Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
14
năm
10
tuổi
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
14,
tên
thật
là
Tenzin
Gyatso,
là
một
nhà
lãnh
đạo
thế
quyền
và
giáo
quyền
của
nhân
dân
Tây
Tạng.
Ngài
chào
đời
tại
làng
Taktser,
vùng
Đông
Bắc
Tây
Tạng
vào
ngày
6
tháng
7
năm
1935
(Ất
Hợi)
trong
một
gia
đình
nông
dân.
Ngài
được
thừa
nhận
là
Dalai
Lama
vào
năm
2
tuổi
theo
truyền
thống
Tây
Tạng
như
là
hóa
thân
của
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
13,
cũng
là
hiện
thân
của
Đức
Quán
Thế
Âm
(Avalokitesvara),
một
vị
Bồ
tát
của
lòng
từ.
Theo
truyền
thống
của
người
Tây
Tạng,
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
là
hiện
thân
lòng
từ
của
chư
Phật
và
Bồ
tát,
người
chọn
con
đường
tái
sinh
trở
lại
kiếp
người
để
cứu
giúp
chúng
sanh.
Dalai
Lama,
nghĩa
là
"Người
bảo
vệ
đức
tin"
(Defender
of
the
Faith),
"Biển
lớn
của
trí
tuệ"
(Ocean
of
Wisdom),
"Vua
của
Chánh
Pháp"
(King
of
Dharma),
Viên
bảo
châu
như
ý
(Wishfulfilling
Gem).....
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
được
tấn
phong
tước
vị
Dalai
Lama
vào
ngày
22
tháng
2
năm
1940
tại
Lhasa,
thủ
đô
của
Tây
Tạng,
chính
thức
là
người
lãnh
đạo
chính
trị
và
tôn
giáo
cho
6
triệu
người
Tây
Tạng.
1.
Quá
trình
tìm
kiếm
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma:
Khi
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
13
viên
tịch
vào
năm
1933,
chính
phủ
Tây
Tạng
gặp
khủng
hoảng
trong
việc
tìm
kiếm
một
người
thừa
kế.
Năm
1935,
vị
nhiếp
chính
đi
đến
hồ
thiêng
Lhamo
Lhatso
ở
Chokhorgyal,
khoảng
90
dặm
từ
thủ
đô
Lhasa.
Theo
truyền
thống
của
Tây
Tạng,
người
ta
có
thể
nhìn
thấy
mọi
việc
ở
tương
lai
từ
hồ
thiêng
(Holy
lake)
này.
Lúc
bấy
giờ
vị
nhiếp
chính
thấy
ba
chữ
Tây
Tạng
Ah,
Ka
và
Ma
hiện
lên
giữa
mặt
nước
trong
vắt
của
hồ
thiêng,
theo
sau
ba
mẫu
tự
này
là
bức
tranh
của
một
ngôi
chùa
ba
tầng
với
mái
ngói
màu
xanh
lục
và
một
căn
nhà
có
chiếc
máng
xối
kỳ
lạ.
Năm
1937,
chính
phủ
Tây
Tạng
đã
gởi
những
hình
ảnh
thiêng
liêng
ấy
từ
hồ
thiêng
đến
các
tỉnh
thành
của
Tây
Tạng
để
tìm
kiếm
nơi
tái
sinh
của
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma.
Một
phái
đoàn
tìm
kiếm
tái
sanh
được
thành
lập
và
đi
về
hướng
Đông
Bắc
Tây
Tạng,
vị
trưởng
phái
đoàn
là
Lạt
ma
Kewtsang
Rinpoche,
Tu
viện
trưởng
Tu
viện
Sera.
Khi
phái
đoàn
đến
làng
Amdo,
họ
thấy
quang
cảnh
nơi
này
giống
y
như
hình
ảnh
đã
thấy
dưới
hồ
thiêng.
Lobsang
Tsewang
cải
trang
thành
người
trưởng
đoàn,
và
Lạt
ma
Kewtsang
cải
trang
thành
người
thị
giả
và
họ
vào
thăm
một
căn
nhà
với
chiếc
máng
xối
kỳ
lạ.
Bấy
giờ
Lạt
ma
Kewtsang
có
mang
một
xâu
chuỗi
(rosary)
của
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
13
và
chú
bé
trong
căn
nhà
ấy
đã
nhận
ra
nó
và
yêu
cầu
được
cầm
xem.
Lạt
Ma
Kewtsang
hứa
sẽ
cho
nếu
chú
đoán
được
ngài
là
ai.
Và
chú
bé
liền
trả
lời
ngay
bằng
một
loại
tiếng
lóng
của
địa
phương
là
"Sera
aga'',
nghĩa
là
''Lạt
ma
ở
tu
viện
Sera".
Tiếp
đó,
Ngài
hỏi
chú
bé
vị
trưởng
đoàn
là
ai
và
chú
bé
đã
trả
lời
đúng;
chú
cũng
cho
biết
tên
chính
xác
tên
của
người
thị
giả.
Theo
sau
đó
là
một
loạt
trắc
nghiệm
khác
để
chú
bé
chọn
lựa
những
đồ
dùng
thường
ngày
của
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
13
và
chú
bé
cũng
nhận
ra
tất
cả
và
nói:
''của
tôi,
của
tôi".
Chú
bé
ấy
chính
là
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
hiện
nay.
Từ
những
kết
quả
của
cuộc
kiểm
tra
này
giúp
họ
đoán
chắc
rằng
họ
đã
tìm
ra
hóa
thân
mới
và
niềm
tin
của
họ
càng
được
vững
mạnh
thêm
bởi
những
ý
nghĩa
từ
ba
mẫu
tự
Tây
Tạng
đã
từng
thấy
dưới
hồ
thiêng:
Ah
là
hàm
nghĩa
cho
tỉnh
lmdo,
nơi
chú
bé
chào
đời,
Ka
là
chỉ
cho
Tu
viện
Kumbum,
một
ngôi
Tu
viện
lớn
nhất
với
ba
tầng
gần
nhà
của
chú
bé
và
Ma
là
ám
chỉ
cho
ngôi
tu
viện
Karma
Rolpai
Dorje
ở
trên
ngọn
núi
của
ngôi
làng
gần
bên.
Cuối
cùng
phái
đoàn
quyết
định
chú
bé
ấy
là
hậu
thân
của
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
13.
2.
Tu
học
tại
Tây
Tạng
:
Đức
Đạt
Lai
Lạt
bắt
đầu
sự
nghiệp
học
vấn
của
mình
vào
năm
6
tuổi
và
hoàn
tất
học
vị
cao
nhất
của
PG
Tây
Tạng
là
Geshe
Lharampa,
tương
đương
với
Tiến
sĩ
triết
học
Phật
giáo
(Doctorate
of
Buddhist
Philosophy)
ở
tuổi
25
vào
năm
1959.
Năm
24
tuổi,
Ngài
đã
tham
dự
kỳ
thi
đầu
tiên
tại
các
đại
học
Phật
giáo
Drepung,
Sera
và
Ganden.
Kỳ
thi
cuối
cùng
được
tổ
chức
tại
Jokhang,
thủ
đô
Lhasa
trong
thời
gian
lễ
hội
Monlam,
tháng
giêng
theo
lịch
Tây
Tạng.
Trước
đó
Ngài
phải
học
tất
cả
các
môn
học
chính
như
Luận
lý
(Logic)
văn
hóa
và
nghệ
thuật
Tây
Tạng
(Culture
&
Tibetan
Art),
Phạn
ngữ
(Sanskrit),
Y
học
(Medicine),
Triết
học
Phật
giáo
(Buddhist
philosophy).
Riêng
môn
Phật
học
này
là
khó
nhất,
được
chia
ra
làm
năm
phần
là
Bát
nhã
(Prajnaparamita),
Trung
quán
luận
(Madhyamika),
Giới
luật
(Vinaya),
Luận
A
Tỳ
Đạt
Ma
(Abidharma)
và
Nhân
minh
luận
(Pramana)
.
Và
các
môn
học
phụ
khác
là:
biện
luận
(dialetics),
thơ
ca
(poetry),
âm
nhạc
(music)
và
kịch
nghệ
(drama),
thiên
văn
(astrology),
văn
phạm
(metre
and
phraseing
).
3.
Vai
trò
và
trách
nhiệm
lãnh
đạo
:
Vào
ngày
17
tháng
11
năm
1950,
Đức
Đạt
Lai
Lạt
đã
khoác
lên
mình
một
trọng
trách
là
người
lãnh
đạo
thế
quyền
của
người
dân
Tây
Tạng
(head
of
the
State
and
Government)
sau
khi
có
khoảng
80.000
quân
lính
của
Trung
Quốc
tấn
công
vào
Tây
Tạng.
Năm
1954,
Ngài
đã
đến
Bắc
kinh
để
thương
thuyết
hòa
bình
với
chủ
tịch
Mao
Trạch
Đông
(Mao
Tse-tung)
và
những
nhà
lãnh
đạo
Trung
Hoa
khác,
gồm
Chu
Ân
Lai
(Chou
En-lai)
và
Đặng
Tiểu
Bình
(Deng
Xiaoping).
Tuy
nhiên,
các
cuộc
đàm
phán
trong
chuyến
đi
này
không
mang
lại
kết
quả,
cuối
cùng
Ngài
đã
quyết
định
muốn
cứu
vãn
cho
Tây
Tạng
Ngài
phải
ra
nước
ngoài.
4.
Đào
thoát
khỏi
Tây
Tạng
:
Với
nỗ
lực
mang
lại
một
giải
pháp
hòa
bình
của
Ngài
cho
người
dân
Tây
Tạng
đã
bị
cản
trở
bởi
một
chính
sách
tàn
bạo
của
nhà
cầm
quyền
Bắc
Kinh,
trong
khi
đó
ở
miền
Đông
Tây
Tạng
dân
chúng
đã
đứng
lên
kháng
cự
mạnh
mẽ
đối
với
sự
đàn
áp
của
Trung
Hoa.
Sự
kháng
cự
này
đã
lan
ra
trên
nhiều
tỉnh
thành
của
Tây
Tạng.
Vào
ngày
10
tháng
3
năm
1959,
một
cuộc
biểu
tình
lớn
nhất
trong
lịch
sử
của
Tây
Tạng
tại
thủ
đô
Lhasa
để
kêu
gọi
binh
lính
Trung
Quốc
phải
rút
khỏi
Tây
Tạng
và
tái
xác
định
rằng
Tây
Tạng
là
một
quốc
gia
độc
lập.
Cuộc
biểu
tình
ôn
hòa
này
đã
bị
bẻ
gãy
một
cách
tàn
nhẫn
của
quân
đội
điên
cuồng
của
Hoa
Lục.
Kết
quả
của
cuộc
xâm
lăng
này
đã
giết
chết
hàng
triệu
người
Tây
Tạng
vô
tội
và
phá
hủy
6
triệu
chùa
chiền
tại
đất
nước
này.
Để
tìm
con
đường
giải
phóng
nỗi
khổ
đau
ấy,
80.000
người
dân
Tây
Tạng
cùng
với
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
vượt
qua
dãy
Hy
Mã
Lạp
Sơn
để
đến
tị
nạn
tại
miền
bắc
Ấn
Độ
vào
năm
1959.
5.
Chính
phủ
lưu
vong
tại
Dharamsala,
miền
Bắc
Ấn
Độ
:
Ngày
nay,
với
hơn
120.000
người
Tây
Tạng
lưu
trú
tại
vùng
đất
Dharamsala,
Ấn
Độ,
được
biết
như
là
một
''Lhasa
nhỏ",
lập
thành
một
chính
quyền
lưu
vong
Tây
Tạng
với
một
Hội
Đồng
Dân
Cử
Tây
Tạng
(Commission
of
Tibetan
People's
Deputies)
vào
năm
1960.
Trong
những
năm
đầu
lưu
vong,
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
đã
kêu
gọi
Hoa
Kỳ
lên
tiếng
về
vấn
đề
của
Tây
Tạng,
kết
quả
ba
quyết
nghị
đã
được
thông
qua
tại
Hội
Đồng
lập
Pháp
của
Hoa
Kỳ
vào
năm
1959,
1961
và
năm
1965,
kêu
gọi
nhà
cầm
quyền
Bắc
Kinh
phải
tôn
trọng
nhân
quyền
của
người
Tây
Tạng
và
ước
muốn
tự
trị
của
họ.
Với
việc
thành
lập
một
chính
phủ
lưu
vong
Tây
Tạng,
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thấy
rằng
công
việc
khẩn
cấp
phải
làm
là
cứu
nguy
dân
tị
nạn
và
nền
văn
hóa
của
Tây
Tạng.
Các
lĩnh
vực
nông
nghiệp,
kinh
tế,
văn
hóa,
giáo
dục
đã
dần
được
tái
hoạt
động
tại
Ấn
Độ.
Trẻ
em
Tây
Tạng
được
đi
học
và
một
Trường
đại
học
Tây
Tạng
được
thành
lập
tại
Ấn
Độ.
Có
khoảng
200
tu
viện
Tây
Tạng
được
xây
dựng
tại
Ấn
để
Tăng
chúng
tu
học,
duy
trì
và
bảo
vệ
văn
hóa
và
tôn
giáo
của
Tây
Tạng.
Năm
1963,
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
đã
ban
hành
một
hiến
pháp
dân
chủ
(democratic
constitution)
hoàn
toàn
dựa
trên
giới
luật
của
nhà
Phật
và
bản
hiến
chương
nhân
quyền
của
LHQ
để
biên
soạn
và
chuẩn
bị
cho
một
mô
hình
đất
nước
Tây
Tạng
tự
do
ở
tương
lai.
Năm
1965,
Ngài
đến
tham
dự
đại
lễ
Phật
Đản
Phật
lịch
2500
tại
Ấn
Độ,
đã
gặp
được
Thủ
tướng
Ấn
ông
Nehru
và
ông
Chu
Ân
Lai,
đàm
phán
về
vấn
đề
của
Tây
Tạng.
Ngày
nay,
thành
viên
của
quốc
hội
Tây
Tạng
sẽ
được
bầu
cử
bởi
dân
chúng.
Hội
đồng
nội
các
được
bầu
cử
bởi
quốc
hội.
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
nhấn
mạnh
rằng
nhiệm
vụ
chính
của
chính
quyền
Tây
Tạng
là
chăm
lo
cho
đời
sống
người
dân
và
Ngài
cũng
nói
thêm,
khi
Tây
Tạng
giành
lại
nền
độc
lập,
Ngài
sẽ
không
còn
ngồi
ở
văn
phòng
chính
phủ
nữa.
Năm
1987,
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
tham
dự
một
hội
nghị
nhân
quyền
tại
thủ
đô
Washington,
Hoa
Kỳ.
Ngài
đề
xuất
một
Chương
Trình
Hòa
Bình
Năm
Điểm
(A
Five-Point
Peace
Plan)
bao
gồm,
1)
Biến
Tây
Tạng
thành
một
khu
vực
hòa
bình;
2)
Chấm
dứt
việc
di
dân
Trung
Hoa
đang
de
dọa
sự
tồn
tại
của
dân
tộc
Tây
Tạng;
3)
Tôn
trọng
các
quyền
dân
chủ,
tự
do
và
quyền
làm
người
của
dân
Tây
Tạng;
4)
Phục
hồi
và
bảo
vệ
môi
sinh
của
Tây
Tạng
và
chấm
dứt
việc
sử
dụng
đất
Tây
Tạng
để
sản
xuất
vũ
khí
nguyên
tử
và
bỏ
đồ
phế
thải
nguyên
tử;
và
5)
Khởi
sự
thương
thảo
ngay
về
quy
chế
tương
lai
của
Tây
Tạng
và
bang
giao
giữa
Tây
Tạng
với
Trung
Hoa.
Ngày
15
tháng
6
năm
1988,
tại
Strasbourg,
Pháp
quốc,
Ngài
nhắc
lại
Chương
Trình
Hòa
Bình
Năm
Điểm
và
yêu
cầu
nhà
cầm
quyền
Bắc
kinh
trao
trả
lại
nền
độc
lập
cho
Tây
Tạng.
Ngày
9
tháng
10
năm
1991,
trong
khi
phát
biểu
tại
đại
học
Yale,
Hoa
Kỳ,
Ngài
bày
tỏ
ý
định
muốn
trở
về
thăm
Tây
Tạng
để
đích
thân
đánh
giá
tình
hình
chính
trị
nơi
ấy.
Ngài
nói:
''Tôi
thật
sự
lo
lắng
vì
tình
cảnh
bạo
động
có
lẽ
sẽ
bùng
nỗ.
Tôi
muốn
làm
cái
gì
đó
để
chận
đứng
lại...
chuyến
viếng
thăm
của
tôi
sẽ
là
một
cơ
hội
mới
để
làm
tăng
thêm
sự
cảm
thông
và
tạo
ra
một
nền
tảng
để
giải
quyết''.
6.
Các
giải
thưởng
:
Từ
chuyến
viếng
thăm
phương
Tây
đầu
tiên
của
Ngài
vào
năm1973,
một
số
trường
đại
học
và
viện
nghiên
cứu
đã
trao
tặng
Ngài
những
Giải
thưởng
về
Hòa
bình
(Peace
Award)
và
Bằng
Tiến
sĩ
danh
dự
(honorary
Doctorate
Degree)
để
tuyên
dương
những
tác
phẩm
xuất
sắc
của
Ngài
viết
về
triết
học
Phật
giáo,
giải
pháp
cho
những
xung
đột
của
quốc
tế,
vấn
đề
nhân
quyền
và
môi
sinh
toàn
cầu.
Trong
lần
trao
giải
thưởng
cho
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
tại
Ủy
Hội
Nhân
quyền
Raoul
Wallenberg,
dân
biểu
Mỹ
ông
Tom
Lantos
đã
nói:
"sự
đấu
tranh
dũng
cảm
của
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
đã
tạo
ra
một
sự
chú
ý
đặc
biệt
về
nhân
quyền
và
hòa
bình
thế
giới.
Sự
kiên
trì
đấu
tranh
của
Ngài
để
chấm
dứt
khổ
đau
cho
dân
tộc
Tây
Tạng
qua
những
cuộc
đàm
phán
hòa
bình
và
hòa
giải".
7.
Giải
thưởng
Nobel
Hòa
Bình
năm
1989
:
Ủy
ban
Hòa
Bình
Na
Uy
quyết
định
trao
tặng
Giải
thưởng
Nobel
Hòa
Bình
(Peace
Prize)
cho
Ngài
vào
năm
1989
sau
khi
được
cả
thế
giới
tán
dương
và
tán
thành,
ngoại
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
lãnh
giải
thưởng
Nobel
Hòa
bình
năm
1989
trừ
Trung
Hoa.
Trong
quyết
định
ấy
có
đoạn
viết:
"Ủy
ban
muốn
nhấn
mạnh
rằng
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
với
sự
đấu
tranh
cho
tự
do
cho
Tây
Tạng
vẫn
kiên
quyết
không
sử
dụng
bạo
lực.
Ngài
đã
ủng
hộ
giải
pháp
hòa
bình
dựa
trên
tinh
thần
khoan
dung
và
tôn
trọng
lẫn
nhau
để
bảo
vệ
lịch
sử
và
tài
sản
văn
hóa
của
con
người''.
Vào
ngày
10
tháng
12
năm
1989,
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
đã
tiếp
nhận
giải
thưởng
hòa
bình
trên
tinh
thần
nhân
danh
những
người
bị
đàn
áp
ở
khắp
mọi
nơi,
tất
cả
những
ai
đấu
tranh
cho
tự
do
và
hòa
bình
thế
giới
và
đặc
biệt
là
nhân
dân
Tây
Tạng.
Trong
lời
phát
biểu
tại
buổi
lễ
nhận
giải,
Ngài
đã
nói:
''Giải
thưởng
đã
tái
xác
nhận
một
lần
nữa
lòng
quyết
tâm
của
chúng
tôi
rằng
chân
lý,
lòng
dũng
cảm
và
quyết
tâm
của
chúng
tôi
như
là
những
vũ
khí,
Tây
Tạng
sẽ
được
tự
do.
Cuộc
đấu
tranh
của
chúng
tôi
vẫn
phải
theo
đuổi
đường
hướng
bất
bạo
động
và
loại
bỏ
hận
thù''
("The
prize
reaffirms
our
conviction
that
with
truth,
courage
and
determination
as
our
weapons,
Tibet
will
be
liberated.
Our
struggle
must
remain
nonviolent
and
free
of
hatred").
8.
Tiếp
xúc
với
Đông
&
Tây
:
Từ
năm
1967,
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
đã
khởi
hàng
loạt
chuyến
viếng
thăm,
đến
nay
đã
được
46
quốc
gia.
Vào
mùa
thu
năm
1991,
Ngài
đến
thăm
vùng
Baltic
khi
nhận
được
lời
mời
của
Tổng
thống
Lithuania,
ông
Vytautas
Landsbergis,
và
Ngài
đã
trở
thành
vị
khách
ngoại
quốc
đầu
tiên
đọc
diễn
văn
tại
quốc
hội
của
Lithuania.
Ngài
đã
gặp
đức
Giáo
Hoàng
Paul
đệ
lục
tại
Vatican
vào
năm
1973
và
đức
Giáo
Hoàng
John
Paul
đệ
nhị
vào
năm
1980
tại
Rome
và
các
năm
khác
là
1980,
1982,
1986,
1988
và
1990.
Sau
đây
là
bản
liệt
kê
danh
sách
các
quốc
gia
mà
Đức
Đạt
Lai
Lạt
đã
viếng
thăm:
Argentina
1992,
1999;
Úc
Đại
Lợi:
1982,
1992,
1996;
Áo
quốc:
1973,
1983,
1986,
1989,
1991,1992,
1993,
1995,
1998;
Bỉ:
1973,
1990,
1991,
1994,
1999;
Bulgaria
1991;
Buryat
Autonomous
1991,
1993;
Brazil,
1992,
1999;
Canada
1980,
1990,
1993;
Chile
1992,
1999;
Costa
Rica
1989;
Czechkoslvakia
1990;
Đan
Mạch:
1973,
1991,
1996;
Estonia
1991;
Phần
Lan:
1988,
1996,
1998;
Pháp:
1982,
1986,
1988,
1989,
1990,
1991,
1992,
1993,
1994,
1998;
Đức:
1973,
1982,
1983,
1984,
1986,
1987,
1988,
1989,
1990,
1991,1992,1994,
1995,
1996,
1998,
1999;
Greece
1979;
Hungary
1982,
1989,
1992,
1993.
1996;
Indonesia
1982;
Israel
1994,
1999;
Italy
1982,
1986,
1988,
1989,
1991,
1994,
1996,
1999;
Nhật
Bản:
1967,
1978,
1980,
1984,1994,
1995,
1998;
Latvia
1991;
Liechtenstein
1991;
Lithunia
1991;
Mã
Lai:
1982;
Mexico
1989
;
Mông
Cổ:
1979,
1982,
1991,
1994;
Nepal
1981;
Tân
Tây
Lan:
1992,
1996;
Na
Uy:
1973,
1989,
1991,
1996;
Cộng
Hòa
Nhân
Dân
Trung
Hoa:
1954;
Hòa
Lan:
1993;
Cộng
Hòa
Ấn
Độ:
1956,
1959
(cũng
là
nơi
Ngài
trú
ngụ
hiện
nay);
Cộng
Hòa
Ái
Nhĩ
Lan:
1973,
1991;
Singapore:
1982
;
Tây
Ban
Nha:
1982,
1994
;
Nam
Phi:
1996;
Thụy
Điển:
1973,
1988,
1990,
1991,
1996;
Thụy
Sĩ:
1973,
1974,
1974,
1983,
1985,
1987,
1988,
1990,
1991,1994,
1995,
1996,
1998;
Thái
Lan:
1967,
1972,
1993;
Hà
Lan
1973,
1986,
1990,1994;
Tòa
thánh
Vatican:
1973,
1981,
1984,
1988,
1990,
1991,
1996;
Thổ
Nhĩ
Kỳ:
1983;
Anh
quốc:
1973,
1981,
1984,
1988,
1991,1993,
1994,
1996,
1999;
Liên
Xô
cũ:
1991,1994;
Hiệp
chủng
quốc
Hoa
Kỳ:
1979,
1980,
1981,
1984,
1987,
1990,
1991,
1992,
1993,
1994,
1995,
1996,
1998,
1999.
9.
Những
nhà
lãnh
đạo
mà
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
tiếp
xúc:
Năm
1999
:
Ngày
16
tháng
6:
ông
Josckha
Fischer,
Bộ
trưởng
ngoại
giao
Đức
Ngày
12
tháng
5:
ông
Robin
Cook,
Bộ
trưởng
ngoại
giao
Anh
Ngày
13tháng
5:
ông
Tony
Blair,
Thủ
tướng
Anh
Ngày
4
tháng
5:
ông
Jean
Luc
DEHAENE,
Thủ
tướng
Bỉ
Ngày
14
tháng
4:
ông
Edwardo
Frei,
Tổng
thống
cộng
hòa
Chile
Ngày
7
tháng
4:
ông
Fernando
Henrique
Cardoso,
Tổng
thống
Brazil
Năm
1998:
Ngày
8
tháng
12:
ông
Jacques
Chirac,
Tổng
Thống
Pháp
Ngày
8
tháng
12:
ông
Lionel
Jospin,
Thủ
tướng
Pháp
Ngày
8
tháng
12:
ông
Kofi
Annan,
Tổng
Thư
Ký
Liên
Hợp
Quốc
Ngày
10
tháng
12:
ông
William
J.
Clinton,
Tổng
thống
Mỹ
Ngày
10
tháng
12:
ông
Albert
Gore,
Phó
Tổng
thống
Mỹ
Ngày
10
tháng
12:
bà
Madeleine
Alright,
Ngoại
trưởng
Mỹ
Ngày
20
tháng
12:
ông
Claes
Anderson,
Bộ
Trưởng
Văn
Hóa,
Phần
Lan
Ngày
16
tháng
12:
bà
Elisabeth
Guigou,
Bộ
Trưởng
Tư
Pháp,
Pháp
quốc
Ngày
9
tháng
12:
ông
Wolfgang
Schuessel,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao,
Áo
Năm
1997
Ngày
23
tháng
4:
bà
Madeleine
Albright,
Ngoại
trưởng
Mỹ
Ngày
23
tháng
4:
ông
William
J.
Clinton,
Tổng
thống
Mỹ
Ngày
23
tháng
4:
ông
Albert
Gore,
Phó
Tổng
thống
Mỹ
Ngày
24
tháng
3:
ông
Lin
Feng-cheng,
Bộ
Trưởng
Nội
Vu,
Đài
Loan
Ngày
26
tháng
3:
ông
Lien
Chan,
Phó
Tổng
Thống
Đài
Loan
Ngày
27
tháng
3:
ông
Lee
Teng-hui,
Tổng
Thống
Đài
Loan
Ngày
26
tháng
9:
ông
John
Howard,
Thủ
tướng
Úc
Năm
1996
Ngày
23
tháng
10:
ông
Van
Mierlo,
Ngoại
Trưởng
Phần
Lan
Ngày
23
tháng
10:
Tiến
sĩ
Klaus
Hansch,
Chủ
tịch
Nghị
Viện
Châu
Âu
Ngày
23
tháng
10:
ông
Jacques
Santer,
Chủ
tịch
Liên
Minh
Châu
Âu
Ngày
29
tháng
10:
ông
Jacues
Toubon,
Bộ
Trưởng
Tư
Pháp,
Pháp
quốc
Ngày
26
tháng
9:
ông
John
Howard,
Thủ
tướng
Úc
Ngày
14
tháng
9:
ông
Alexander
Downer,
Ngọai
trưởng
Úc
Ngày
11
tháng
9:
ông
Jim
Bolger,
Thủ
tướng
Tân
Tây
Lan
Ngày
11
tháng
9:
ông
Don
McKinnon,
Phó
Thủ
tướng
Tân
Tây
Lan
Ngày
22
tháng
6:
ông
Nelson
Mandela,
Tổng
thống
Nam
Phi
Ngày
17
tháng
7:
ông
Malcom
Rifkind,
Ngoại
trưởng
Anh
Ngày
28
tháng
5:
ông
Bjore
Godal,
Ngoại
trưởng
Na
Uy
Ngày
27
tháng
5:
ông
Pekka
Haavisto,
Bộ
Trưởng
Môi
Sinh,
Phần
Lan
Ngày
23
tháng
5:
bà
Lena
Hjelm-Walln,
Ngoại
Trưởng
Thụy
Điển
Ngày
20
tháng
5:
Giáo
hoàng
Pope
John
Paul
II
Ngày
15
tháng
5:
ông
Niels
Petersen,
Ngoại
Trưởng
Đan
Mạch
Ngày
30
tháng
4:
Hoàng
tử
Albert,
xứ
Monaco
Ngày
26
tháng
9:
ông
John
Howard,
Thủ
tướng
Úc
Đức
Dalai
lama
và
ông
John
Howard,
Thủ
tướng
Úc
Năm
1995
Ngày
13
tháng
9:
ông
William
J.
Clinton,
Tổng
Thống
Mỹ
Ngày
13
tháng
9:
ông
Albert
Gore,
Phó
Tổng
Thống
Mỹ
Ngày
4
tháng
5:
Tiến
sĩ
Klaus
Kinkel,
Ngoại
trưởng
Đức
Ngày
23
tháng
6:
ông
Flavio
Cotti,
Ngoại
Trưởng
Thụy
Sĩ
Năm
1994
Ngày
8
tháng
10:
bà
Gro
Harlem
Brundtland,
Thủ
Tướng
Na
Uy
Ngày
3
tháng
7:
bàVioleta
Chamorro,
Tổng
Thống
Nicaragua
Ngày
17
tháng
6:
ông
Silvio
Berlusconi,
Thủ
Tướng
Italy
Ngày
16
tháng
6:
ông
Oscar
Luigi
Scalfaro,
Tổng
Thống
Italy
Ngày
9
ttháng
6:
ông
Marin
Gonzalez,
Phó
Chủ
Tịch
Liên
Minh
Châu
Âu
Ngày
7
tháng
6:
ông
Jean
Luc
Dehene,
Thủ
Tướng
Bỉ
Ngày
6
tháng
6:
ông
Pleter
Kooilmans,
Ngoại
Trưởng
Hà
Lan
Ngày
5
tháng
6:
ông
Wim
Kok,
Tổng
Trưởng
Tài
chính
Hà
Lan
Ngày
29
tháng
4:
Giáo
sư
Karl-Hans
Laermann,
Tổng
Trưởng
Giáo
Dục
Đức
Ngày
28
tháng
4:
ông
William
J.
Clinton,
Tổng
Thống
Mỹ
Ngày
28
tháng
4:
ông
Albert
Gore,
Phó
Tổng
Thống
Mỹ
Ngày
21
tháng
3:
ông
Yossi
Sarid,
Bộ
Trưởng
Môi
Sinh
Israel
Năm
1993
Ngày
16
tháng
11:
ông
Francois
Mitterrand,
Tổng
Thống
Pháp
Ngày
16
tháng
11:
ông
Alain
Juppe,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Pháp
Ngày
14
tháng
11:
ông
Philippe
Douste
Blazy,
Bộ
Trưởng
Y
Tế
Pháp
Ngày
30
tháng
10:
ông
Alain
Carignon,
Tổng
Trưởng
Thông
Tin
Pháp
Ngày
28
tháng
10:
ông
Michel
Barnier,
Bộ
Trưởng
Môi
Sinh
Pháp
Ngày
14
tháng
6:
Tiến
sĩ
Thomas
Klestil,
Tổng
Thống
Áo
Ngày
14
tháng
6:
Tiến
sĩ
Alois
Mock,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Áo
Ngày
14
tháng
6:
Tiến
sĩ
Nikolaus
Michalek,
Bộ
Trưởng
Tư
Pháp
Áo
Ngày
15
tháng
6:
ông
Franz
Vranitzky,
Thủ
Tướng
Áo
Ngày
15
tháng
6:
Tiến
sĩ
Erhard
Buiek,
Phó
Thủ
Tướng
Áo
Ngày
29
tháng
6:
bà
Barbara
McDougal,
Bộ
Trưởng
Nội
Vụ
Canada
Ngày
12
tháng
5:
ông
Douglas
Hurd,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Anh
Ngày
27
tháng
4:
ông
William
J.
Clinton,
Tổng
Thống
Mỹ
Ngày
27
tháng
4:
ông
Albert
Gore,
Phó
Tổng
Thống
Mỹ
Ngày
26
tháng
4:
ông
Warren
Christopher,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Mỹ
Năm
1992
Ngày
6
tháng
4:
ông
Gareth
Evan,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Úc
Ngày
8
tháng
4:
ông
Paul
Keating,
Thủ
Tướng
Úc
Ngày
14
tháng
4:
ông
Don
McKinnon,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Tân
Tây
Lan
Ngày
11
tháng
4:
ông
Carlos
Menem,
Tổng
Thống
Argentina
Ngày
17
tháng
5:
ông
Patiricio
Aylwin,
Tổng
Thống
Chile
Ngày
16
tháng
7:
Tiến
sĩ
Thomas
Klestil,
Tổng
Thống
Áo
Ngày
26
tháng
7:
ông
Franz
Vranitzky,
Thủ
Tướng
Áo
Năm
1991
Ngày
22
tháng
3:
bà
Mary
Rohinson,
Tổng
Thống
Ái
Nhĩ
Lan
Ngày
16
tháng
4:
ông
George
Bush,
Tổng
Thống
Mỹ
Ngày
16
tháng
8:
His
Highness
Hans
Adam,
Prince
of
Lichtenstein
Ngày
19
tháng
8:
ông
Rene
Felber,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Thụy
Sĩ
Ngày
16
tháng
8:
ông
Ronald
Dumas,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Pháp
Ngày
2
tháng
9:
ông
Kurt
Waldheim,
Tổng
Thống
Áo
Ngày
2
tháng
9:
ông
Alois
Mock,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Áo
Ngày
3
tháng
9:
ông
Franz
Vranitzky,
Thủ
Tướng
Áo
Ngày
29
tháng
9:
ông
Vytautas
Landsbergis,
Tổng
Thống
Lithaunia
Ngày
30
tháng
9:
ông
Gediminas
Vagnorius,
Thủ
Tướng
Lithaunia
Ngày
1
tháng
10:
ông
Kazimieras
Motieka,
Phó
Tổng
Thống
Lithaunia
Ngày
2
tháng
10:
ông
Anatolijs
Gorbunvos,
Tổng
Thống
Lavtia
Ngày
3
tháng
10:
ông
Andregs
Krastins,
Phó
Tổng
Thống
Lavtia
Ngày
4tháng
10:
ông
Bronius
Kuzmickas,
Phó
Tổng
Thống
Estonia
Ngày
5tháng
10:
ông
Zhelyn
Zhelev,
Tổng
Thống
Bulgaria
Ngày
2
tháng
12:
ông
John
Major,
Thủ
Tướng
Anh
Ngày
4
tháng
12:
bà
Margaretha
af
Ugglas,
Tổng
Thống
Thụy
Điển
Ngày
5
tháng
12:
ông
Uffe
Ellemann-Jensen,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Đan
Mạch
Ngày
8
tháng
12:
ông
Torvald
Stoltenberg,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Na
Uy
Năm
1990
Ngày
2
tháng
2:
ông
Vaclav
Havel,
Tổng
Thống
Czechoslovakia
Ngày
24
tháng
24:
Hon
Lizin,
Bộ
Trưởng
thương
Mại
và
Hợp
Tác
Pháp
Ngày
1
tháng
6:
Đức
Giáo
hoàng
John
Paul
II
Ngày
2
tháng
9:
ông
Gerry
Weiner,
Ngoại
Trưởng
Canada
Ngày
10
tháng
9:
ông
H.
van
den
Broek,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Hà
Lan
Ngày
7
tháng
10:
ông
Richard
von
Weizsacher,
Tổng
Thống
Đức
Năm
1989
Ngày
27
tháng
6:
Tiến
sĩ
Oscar
Arias,
Tổng
Thống
Costa
Rica
Ngày
3
than1g
7:
ông
Carlos
Salinas
de
Gortari,
Tổng
Thống
Mexico
Ngày
6
tháng
12:
ông
Jurgen
Wohlrabe,
Tổng
Thống
Tây
Đức
Ngày
9
tháng
12:
ông
Kjell
Magne
Bondevik,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Na
Uy
Ngày
10
tháng
12:
Vua
Olav,
Na
Uy
Ngày
11
tháng
12:
ông
Jan
P.
Syse,
Thủ
Tướng
Na
Uy
Năm
1986
Ngày
13
tháng
5:
Tiến
sĩ
Rudolf
Kirchschlaeger,
Tổng
Thống
Áo
Ngày
27
tháng
5:
ông
Jacques
Chirac,
Thủ
Tướng
Pháp
Năm
1982
Ngày
27
tháng
7:
ông
Tunku
Abdul
Rahman,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Mã
Lai
Ngày
26
tháng
7:
ông
A.
Ratu
Perwiranegasa,
Tổng
Trưởng
Tôn
giáo
Mã
Lai
Ngày
2
tháng
8:
Ông
Adam
Malik,
Phó
Tổng
Thống
Nam
Dương
Năm
1980
Ông
Suzuki
Zenko,
Thủ
Tướng
Nhật
Bản
Năm
1978
Bà
J.R.
Jayewardene,
Phu
nhân
Tổng
Thống
Sri
Lanka
Năm
1973
Ngày
1
tháng
9:
Đức
Giáo
Hòang
Pual
V
Ngày
10
tháng
10:
ông
Erskine
Chidlers,
Tổng
Thống
Ái
Nhĩ
Lan
Ngày
10
tháng
10
ông
Lien
Cosgrade,
Thủ
Tướng
Ái
Nhĩ
Lan
Ngày
10
tháng
10:
ông
Frank
Aiken,
Bộ
Trưởng
Ngoại
giao
Ái
Nhĩ
Lan
Năm
1967
Ngày
13
tháng
11:
ông
Field
Marshal
T.
Kittikachorn,
Thủ
Tướng
Thái
Lan
Ngày
14
tháng
11:
Vua
Bhumibol
Adulyadej,
Thái
Lan
Năm
1956
Tất
cả
các
vị
Thủ
Tướng,
Tổng
Thống,
Phó
Tổng
Thống
Ấn
Độ
Năm
1954
Mao
Trạch
Đông,
Chu
Ân
Lai
và
Đặng
Tiểu
Bình
10.
Một
Tu
sĩ
Phật
Giáo
bình
thường
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thường
nói
rằng:
''Tôi
chỉ
là
một
tu
sĩ
Phật
giáo
bình
thường,
không
hơn,
không
kém''
(I
am
just
a
simple
Buddhist
monk
-
no
more,
no
less).
Sống
trong
một
tịnh
thất
nhỏ
ở
Dharamsala,
Ngài
thức
dậy
vào
lúc
4
giờ
sáng,
ngồi
thiền,
rồi
tiếp
tục
làm
việc
theo
thời
khóa
biểu
của
văn
phòng
chính
phủ,
tiếp
khách
và
diễn
giảng
giáo
lý
cho
các
khóa
tu
hoặc
chứng
minh
các
đại
lễ.
11.
Tác
phẩm
của
Ngài
:
Mặc
dù
bận
rộn
với
nhiều
công
tác
của
chính
phủ
và
hoằng
Pháp,
nhưng
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
cũng
dành
những
thời
gian
nhất
định
để
viết
những
tác
phẩm
Phật
học,
lịch
sử,
tự
truyện...
để
phổ
biến
những
tinh
túy
trong
giáo
lý
của
Phật
Đà.
Khởi
viết
cuốn
''Đất
nước
và
Con
người
của
Tôi''
(My
Land
and
My
People)
vào
năm
1964
sau
khi
Ngài
đến
tị
nạn
tại
Ấn
Độ,
tính
đến
nay
đã
có
trên
dưới
50
tác
phẩm
các
loại,
do
chính
ngài
tự
tay
viết
hoặc
do
đệ
tử
ghi
chép
những
bài
giảng
của
Ngài
hoặc
họ
viết
về
ngài.
Đáng
chú
ý
trong
số
tác
phẩm
này
là:
"Khai
mở
con
mắt
trí
tuệ"
(The
opening
of
the
Wisdom
eye,
xuất
bản
năm
1972;
"Phật
giáo
của
Tây
Tạng''
(The
Buddhism
of
Tibet,
xb
năm
1975);
"Dalai
Lama:
chính
sách
của
Lòng
Từ"
(The
Dalai
Lama:
A
Policy
of
Kindness,
xb
năm
1990);
"Tự
do
nơi
lưu
đầy''
(Free
in
Exile,
xb
năm
1991);
"Ý
nghĩa
của
cuộc
sống''
(The
meaning
of
Life,
xb
năm
1992)
"Tia
sáng
trong
bóng
đêm"
(Flash
of
Lightning
in
the
Dark
of
Night,
xb
năm
1994);
''Cuộc
đối
thoại
về
trách
nhiệm
chung
và
giáo
dục
''(Dialogues
on
Universal
Responsibility
and
Education,
xb
năm
1995);
"Sức
mạnh
của
lòng
từ''
(The
power
of
compassion,
xb
năm
1995);
"Con
đường
giải
thoát''
(The
path
of
Enlightenment,
xb
năm
1995);
"Bạo
lực
và
Lòng
từ
bi/
sức
mạnh
của
Phật
giáo"
(Violence
and
Compassion/
Power
of
Buddhism,
xb
năm
1995);
"Bốn
Chân
Lý
Mầu
Nhiệm"
(The
Four
Noble
Truths,
xb
năm
1998);
"Nghệ
thuật
hạnh
phúc"
(The
art
of
Happiness,
xb
năm
1998).,"Mật
Tông
Kalachkra
(KALACHAKRA
TANTRA,
Xb
1999);
"ý
Nghĩa
cuộc
cuộc
sống"(
THE
MEANING
OF
LIFE,
Xb
1999);
"
Khoa
học
Tâm
Linh,
cuộc
đối
thoại
của
đông
&Tây"
(MIND
SCIENCE,An
East-West
Dialogue,
xb
1999);
"Ngủ,
nằm
mơ
và
Chết,
một
cuộc
khám
phá
của
Tâm
thức"
(SLEEPING,
DREAMING,
AND
DYING,
An
Exploration
of
Consciousness,
Xb
1999)
"Thế
giới
của
PG
Tây
Tang,
khái
quát
về
triết
lý
và
thực
hành"
(THE
WORLD
OF
TIBETAN
BUDDHISM,
An
Overview
of
Its
Philosophy
and
Practice,
Xb
1999
)
.v.v...
(địa
chỉ
liên
lạc
để
thỉnh
sách
của
Ngài
là:
Snow
Lion,
PO
Box
6483.
Thaca,
NY
14851,
USA.
Tel:
001-607-273-8519.
Fax:
001-607-273-8508.
e-mail:
Snow
Lion.
http://www.snowlionpub.com.
Wisdom
Publication,
361
Newbury
Street,
Boston,
Ma.
02115,
USA.
Tel:
001-617-536-3358,
Fax:
001-617-536-1897. http://www.snowlionpub.com;
Dharma
Publishing,
2910
San
Pablo
Ave,
Berkeley,
CA
94702,
USA.
Tel:
001-510-548-5407.
Fax:
001-510-548-2230.
Wisdom
Books,
402
Hoe
Street,
London
E17
9AA,
UK.
Tel:
0044-181-520-5588.
Fax:
0044-181-520-0932.
http://www.demon.co.uk/wisdom.
Địa
chỉ
liên
lạc
với
tác
giả:
His
Holiness
the
Dalai-Lama's
Religious
and
Cultural
Society.
Gangchen
Kyishong,
Dharamsala
176215,
District
Kangra,
Himachal
Pradesh
INDIA.
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
đang
thuyết
pháp
tại
sân
vận
động
Sydney,
Úc
châu
12.
Kết
luận:
Như
sự
mô
tả
của
giáo
sư
Eric
Sharpe
thánh
nhân
là
người
suốt
đời
chú
trọng
đến
việc
mang
lại
an
lạc
cho
con
người
và
cuộc
đời.
Trong
khi
theo
đuổi
lý
tưởng
ấy,
họ
thường
phải
hứng
chịu
những
trở
ngại,
đau
đớn
hoặc
nguy
hiểm
đến
sinh
mạng.
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
14
đã
hiện
thân
cho
những
gì
đã
được
mô
tả
ấy.
Tuy
nhiên,
theo
các
nhà
phân
tích,
sự
xuất
hiện
của
ngài
như
là
một
định
mệnh,
đã
thừa
kế
tước
vị
Dalai
Lama
ở
trong
một
giai
đoạn
bấp
bênh
nhất
trong
toàn
bộ
lịch
sử
cao
quý
này.
Hiện
nay,
vẫn
trong
thân
phận
người
tị
nạn
lưu
vong,
tuy
nhiên,
Ngài
rất
lạc
quan
và
hy
vọng
cho
Chân
dung
Đức
Đạt
Lai
Lạt
Ma
thứ
14
tương
lai
độc
lập
và
tự
do
cho
thế
giới
và
xứ
sở
của
Ngài
như
lời
Ngài
đã
nhắc
tới
trong
bức
Thông
Điệp
2000:
"Thế
kỷ
20
đầy
xung
đột
và
chiến
tranh.
Từng
bước,
chúng
ta
bảo
đảm
thế
kỷ
tới
sẽ
có
đặc
tính
bất
bạo
động
và
đối
thoại,
là
điều
kiện
tiên
quyết
để
cùng
hiện
hữu
bên
nhau
trong
hòa
bình".
"Xã
hội
nào
cũng
có
những
khác
biệt
và
xung
đột.
Tuy
vậy,
chúng
ta
cần
phát
triển
niềm
tin
tưởng
rằng:
đối
thoại
và
tình
bạn
là
một
đường
lối
chính
chắn
để
tránh
bạo
động.
Trước
thiên
kỷ
mới,
điều
mọi
người
cần
thực
hiện
là
tăng
cường
tinh
thần
trách
nhiệm
đối
với
quốc
tế".
Tổng
hợp
theo
các
tài
liệu:
-
Mary
craig
(1997)
Kundun,
A
biography
of
the
Family
of
the
Dalai
Lama,
Harper
Collins
Publishers,
London
-
Roger
Hicks
&
Ngakpa
Chogyam
(1984)
Great
Ocean,
An
Authories
Biography
of
the
Buddhist
Monk
Tenzin
Gyatso
His
Holiness
The
14th
Dalai
Lama,
Element
Books,
Great
Britain.
-
Tenzin
Gyatso
Dalai
Lama
(1998),
Freedom
in
Exile,
Snow
Lion
Publications,
New
York.
Source: quangduc.com