻ hiền
năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có
thể làm được những việc ích nước lợi dân thì phải báo cáo ngay cho
Chính phủ biết”.
Ngay sau
khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người đã mời các nhân sĩ, trí
thức và cả những quan lại của triều đình nhà Nguyễn ra gánh vác việc
nước. Khi sang Pháp, Người đã mời nhiều trí thức có tâm, có tài sẵn sàng
bỏ lại sau lưng những ưu đãi về vật chất để trở về cống hiến vô điều
kiện cho đất nước.
Trong thực
tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện, cảm hóa, trọng dụng nhiều nhà trí
thức, nhân tài như các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Nguyễn Văn
Tố, Phan Anh, GS Đặng Thai Mai...; những nhà khoa học nổi tiếng như: GS
Trần Đại Nghĩa, GS Hồ Đắc Di, GS Tôn Thất Tùng, GS Tạ Quang Bửu, GS
Nguyễn Xiển, GS-VS Nguyễn Khánh Toàn, GS Nguyễn Văn Huyên, GS Hoàng Minh
Giám, GS Ngụy Như Kon Tum, BS Phạm Ngọc Thạch, VS Lương Định Của, KTS
Huỳnh Tấn Phát...; những nhà chính trị, quân sự tài ba như: Trường
Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp...
Cốt lõi tư
tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng nhân tài là lòng thiết tha thực sự cầu
hiền, xuất phát từ tư tưởng nhân văn, dựa trên tinh thần đại đoàn kết
dân tộc, vì Tổ quốc trên hết.
Đất nước ta
không thiếu người có tài, có đức. Vấn đề là phải có sự đồng bộ từ nhận
thức, thái độ đến cơ chế chính sách trong phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng
và đãi ngộ cho đúng.
Trọng thị,
trọng dụng, trọng đãi nhân tài là ba khâu liên quan chặt chẽ với nhau.
Trọng dụng là biểu hiện cụ thể của trọng thị, và là động lực quan trọng
để thu hút nhân tài. Trọng đãi là sự trả công xứng đáng cho những đóng
góp của nhân tài cho xã hội, đất nước.
Nói đến
chính sách đãi ngộ sẽ đụng đến vấn đề kinh phí. Đây là bài toán khó,
nhưng giải bài toán đó không phải là chia như thế nào với nguồn ngân
sách đó mà làm thế nào để nguồn ngân sách đó thật sự có hiệu quả.
Nhân tài
mong muốn trước hết là được làm việc và cống hiến. Do vậy, cần quan tâm
đến ba yếu tố: Điều kiện làm việc, quyền tự chủ trong lĩnh vực hoạt động
và cuộc sống ổn định.
Thế kỷ 21 là thời đại kinh tế tri thức. Đã đến lúc cần có một chiến lược nhân tài trong tổng thể chiến lược con người vì mục tiêu cao cả : dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nguyễn Xuyến |