Ông ở lại đó hơn 150 ngày, thu hút sự chú ý đầy hiếu kỳ của
dân chúng cả thành Lhasa về sự xuất hiện khác thường của mình. Đồng thời
trở thành chuyện lạ truyền tụng trong giới quý tộc và các vị chức sắc
cao cấp nhất của Tây Tạng thời ấy, bởi sự kiện: ông là người ngoại quốc
duy nhất cho đến lúc đó được pháp vương Tây Tạng trực tiếp ban pháp danh
và ấn chứng để trở thành vị Lạt ma người Việt Nam đầu tiên trong lịch
sử truyền pháp trên xứ tuyết, có thể nói là cả trong lịch sử truyền pháp
trên thế giới.
Ông là ai?
Đó là Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo đã một thân một mình xuống
bến Nhà Rồng - Sài Gòn năm 1935 để thực hiện cuộc hành hương đơn độc
trong hai năm. Khi trở về Việt Nam ông đã khai sơn chùa Tây Tạng tại
Bình Dương - đến nay là ngôi chùa mang nhiều đường nét mỹ thuật theo
phong cách kiến trúc Tây Tạng duy nhất ở nước ta. Ông không chỉ là vị
thiền sư đắc đạo, mà còn nổi danh là một vị chân tu yêu nước, được cử
làm Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc và là người cha đỡ đầu cho các chi
đội kháng chiến chống Pháp ở Thủ Dầu Một. Ông cũng là cố vấn quân dân
chánh của tỉnh, nhiều lần kêu gọi tăng sĩ tham gia kháng chiến giành độc
lập. Những gì ông đã góp cho đất nước và cuộc đời thì rất rõ. Nhưng ít
người biết về quá khứ kỳ diệu của ông trong cuộc hành hương đơn độc để
cầu pháp và đắc pháp trên núi tuyết Himalaya. Ở đó ông đã gặp một tôn sư
bí mật trong hang đá và truyền pháp cho ông.
Ông sinh vào rằm tháng bảy năm Kỷ Sửu 1888 trong một gia đình khá giả
ở làng An Thạnh, quận Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương và là một trí thức am
tường về lịch sử tư tưởng Đông phương lẫn Tây phương. Qua nghiên cứu
nhiều xu hướng triết học và tư duy kinh viện đương thời, cuối cùng ông
đặc biệt chuyên tâm thâm nhập vào Phật học ngay thời trẻ nên ông xuống
tóc xuất gia tại chùa sắc tứ Thiên Tôn với hòa thượng An Thành - Từ
Thiện và được đặt pháp danh: Nhẫn Tế. Sau ông đến Bà Rịa cầu pháp học
đạo với Tổ Huệ Đăng tại chùa Thiên Thai, rồi cất am tu hành và độ chúng
tại vùng chợ Búng (Lái Thiêu) trước khi hành hương sang Ấn Độ và Tây
Tạng năm 47 tuổi.
Khởi hành
Ngày đi, các huynh đệ và cư sĩ thân cận không khỏi lo lắng cho ông,
vì biết ông phải dấn thân vào nơi xa xôi không quen biết ai. Nhưng lạ
một điều - và như được hộ pháp giúp đỡ - nên vào buổi sáng khởi hành,
khi đến đường Catinat (tức đường Đồng Khởi, Q.1, TP.HCM ngày nay) để đổi
bạc chi dùng, tình cờ ông gặp một người Ấn Độ bận Âu phục khoảng hơn 20
tuổi. Sau vài phút trò chuyện ngắn ngủi, người Ấn kia bảo ông đừng lo,
rồi dẫn ông đến căn hộ số 27 đường Ohier (tức đường Tôn Thất Thiệp, Q.1
ngày nay) gặp một người trạc ba mươi tuổi là Mr. Ramassamy, Phó hội
trưởng Hội xã tri Madras - Ấn Độ.
Ông Ramassamy viết hai bức thư dặn trao một bức cho ông Chánh hội
trưởng khi tàu đến Singapore, bức còn lại trao cho người khác khi đến
thành Bénarès, thì “ông sẽ được an ổn trên đất Ấn Độ” - Ramassamy bảo
đảm như thế. Ông cầm hai bức thư như hai cánh chim báo điềm lành, bận
chiếc áo tràng màu nâu giản dị và xách hành lý vỏn vẹn chỉ có hai túi
vải đựng sách kinh và quần áo trên tay, bước xuống tàu với vé tàu hạng
chót.
Khách mua vé hạng chót như ông đều phải nằm trong cái hầm tàu vốn là
căn bếp nấu ăn cho hành khách Ấn Độ, chính ở đó ông đã tập ăn uống theo
kiểu Ấn ngay từ ngày khởi hành 17.4.1935. Ông đến Singapore (20.4.1935),
rồi đến Madras (25.4.1935) ăn bữa ăn đầu tiên trên đất Ấn Độ với “cà ri
và vài món cà ri chua, cà ri khô không có nước. Họ nấu khéo, ngon,
nhưng cay xé họng. Mới tắm đó, mà muốn tuôn mồ hôi”. Tiếp đó đến
Calcutta, vào thành Bénarès (30.4.1935), đi chiêm bái Bồ đề đạo tràng
(21.12.1935), đến Népal (29.1.1936) viếng vườn Lâm-tỳ-ni cùng nhiều Phật
tích và di tích văn hóa khác. Sau đó từ một nhân duyên đặc biệt ông đã
được Lạt ma Gava Samden cùng ba đệ tử của Lạt ma ấy dẫn đường. Thế là
sau gần một năm hành trình, ông đã bước lên những dãy núi đầu tiên của
Himalaya hùng vĩ vào ngày 6.3.1936. (còn tiếp)
Ý nghĩa của từ lạt ma
Từ Lạt ma nguyên dùng để gọi các bậc trưởng lão, thượng
tọa, cao tăng trong Phật giáo Tây Tạng. Lạt ma có những nhiệm vụ quan
trọng như nghiên cứu học hỏi, mở mang sự hiểu biết cho đến việc giáo hóa
dân chúng, thúc đẩy xã hội tiến lên. Trong chùa viện, vị Lạt ma một mặt
giữ gìn giới luật nghiêm ngặt trong đời sống, một mặt tu học Hiển giáo
và Mật giáo cùng các học thuật ở thế gian như thiên văn, y học... cho
nên đời sống tu học của Lạt ma rất nghiêm cẩn, có thể cho rằng đây là
đại biểu điển hình trong nền văn hóa cao nhất ở Tây Tạng (theo Từ điển
Phật học Huệ Quang, Hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên, NXB Tổng hợp
TP.HCM 2004, tập 3).
|
Theo: Thanh Niên