đồng
thời, đã lưu lại cho nền văn học Phật giáo nhiều kiến trúc mỹ thuật, hội
họa rất nổi tiếng. Tuy nhiên, khi nhà Tây Sơn thống nhất đất nước, kéo
quân từ Nam ra diệt Nguyễn thì đoàn quân lính nầy đã hủy diệt đi những
công trình quý báu đó. Bi ký, chứng liệu bị thất tung. Và, Phật giáo đã
mất đi nhiều vốn liếng quý giá của mình. Và cũng từ đó, nền sử liệu có
vài phần phiến diện.
Và, nếu ở đàng Ngoài,
thiền sư Chân Nguyên được xem như là nhân vật then chốt cho cuộc phục
hưng Chánh pháp ở đàng Ngoài ; thì ở đàng Trong, Tỗ Liễu Quán cũng là
nhân vật quan trọng đặc biệt về vấn đề lãnh đạo Phong trào Phục hưng
Phật giáo ở đàng Trong vậy.
Vậy, chúng ta hãy đi
vào một vài nét đơn thuần về cuộc đời tu học, hành hóa của
Tổ Liễu
Quán như
thế nào.
Thân
thế :
Ngài thọ sanh năm
1670, tại làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, miền Trung nước
Việt, trong một gia đình không mấy được khá giả. Mồ côi mẹ khi ngài vừa
lên sáu tuổi.
Năm 1682, được 12
tuổi, theo cha đi chùa Hội Tôn lễ Phật, gặp thiền sư Tế Viên, ngài cảm
mến và xin phụ thân xuất gia tại đây. Ngài rất được thiền sư Tế Viên
thương mến và hết lòng dạy dỗ. Những năm hành điệu tại chùa Hội Viên,
ngài chỉ làm những công việc nhỏ nhặt như gánh nước cũng như hai thời
khóa công phu và luật tiểu Sa di, ... Tu tập ở đây được chín năm thì
thiền sư Tế Viên viên tịch, ngài tròn 19 tuổi. Sau khi chu tất tang lễ
của thầy, ngài từ giả quý huynh đệ đồng tu ở đây rồi một mình lên đường
tìm thầy học đạo tiếp tục.
Năm 1690, vượt Trường
sơn ra đất Thuận Hóa, đầu sư với Giác Phong lão tổ ở chùa Thiên Thọ, núi
Hàm Long (tức Phật học đường Báo Quốc bây giờ). Được một năm thì phụ
thân thọ bệnh, ngài xin phép được trở về nhà để săn sóc. Hằng ngày vào
rừng lo đốn củi đổi gạo và thuốc men để chăm sóc cho phụ thân. Bốn năm
sau, phụ thân mãn phần, lo tang chay và giao hết nhà cửa hương hỏa cho
bà con quyến thuộc xong xuôi, ngài tiếp tục lên đường học đạo.
Sự
nghiệp tu học :
Năm 1695, nghe thiền
sư Thạch Liêm tổ chức giới đàn ở chùa Thiền Lâm, cố đô Huế, ngài xin cầu
thọ Sa di thập giới với đạo hiệu
thượng
Liễu hạ Quán húy Thiệt Diệu, thuộc dòng Lâm tế chánh tông đời thứ 35.
Năm 1697, thiền sư Từ
Lâm làm Đàn đầu Hòa thượng, ngài tròn 27 tuổi được tấn đàn Tỳ kheo giới.
Đắc giới xong, ngài ở lại đây hai năm để cầu học những giới pháp đã tho
chọ được thông suốt rồi lại tiếp tục tham cầu Phật pháp với các bậc tôn
sư khắp nơi.
Năm 1672, ngài gặp
thiền sư Tử Dung tại chùa Ấn Tôn (tức
tổ đình Từ Đàm bây giờ),
ở núi Long sơn, cố đô Huế, tổ Tử Dung dạy cho ngài tham cứu câu thoại
đầu :
-
“Vạn pháp
quy nhất, nhất quy hà xứ ?”.
Nghĩa là :
Muôn pháp về một, một
ấy đi về đâu ?
Từ câu thoại
đầu nầy, làm cho ngài ngày đêm suy nghĩ miên mang. Cuối cùng, ngài lại
phải trở về chốn cũ Phú Yên để tịnh tu và tham cứu cho được câu mà tổ đã
trao. Suốt năm năm liền mà vẫn chưa làm bung vỡ được thâm ý của câu
thoại đầu, lòng tự hổ thẹn. Một hôm, nhân đọc cuốn Truyền Đăng Lục, khi
đọc đến câu :
“Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hồi xứ”
Nghĩa là : Chỉ vật mà truyền tâm,
chính vì vậy mà người ta không hiểu nổi ; thoạt nhiên ngài tỏ ngộ và
buông sách xuống với một tâm niệm an lạc.
Năm 1708, ngài tìm ra
núi Long Sơn để gặp tổ Tử Dung và trình bày ý của ngài cho Tổ rõ về công
phu đã tu tập trong mấy năm qua.
Tổ bảo :
-
“Hố thẳm buông tay,
Một
mình cam chịụ,
Chết đi sống lại,
Ai
dám chê mình ?”.
Ngài vỗ tay cười ha
hả, Tổ liền nghiêm nét mặt, nói :
-
“Chưa được”.
Ngài nói :
-
“Bình thùy nguyên thị thiết”
Nghĩa là :
Trái cân vốn là sắt,
Tổ lắc đầu : Sáng hôm
sau, tổ thấy ngài đi ngang, liền gọi vào và bảo :
-
“Chuyện ngày hôm qua chưa xong, hôm nay hãy nói lại xem sao”
Ngài đọc :
-“ Sớm biết đèn là lửa,
Cơm chín đã lâu rồi
!”.
Tổ nghe xong lấy làm
đẹp ý và hết lời khen ngợi.
Năm 1712,
khi Tổ và ngài gặp nhau lần thứ ba nhân cùng đi dự đại lễ Toàn Viện ở
tỉnh Quảng Nam, ngài đem trình lên tổ Tử Dung bài kệ Tắm Phật. Tổ hỏi :
-
“Tổ tổ tương truyền,
Phật Phật thọ thọ,
Vị
thẩm truyền thọ cá thập ma ?”
Nghĩa là :
Tổ truyền cho Tổ,
Phật truyền cho Phật,
Chẳng hay các ngài
truyền cho nhau cái gì ?
Ngài liền đáp :
-
“Thạch duẫn trừu điều trường nhất trượng
Quy
mao phủ phất trọng tam cân”.
Nghĩa là :
Búp măng trên đá dài
một trượng
Cây chổi lông gà nặng
ba cân.
Tổ dạy tiếp :
-
“Cao cao sơn thượng hành thuyền,
Thâm thâm hải đề tẩu mã”.
Nghĩa là :
Chèo
thuyền trên núi cao,
Cởi ngựa dưới đáy
biển.
Ngài đáp :
-
“Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống,
Một
huyền cầm tử tận nhật đàn”.
Nghĩa là :
Gãy sừng trâu đất
rống thâu đêm,
Dây dứt đàn tranh
chơi suốt sáng.
Đến đây thì tổ Tử Dung
rất bằng lòng về sự tu tập của ngài.
Hoằng
hóa độ sanh :
Ngài đắc pháp và được
truyền tâm pháp vào lúc ngài vừa 42 tuổi. Nếu thiền sư Chân Nguyên được
xem là nhân vật chủ chốt để phục hoạt Phật giáo ở đàng Ngoài
(Chúa Trịnh),
thì tổ Liễu Quán là nhân vật quan trọng tiêu biểu cho công nghiệp phục
hưng, xiển dương và trực tiếp lãnh đạo Phật giáo ở đàng Trong
(Chúa Nguyễn).
Trước sau, ngài đã gặp
và tham khảo cũng như được tổ Tử Dung ấn chứng diệu pháp là ba lần :
- Lần thứ
nhất năm 1702,
- Lần thứ
hai năm 1708, lần nầy tổ Tử Dung ấn chứng cho ngài về sự đạt ngộ chánh
pháp của Phật và cũng là năm mà ngài khai sáng tổ đình Thuyền Tôn.
- Lần thứ
ba vào năm 1712 tại đất Quảng Nam khi tổ Tử Dung và ngài cùng dự lễ Toàn
Viện, lần nầy ngài đã trình bài kệ Tắm Phật với tổ.
Ngài đã lập nhiều đạo
tràng để truyền giáo như :
- Tổ đình Thuyền Tôn ở
núi Thiên Thai, xóm Ngũ Tây, huyện Hương Thủy vào năm 1708, nhưng mãi
đến năm 1747, chúa Nguyễn Phúc Khoát mới ban biển sắc tứ cho chùa nầy;
đồng thời, Đại Hồng Chung đang được thờ tại đây cũng được đúc cùng năm
nầy, tức là năm Cảnh Hưng thứ tám.
- Tổ đình Viên Thông
sau lưng núi Ngự Bình (Chúa Nguyễn
Phúc Khoát rất sùng kính uy đức và đạo hạnh của ngài, nhiều lần thỉnh
ngài vào kinh để tham vấn giáo lý, ngài đều từ chối, vì không muốn dính
líu sự lui tới ra vào với triều đình; do đó, chúa và quần thần hay vào
tổ đình Viên Thông để hỏi đạo, nên núi nầy có tên là núi Ngự).
- Tổ đình Hội Tôn, Tổ
đình Cổ Lâm và Tổ đình Bảo Tịnh ở Phú Yên.
- Từ năm 1733 đến năm
1735, ngài đã mở liên tiếp ba Đại giới đàn để truyền trao giới pháp cho
hàng xuất gia và tại gia. Trong những đại giới đàn nầy, ngài cung thỉnh
các bậc Cao Tăng và tể quan cư sĩ ở Đế đô để chứng minh và ngoại hộ cho
Phật pháp.
- Năm 1740,
ngài làm Đàn đầu Hòa thượng cho Đại giới đàn Long Hoa ở tổ đình Thuyền
Tôn.
- Năm 1742, lúc nầy
ngài đã 72 tuổi, vì sự nghiệp Phật pháp, ngài lại phải làm Đàn đầu Hòa
thượng cho Đại giới đàn tại tổ đình Viên Thông và có đến gần bốn ngàn
người tại gia cũng như xuất gia phát nguyện thọ giới.
Một buổi
sáng đẹp trời mùa đông năm 1742, nhằm ngày 21 tháng 11 âm lịch, tại tổ
đình Viên Thông, ngài dạy đồ chúng đem bút mực ra để viết bài kệ như
sau:
Thất
thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông,
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn mang vấn tổ tông ?
Nghĩa là :
Ngoài bảy mươi năm trong
thế giới,
Không không,
sắc sắc đã dung thông,
Hôm nay nguyện
mãn về chốn cũ,
Nào phải ân cần
hỏi tổ tông?
Sau khi,
ngài làm bài kệ xong, dùng trà thì Đại chúng đảnh lễ và đứng hầu quanh
ngài. Trong chúng có vị khóc thành tiếng, ngài dạy :
- “Quý
vị đừng khóc. Chư Phật thị hiện còn nhập niết bàn, còn tôi
(tức là ngài Liễu Quán)
thì đường đi nẻo về đã rõ ràng, không việc gì mà phải khóc ...”
Mọi người
đều im lặng. Ngài căn dặn và tâm sự cùng đồ chúng một hồi lâu, ngài hỏi
:
- “Đã
đến giờ Mùi chưa ?”.
Chúng đáp :
- Dạ,
vừa đúng.
Ngài dạy :
- “Sau khi tôi đã đi rồi,
quý vị phải nghỉ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng
tu tập trí huệ, chớ nên quên lời dặn của tôi.”.
Ngài dặn dò
xong, thân ngồi kiết già và nhắm mắt thị tịch. Chúa Nguyễn Phúc Khoát
sắc làm bia ký và dựng tháp phụng thờ ngài trên núi Thiên Thai cạnh tổ
đình Thuyền Tôn, xóm Ngũ Tây với thụy hiệu : Đạo
Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng.
Tháp của ngài được xây
gần Tổ đình Thuyền Tôn, trên núi Thiên Thai. Trước khi ngài viên tịch,
ngài phú pháp cho hàng đệ tử và truyền kệ như sau:
Thiệt Tế Đại Đạo,
Tánh Hải Thanh Trừng,
Tâm Nguyên Quảng Nhuận,
Đức Bổn Từ Phong,
Giới Định Phước Tuệ,
Thể Dụng Viên Thông,
Vĩnh Siêu Trí Quả,
Mật Khế Thành Công,
Truyền Trì Diệu Lý,
Diễn Xướng Chánh Tông,
Hành Giải Tương Ưng,
Đạt Ngộ Chơn Không.
|
Tổ Liễu Quán
đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một tông phái đặc thù và linh
động, có một nền móng vững chắc ở đàng trong
(tức là từ Thanh hóa trở vào).
Trước khi tổ Liễu Quán xuất hiện, thiền phái Lâm Tế ảnh hưởng của Trung
quốc (vì có ngài Nguyên Thiều,
ngài Thạch Liêm, ngài Tử Dung, v.v..).
Chính tổ Liễu Quán đã Việt hóa tất cả từ văn hóa, kiến trúc và nghi lễ,
v. v..
Ngài có bốn vị đệ tử
lớn: Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu. Bốn ngài nầy đã tạo lập
bốn trung tâm hoằng dương chánh pháp lớn lao khắp đó đậy ở đàng Trong.
Và, từ thế kỷ thứ 18 trở về sau nầy nghiễm nhiên với danh xưng
Thiền
Phái Liễu Quán
Khi chúa Nguyễn mở
mang bờ cõi về phương Nam,
Thiền
Phái Liễu Quán
cũng đi dần theo quần chúng ở các vùng đất mới
Và từ đó, Thiền Phái
Liễu Quán cứ phát triển và lớn dần lên mãi. Những năm đầu chấn hưng Phật
giáo qua các thập niên ba mươi, bốn mươí và cận đại, thiền phái Liễu
Quán đã đóng một vai trò trọng yếu của Giáo hội.
Hằng năm, tùy theo
hoàn cảnh và thời tiết, chúng ta là hậu duệ, đều có tổ chức ngày Giổ Tổ
để kỷ niệm ân đức cao dày của Ngài, nhưng, cũng là mục đích nhắc nhở cho
đàn hậu tấn xuất gia cũng như tại gia biết về sự diễn tiến chánh pháp từ
sơ khởi cho đến lúc huy hoàng về
Thiền
Phái Liễu Quán.
Ngày giổ đầu tiên được tổ chức tại
Tổ Đình
Từ Đàm Hải Ngoại tháng Mười ta năm Canh thìn – 2000 và suy tôn Hòa
Thượng Thích Đức Niệm là Trưởng Môn phái tại Hoa Kỳ.
Năm Tân tỵ - 2001, là ngày Giổ Tổ thứ hai. Và cứ như thế, luân phiên
nhau mãi mãi. Quý Ngài cũng như quý Phật tử nên thông tin cho nhau biết
thêm về ngày Giổ Tổ nầy để trong tương lai được đông đúc và khắn khít
với nhau về tình đạo nhiều hơn.
Tín Nghĩa
sưu lục