“một
chế độ mà kẻ thù của nhân dân đinh ninh rằng không một lực lượng nào
dưới quyền thống trị của chúng dám đả động đến” (1) - trong đó nổi bật
nhất chính là ngọn lửa Thích Quảng Đức được thắp lên giữa đường phố Sài
Gòn ngày 11-6-1963. Bài viết này góp phần tìm hiểu giá trị đích thực của
“Sức mạnh bất bạo động nhìn từ ngọn lửa Thích Quảng Đức”.
Trước
hết, tưởng cũng nên có một vài nét “chấm phá” về nguồn gốc của phương
pháp bất bạo động. Trong rất nhiều loại kinh sách của Phật Tổ để lại
cũng như các trước tác về sau của các môn đồ, tuy ở những mức độ khác
nhau, nhưng ít nhiều đều ẩn chứa tư tưởng bất bạo động. Câu chuyện Phật
độ chàng Vô Não viết: “Tại Xá Vệ có chàng Vô Não, sau khi cuồng tín theo
tà giáo, trở thành một kẻ sát nhân gây khủng khiếp cho dân bản xứ. Thầy
của chàng bảo tìm giết một trăm người cắt ngón tay mang vào cổ đem về
ông ta sẽ truyền phép mầu nhiệm cho. Theo lời thầy dạy, chàng đến rình
một nơi hẻo lánh hoặc ở mé rừng, hễ ai đi lẻ loi đều bị chàng giết chết.
Chàng đã giết được chín mươi chín, còn thiếu một người nữa để giết thì
gặp mẹ chàng đi tới. Chàng xông xáo chạy tới để giết thì thình lình Đức
Phật ở đâu hiện tới, chàng liền đổi ý chạy theo Phật Tổ để hạ sát. Chàng
chạy như tên bay mà không kịp. Tức mình, chàng kêu to: “Kìa ông Sa môn!
Sao ông không dừng chân lại?”. Đức Phật đáp: “Này Vô Não, Như Lai dừng
bước đã lâu rồi, chỉ có ngươi chưa chịu dừng bước đó thôi”. Vô Não hỏi
lại: “Ông nói ông đã dừng bước sao tôi chạy theo mãi không kịp. Ông là
người nói dối”. Phật đáp: “Như Lai đã dừng bước trên con đường tội lỗi,
Như Lai đã trút bỏ gươm giáo từ lâu rồi”. Vừa nghe được bấy nhiêu lời,
Vô Não chợt tỉnh mộng điên cuồng hối ngộ, liệng dao quỳ lạy trước Phật,
xin Phật ra tay tế độ” (2).
Pháp bảo nhà Phật đề cập đến tinh thần
bất bạo động một cách hàm súc như câu chuyện dẫn ra trên đây. Chính đó
là biểu tượng chân thật của giáo lý nhà Phật giữa môt thế gian chứa đựng
đầy dẫy những áp bức, bất công, những kỳ thị đẳng cấp, chủng tộc,… Lý
thuyết bất bạo động của Phật giáo xuất phát từ tinh thần đại từ bi, cứu
khổ cứu nạn, nhằm hóa giải chúng sanh thoát khỏi cảnh khổ đau (sanh,
lão, bệnh, tử,…) để đi đến Niết bàn. Vì vậy, Phật giáo chủ trương một
tình yêu phổ quát, một lòng thương vô bờ bến đối với mọi chúng sinh. Lời
Phật giáo dạy: “Lòng từ bi đem lại cho chúng sinh tất cả mọi sự yên ổn
cả về tinh thần lẫn vật chất” (Kinh Đại Bảo Tích).
Cần phải hiểu thêm rằng khái niệm “bất bạo động” được
dịch từ Phạn ngữ Ahimsã chưa diễn tả đầy đủ nội dung của nguyên ngữ, vì
Ahimsã không phải chỉ là bất bạo động mà còn có nghĩa là không làm hại
đến bất cứ một sinh vật nào - kể cả kẻ thù - từ trong ý thức cho đến lời
nói và hành động. Ahimsã không phải mang tính chất tiêu cực, thụ động
(non-violence hay passive resistance) mà phải được hiểu là nắm lấy chân
lý mà hành động (satyagraha). Bất bạo động (Ahimsã) theo đúng nghĩa của
nó đòi hỏi phải thể hiện trọn vẹn một tình yêu tuyệt đối, phải nắm phần
chủ động trong việc thể hiện thiện cảm của mình đối với chúng sinh. Cùng
với yêu thương chúng sinh, kể cả kẻ thù, còn phải tôn trọng ý kiến kẻ
khác trong mọi lãnh vực, dù ý kiến ấy đối nghịch với ý kiến của mình.
Tiêu chuẩn chính xác của phương pháp bất bạo động là gạt bỏ ý thức tị
hiềm, thủ tiêu tuyệt đối và hoàn toàn mọi ác căn. Trong mọi hoạt động,
tuy không dùng đến bạo lực, nhưng bất bạo động không có nghĩa chạy trốn
trách nhiệm đấu tranh. Gandhi đã từng tuyên bố: “Chủ nghĩa bất bạo động
của tôi không chấp nhận chạy trốn nguy hiểm, để mặc cho những người thân
yêu không được bảo vệ. Giữa bạo động và chạy trốn một cách hèn nhát,
tôi chỉ chọn lấy bạo động” (3). Hơn thế nữa, người bất bạo động phải
biết chọn đúng lúc để dấn thân vào cuộc đấu tranh với tất cả quyết tâm
và lòng tự nguyện, tự giác, hỷ xả; phải thản nhiên đưa chính bản thân
mình ra đón lấy mọi sự tấn công, ngược đãi.
Bất bạo động chủ trương lấy tình thương vô biên xóa bỏ
hận thù nên không đánh trước và cũng không đánh lại kẻ đã đánh mình. Bất
bạo động là tự đem chính bản thân làm gương mẫu mà giác ngộ kẻ đã tự
cho là thù địch với mình để cho kẻ ấy tự ý từ bỏ moi tư tưởng và hành
động bạo động. Như vậy, phương pháp bất bạo động đòi hỏi một tinh thần
vững mạnh và lòng can đảm vô biên, vì người bất bạo động tất nhiên thừa
biết rằng mình có thể đánh lại đối phương, nhưng sở dĩ không đánh lại
không phải là vì sợ bạo lực mà chính là tinh thần “tự giác giác tha”.
Tuân
thủ những nội dung trên đây của lý thuyết bất bạo động, phong trào Phật
giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 ngay từ đầu đã khẳng định phương phap
đấu tranh là bất bạo động. Tuy nhiên, trong ý định ban đầu của giới lãnh
đạo Phật giáo miền Nam, bất bạo động(4) bằng hình thức tự thiêu vẫn
chưa được đặt ra, mặc dầu trong những cuộc tuyệt thực đầu tiên của Tăng
Ni trên toàn miền Nam vào cuối tháng 5, đầu tháng 6-1963, giới lãnh đạo
đã dự tính rằng: “Nếu kéo dài các cuộc rước linh và tuyệt thực một cách
nhàm chán thì phong trào tự nó cũng bị xẹp vì thiếu những hình thức mới
mẻ, gây xúc động mạnh nuôi dưỡng” (5). Song hình thức mới mẻ là gì vẫn
chưa được tìm ra, ngay cả khi giới lãnh đạo Phật giáo nhận được bức tâm
thư đề ngày 27-5-1963 của Hòa thượng Thích Quảng Đức với nội dung xin tự
thiêu để bảo vệ Phật pháp, họ vẫn không chấp thuận. Trên thực tế, giới
lãnh dạo Phật giáo còn “thật lúng túng, cũng không biết tự thiêu như thế
nào!” (6).
Mặc dầu không được chấp nhận, ý nguyện tự thiêu của
Thích Quảng Đức vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng. Ngài lưu lại chùa Ấn Quang
trì tụng kinh Pháp Hoa và mong muốn đạt được ý nguyện. Tới ngày
9-6-1963, sau những lần thương lượng giữa Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật
giáo và Ủy ban Liên bộ (của chính quyền Ngô Đình Diệm) không đem lại kết
quả, trái lại chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn gia tăng các hoạt động đàn
áp khủng bố, giới lãnh đạo Phật giáo bị bắt buộc phải chấp nhận ý nguyện
tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Và “khi được thông báo tin
này, Hòa thượng Thích Quảng Đức hết sức mừng rỡ, hình tướng của Ngài
toát lên một sức hấp dẫn khó tả, trông như một vị Bồ tát hóa thân ở cõi
Ta bà này” (7).
Ngày 11-6-1963, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và
Lê Văn Duyệt(8) (Sài Gòn), Hòa thượng Thích Quảng Đức đã anh dũng tự
thiêu trước sự chứng kiến của hàng chục vạn Tăng Ni, Phật tử cùng những
quan sát viên, báo chí quốc tế. Chính quyền Ngô Đình Diệm điều động lực
lượng đến để hòng phá tan cuộc tự thiêu, nhưng bị thất bại vì Tăng Ni,
Phật tử đã kiên quyết bảo vệ bằng cách vây quanh nhà sư nhiều vòng. Có
người nằm lăn trước xe cứu hỏa, xe cảnh sát không cho can thiệp. “Cuộc
hy sinh phi thường va dũng cảm của Hòa thượng Thích Quảng Đức, hình ảnh
cụ ngồi thẳng như tượng đá trong ngọn lửa rực hồng đã nhanh như một làn
sóng điện làm sôi nổi dư luận trong cả nước Việt Nam và trên thế giới.
Ảnh của vị Hòa thượng Viêt Nam Thích Quảng Đức ngồi trong ngọn lửa được
đăng trên hầu hết các báo khắp năm châu, với những dòng chữ nói lên sự
khâm phục” (9).
Chiều ngày 11-6-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh
phong tỏa các chùa, nhất là chùa Xá Lợi, nơi đang đặt thi hài của Thích
Quảng Đức. Khắp các nẻo đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát được huy động
để ngăn chặn đã bị làn sóng người tràn ngập. Buổi tối cùng ngày, qua
đài phát thanh, Ngô Đình Diệm đọc thông điêp lên án vụ tự thiêu của
Thích Quảng Đức là do “một số người bị đầu độc gây án mạng” và “kêu gọi
đồng bào hãy bình tĩnh nhận định tình thế”. Lời lẽ trong thông điệp bộc
lộ bản chất độc tài của Diệm, khi y tuyên bố: “Sau lưng Phật giáo trong
nước còn có Hiến pháp, nghĩa là có tôi” (10).
Từ phong tỏa đến thông
điệp, đủ mọi biện pháp, song chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn không thể
nào đẩy lùi được phong trào. Ngược lại, với cái chết cao cả của Thích
Quảng Đức, “uy thế của Mỹ - Diệm bị một cú đánh tinh thần mạnh như trời
giáng” (11), có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy cuộc vận động của
Phật giáo Việt Nam tiến mạnh, tiến nhanh hơn. Trên thực tế, ngọn lửa
Thích Quảng Đức đã tạo ra một bước ngoặt hết sức quan trọng. Nó chuyển
phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 sang một thế mới, trên cả hai
bình diện quốc nội và quốc tế.
* Ở trong nước, “cái chết vô úy của Hòa thượng Thích
Quảng Đức là một hồi chuông cảnh tỉnh cho mọi người, một tiếng gọi đàn
cho hàng tứ chúng” (12). Nó được xem như là một lời kêu gọi khẩn thiết
đối với tất cả những ai có lương tri hãy đứng lên đấu tranh chống lại
chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. Ngày 12-6-1963, giới lãnh đạo
cao cấp của Phật giáo từ Huế vào Sài Gòn trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu
tranh tại đây.
Cũng trong ngày này tại vùng giải phóng, Ủy ban Trung
ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng tổ chức
lễ truy điệu Hòa thượng Thích Quảng Đức. Xã luận báo Nhân Dân số ra
ngày 13-6-1963 viết: “Gương hy sinh anh dũng của Hòa thượng Thích Quảng
Đức là một sự tố cáo, lên án trước dư luận toàn thế giới chế độ độc tài
cực kỳ tàn bạo của bọn Mỹ - Diệm. Chế độ ấy phải bị đánh đổ. Mười bốn
triệu đồng bào miền Nam quyết đánh đổ chế độ ấy” (13). Báo chí miền Bắc
đăng tin chi tiết và hình ảnh về vụ tự thiêu và cho đây là “sự hy sinh
gan dạ của Hòa thượng Thích Quảng Đức để chống chính sách của tập đoàn
Ngô Đình Diệm đàn áp tự do tín ngưỡng” (14).
Trước phong trào đang dâng cao, giới lãnh đạo Phật giáo
dự định trong dịp đưa tang Hòa thượng Thích Quảng Đức vào ngày 16-6-1963
sẽ tổ chức một cuộc biểu tình lớn để phản kháng chính quyền Ngô Đình
Diệm không chịu giải quyết năm nguyện vọng đã đề ra. Lo sợ một cuộc bùng
nổ lớn, chính quyền Ngô Đình Diệm cấp tốc mở cuộc điều đình với giới
lãnh đạo Phật giáo. Phiên họp đầu tiên diễn ra vào ngày 14-6-1963. Sau
năm phiên họp, một Thông cáo chung được ký kết vào lúc 2 giờ sáng ngày
16-6-1963. Nội dung Thông cáo chung về cơ bản “thỏa mãn” được năm nguyện
vọng mà giới lãnh đạo Phật giáo đã đề ra trong bản Tuyên ngôn ngày
10-5-1963. Và để tránh một cuộc nổi dậy của quần chúng, chính quyền Ngô
Đình Diệm ra lệnh loan truyền bản Thông cáo chung ngay sau khi vừa được
ký kết bằng xe phóng thanh của Bộ Thông tin. Điện tín đánh đi các tỉnh
về nội dung Thông cáo chung. Đài Phát thanh Sài Gòn loan tin ngay khi
trời chưa sáng.
Về phía Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam, ngày
16-6-1963, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, cai quản Giáo khu Sài Gòn đã
chính thức lên tiếng trong một bức thư luân lưu, rằng: “Giáo hội Thiên
Chúa giáo Việt Nam hoàn toàn đứng ngoài cuộc tranh chấp mặc dù vai trò
chủ động gây ra cuộc tranh chấp là tín đồ Thiên Chúa giáo” (15). Trong
một bức thư luân lưu thứ hai gửi cho hàng giáo sĩ và giáo dân trước lúc
lên đường đi Roma tham dự Công đồng Vatican II, Tổng Giám mục Nguyễn Văn
Bình nhấn mạnh: “Giáo hội không những không gây nên một biến cố mà còn
đau đớn vì những tai họa đã và còn là ác quá của biến cố” (16).
Sáng
ngày 16-6-1963, mặc dầu có lời kêu gọi của giới lãnh đạo Phật giáo yêu
cầu Tăng Ni và Phật tử ở nhà, vì năm nguyện vọng đã “đạt được” và đám
tang của Thích Quảng Đức được hoãn lại, nhưng nhân dân Sài Gòn được ngọn
lửa Thích Quảng Đức tiếp sức đã đổ ra đường phố kéo về chùa Xá Lợi nơi
đặt thi hài của Thích Quảng Đức. Cuộc xô xát giữa quần chúng và lực
lượng cảnh sát đặc biệt xảy ra ở ngã tư Lê Văn Duyệt - Phan Thanh Giản.
Thanh niên, học sinh, phụ nữ đã hăng hái chiến đấu hàng mấy giờ đồng hồ.
“Quần chúng hòa vào nhau như những giọt nước trong đại dương và trong
tình yêu người ta tự thấy mình lớn lên và không còn sợ hãi nữa” (17).
“Đây là cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt nhất ở Sài Gòn trong mấy năm
nay. Nó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ độc
tài phát xít Mỹ - Diệm, đẩy chúng vào tình thế bị cô lập hơn bao giờ
hết” (18).
* Đối với thế giới, cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích
Quảng Đức đã làm cho cả thế giới kinh ngạc và hết sức khâm phục. Đây là
“một hành động tiêu biểu vĩ đại. Nó không chỉ chống lại Diệm, để chỉ sự
hiện hữu của Phật giáo và được để ý tới, mà nó còn có ý nghĩa chống lại
sự bất công, bất chính của toàn thế giới… Với một hành động lặng thinh,
không nói một lời, một vị Hòa thượng Việt Nam đã nêu một tấm gương sáng
rùng rợn, một kháng nghị cao đẹp, lộng lẫy, chống lại mọi xấu xa đê hèn
của loài quỷ sứ đang còn tồn tại trong thế giới ngày nay” (19).
Về
dư luận rộng rai của thế giới trước việc Hòa thượng Thích Quảng Đức tự
thiêu, chúng ta có thể hình dung qua nguồn tư liệu mà Malcoln W. Brown
đã cung cấp trong The New Face of War: “Vụ Phật giáo năm 1963 đã làm
chấn động các quốc gia ngoài châu Á kể từ khi xảy ra vụ tự thiêu của Hòa
thượng Thích Quảng Đức: Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Thụy Sĩ, Bỉ, Úc, Đức… Tấm
hình tự thiêu của Hòa thượng đã được phổ biến khắp thế giới, từ trên bàn
giấy của Tổng thống Hoa Kỳ tới văn phòng các lãnh tụ Trung Cộng và
chính nước cộng sản này đã cho in ra hàng triệu tấm hình ấy để phân phát
đi khắp Á Phi với lời ghi chú: “Một Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam tự thiêu
trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ - Diệm” (20). Ở đây, xin được nêu
một số tư liệu cụ thể:
Ở Mỹ, ngọn lửa Thích Quảng Đức đã gây nên một chấn động
mạnh, đặc biệt làm cho dư luận Mỹ quay sang chống Ngô Đình Diệm và gia
đình y. Tại Washington D.C., ngày 12-6-1963, nhân dân Mỹ đã đón nghe một
cách xúc động tin tức về cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Hơn hai tuần sau ngày Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, ngày
30-6-1963, trong một bài giảng tại nhà thờ ở New York, Mục sư Donalds
Harrington đã xem cái chết của Thích Quảng Đức giống như cái chết của
Chúa Giê-su, Michel Servetus, Jeanne d’Ars. Ông cho rằng hành động mổ
bụng của người Nhật cũng không thể nào so sánh với sự tự thiêu của Hoà
thượng Thích Quảng Đức, tuy rằng gan dạ như nhau, bởi vì “sự tự thiêu
của Ngài đã cứu vớt bao nhiêu sinh linh đang chìm đắm trong khổ hận, kẻ
đàn áp cũng như kẻ bị đàn áp đều bừng tỉnh. Ngài đã tô đậm nét vàng son
trên trang sử huy hoàng của Phật giáo và dân tộc” (21).
Tờ New York
Herald Tribune (21-7-1963) cho rằng ngọn lửa Thích Quảng Đức sẽ thổi
bùng lên một đám cháy lớn thiêu rụi chế độ Ngô Đình Diệm, rằng “Hòa
thượng Thích Quảng Đức, một tu sĩ đã biến tấm áo cà sa vàng của mình
thành một giàn hỏa thiêu… Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam
đang làm một công việc rất hay là ông đang tự đốt hết nền tảng của chế
độ ông”. Bởi theo quan điểm của báo này thì “sự cấm đoán tự do tín
ngưỡng là một tội không thể tha thứ được” (22). Tờ San Francisco Chinese
World đưa ra lập trường quyết liệt hơn: “Đã đến lúc chính quyền Hoa Kỳ
phải từ giã ông Ngô Đình Diệm. The Chinese World khẩn thành kêu gọi tất
cả mọi người Mỹ lên án ông Diệm, một kẻ độc tài của Sài Gòn” (23).
Thượng nghị sĩ Wayne L. Morse, bang Oregon, thì nói rằng “ông sẽ không
đồng ý cho một đôla nào nữa để ủng hộ một chế độ độc ác tàn bạo của Tổng
thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam” (24).
Ở Nhật Bản, từ sau ngày Hòa thượng Thích Quảng Đức tự
thiêu, các nhà báo đã dành những vị trí trang trọng đăng tin và ảnh, như
tờ Asahi Evening News ngày 12-6 đã đăng 3 bức ảnh lớn chiếm gần một
phần tư trang nhất và các báo khác cũng đều đăng tin tỉ mỉ rõ ràng về vụ
này” (25). Ngày 19-6-1963, Ủy ban Tôn giáo Bảo vệ Hòa bình và Hội Phật
giáo Nhật Bản đã tổ chức cuộc mít-tinh phản đối chính quyền Ngô Đình
Diệm đàn áp tín đồ Phật giáo miền Nam Việt Nam. Cuộc mít tinh đã mặc
niệm Hòa thượng Thích Quảng Đức và những người bị chính quyền Ngô Đình
Diệm giết hại tại Huế, Sài Gòn và kịch liệt lên án tội ác của chính
quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 20-6-1963, các tín đồ Phật giáo Nhật Bản do
Hòa thượng Mibu Sohigun dẫn đầu đến sứ quán “Việt Nam Cộng hòa” ở Tokyo
trao bản tuyên bố nói trên cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Theo Công văn
mật số 27-VP/DK ngày 21-6-1963 của Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Nhật Bản
gửi Bộ trưởng Phủ Tổng thống thì “vấn đề tranh chấp giữa Phật giáo và
chính phủ đã gây ra một luồng dư luận sôi nổi ở Phật giáo” (26).
Ngày 23-6-1963, sau lễ cầu siêu cho Tăng, tín đồ Phật
giáo miền Nam tử vì đạo, toàn thể Tăng, tín đồ của phái Tịnh Độ Chân
Tông Nhật Bản cùng một lúc đã đánh ba điện văn. Điện văn gửi giới lãnh
đạo Phật giáo miền Nam Việt Nam viết: “Sự kiện đàn áp sát hại Phật giáo
đồ tại Việt Nam gần đây là một việc làm đáng buồn và cũng là môt triệu
chứng bất tường. Nhân danh Tổng hội Phật giáo Chân Tông Nhật bản, chúng
tôi xin gửi đến quý Ngài lòng tôn kính và ai điếu đối với việc vì đạo
thiêu thân của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức. Chúng tôi xin gửi đến quý
Ngài lòng nhiệt thành ủng hộ cuộc hộ Pháp của toàn thể Phật giáo đồ Việt
Nam trong lúc “Pháp nạn” này". Điện văn gửi Ngô Đình Diệm viết: “Sự
kiện đàn áp sát hại Phật giáo đồ tại Việt Nam gần đây thật là một việc
làm bất tường chưa từng có trong lịch sử. Toàn thể Tăng Ni và tín đồ của
Tổng hội Chân Tông chúng tôi rất xúc động và phẫn uất khi nhận được tin
này”. Điện văn gửi Giáo hoàng Paule VI viết: “Trước mắt chúng tôi, việc
khủng bố và sát hại Phật giáo đồ tại Việt Nam là một việc xúc phạm đến
tự do tín ngưỡng, quyền căn bản của con người. Nhất là việc ấy phát sinh
bởi một chính sách hà khắc tôn giáo của một chính phủ”.
“Chúng tôi
hy vọng Ngài sẽ vì danh dự của Hội Thánh Thiên Chúa tìm cách can thiệp
với ông Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Giáo khu Huế để việc bất công trên
khỏi tái diễn” (27).
* Trong lúc tình hình quốc tế không có lợi cho
phía chính quyền Ngô Đình Diệm thì trong nước phong trào Phật giáo được
phục hồi trở lại do chính quyền Ngô Đình Diệm vi phạm Thông cáo chung.
Nhân lễ chung thất của Hòa thượng Thích Quảng Đức (30-7-1963), giới lãnh
đạo Phật giáo đã ra Thông bạch vạch rõ thực trạng của xã hội miền Nam
dưới chế độ Ngô Đình Diệm: “Sự suy sụp của nền đạo đức dân tộc… nền đạo
giáo vẫn bị hăm dọa, quốc gia lâm vào tình trạng chia rẽ đổ nát, người
làm kẻ hưởng, nỗi bất bình oan khúc không sao kể xiêt” (28) và kêu gọi
mọi tầng lớp đồng bào hãy đình công bãi thị để phản đối thái độ ngoan cố
độc ác của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Hưởng ứng lời kêu gọi của giới lãnh đạo Phật giáo, khắp
nơi trên toàn miền Nam, trước hết là các thành phố, thị xã, thị trấn,
Tăng Ni, Phật tử hăng hái tham gia hành lễ, đình công, bãi thị, bất chấp
sự ngăn cản của chính quyền Ngô Đình Diệm. Tại Sài Gòn, từ 5 giờ sáng
đồng bào đã tấp nập đổ về chùa Xá Lợi, “ngoài thanh niên ra, hầu hết
những người đến dự đều là đàn bà. Họ trẻ, khá hấp dẫn và duyên dáng
trong bộ áo dài và quần trắng, hoặc cả bà già nhăn nheo, răng nhuộm đen
vì ăn trầu. Tất cả đều đính băng nhỏ màu vàng ở ngưc, một biểu tượng
thương tiếc Hòa thượng Thích Quảng Đức” (29). Tất cả biểu lộ ý chí và
quyết tâm tranh đấu của mình. Sau buổi lễ, giới lãnh đạo Phật giáo cho
ra đời một bản tuyên ngôn tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm không chịu
thi hành Thông cáo chung và khẳng định lại một lần nữa quyết tâm của
mình nhằm đưa cuộc đấu tranh đến thành công: “Phật giáo đồ Việt Nam
quyết tâm không lìa bỏ tinh thần thuần tuý tôn giáo bằng cách áp dụng
nghiêm chỉnh phương pháp bất bạo động để đưa phong trào đến chỗ thành
công” (30).
Tại Huế, ngày 29-7-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm cho
phổ biến trên đài phát thanh lệnh cấm quần chúng không được tham gia
ngày chung thất của Thích Quảng Đức. Tuy nhiên, Huế vẫn là nơi sôi động.
Ngày hôm đó một cuộc biểu tình rước di ảnh của Thích Quảng Đức có tới
15.000 người tham gia, từ chùa Từ Đàm đến chùa Diệu Đế, thanh tịnh và
ngang nhiên đi qua trung tâm thành phố. Đoàn biểu tình đã diễu hành trên
một đoạn đường mấy cây số, hai bên đường có hương án, dân chúng quỳ
lạy, chiêm ngưỡng sự hy sinh cao cả của Thích Quảng Đức, sôi sục khí thế
đấu tranh (31).
Cùng với sự phản đối mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế và dư
luận Mỹ lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, phong trào
Phật giáo ngày càng lên cao ở miền Nam Việt Nam đã dội mạnh vào Nhà
Trắng. Trong một cuộc tiếp xúc với Ngô Đình Diệm, Truheart - Đại diên
phía Mỹ đã chỉ ra rằng: “Chính quyền Kennedy không ưa rối ren” (32).
Dean Rusk, Ngoại trưởng Mỹ, trong cuộc họp báo ngày 16-6-1963, cho rằng
Mỹ “không sung sướng gì trước những sự việc xảy ra ở miền Nam”, rằng Mỹ
“rất buồn phiên về những sự chia rẽ đang xảy ra ở miền Nam” (33). Tờ New
York Times (19-7-1963) dẫn lời Tổng thống Kennedy: “Sự động chạm giữa
Tổng thống Ngô Đình Diệm với Phật giáo đồ rất có hại cho công cuộc chống
cộng tại Nam Việt Nam” (34). Mặc dù vậy, chính quyền Kennedy vẫn chưa
có thái độ dứt khoát về việc thay Diệm, vẫn hy vọng Diệm sẽ “xuống
thang” trong việc giải quyết “vụ Phật giáo”, vì rằng trước hiện tượng
“tự sát để đấu tranh, kẻ táo bạo nhât cũng phải lùi bước” (35).
Trong
lúc Nhà Trắng đang mong muốn tình hình được cải thiện thì trong một trả
lời phỏng vấn của Don Baker, ký giả Hãng thông tấn UPI, Đại sứ Mỹ
Frederick E. Nolting nói: “Hơn hai năm tôi sống tại Viêt Nam, tôi chưa
bao giờ thấy dấu hiệu chứng tỏ có sự kỳ thị tôn giáo” (36). Ngày
1-8-1963, giới lãnh đạo Phật giáo đánh điện cho Tổng thống Kennedy phản
đối những lời tuyên bố vô trách nhiệm của Nolting. Bức điện viết: “Thay
mặt toàn thể Phật giáo đồ miền Nam, chúng tôi cực lực phản đối cùng Tổng
thống lời tuyên bố của ông Đại sứ Nolting qua Hãng thông tấn UPI cho
rằng không có vấn đề kỳ thị tôn giáo và ngược đãi Phật giáo ở miền Nam
Việt Nam.
Chúng tôi nghĩ rằng dân chúng Hoa Kỳ phải thấu rõ nỗi phẫn uất của Phật giáo đồ đến tám mươi phần trăm dân số.
Lời tuyên bố của ông Nolting không phù hợp với sự thật luôn cả với sự hiểu biết và thiện chí của người Hoa Kỳ” (37).
Tiếp theo, ngày 3-8-1963, trong một cuộc nói chuyện với
Phụ nữ bán quân sự tại Tòa Đô chính Sài Gòn, Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình
Nhu, lên tiếng công kích và mạ lỵ Phật giáo, rằng “hoạt động của Phật
giáo là một hình thức phản bội xấu xa…” (38). Về cuộc tự thiêu của Hòa
thượng Thích Quảng Đức, Trần Lệ Xuân cho là vụ “nướng sư”. Trả lời phỏng
vấn của ký giả báo New York Times, Trần Lệ Xuân nói: “Tôi còn đánh sư
gấp mười lần như thế à. Phương pháp giải quyết vấn đề Phật giáo là phớt
tỉnh, không cần biết tới” (39).
Lời lẽ của Nolting và Trần Lệ Xuân
có tác dụng như “lửa đổ thêm dầu”. Ngày hôm sau, 4-8-1963, Đại đức Thích
Nguyên Hương tự thiêu ở Phan Thiêt. Ngày 12-8-1963, tại chùa Xá Lợi, nữ
sinh Mai Tuyết An tự chặt tay trái của mình để phản đối chính quyền Ngô
Đình Diệm. Ngày 13-8-1963, Đại đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu tại Huế.
Ngày 15-8-1963, tại Huế, gần 1.000 sinh viên, hoc sinh biểu tình phản
đối chính quyền Ngô Đình Diệm cướp xác Thích Thanh Tuệ. Cùng ngày, Ni sư
Diệu Quang tự thiêu tại Ninh Hòa gần Nha Trang. Ngày 16-8-1963, Huế
nhất loạt tổng bãi công. Cùng ngày, nhà sư Thích Tiêu Diêu tự thiêu tại
chùa Từ Đàm, Huế. Ngày 17-8-1963, các khoa trưởng thuộc Viện Đại học Huế
và toàn thể giảng viên Viện Hán học ra tuyên cáo lên án chính quyền Ngô
Đình Diệm đàn áp Phật giáo và tuyên bố từ chức và nghỉ việc. Tiếp theo,
toàn thể giáo chức và sinh viên Viện Đại học Huế từ chức, bãi khóa.
Phong trào bất hợp tác tại Huế trở nên toàn diện, mọi guồng máy đều bị
tê liệt.
Ngày 18-8-1963, theo lệnh của giới lãnh đạo Phật giáo, lễ
cầu siêu cho tất cả các vị tử vì đạo đã được tổ chức trên toàn miền Nam.
Tại chùa Xá Lợi (Sài Gòn) có trên 30.000 người tham gia. Sau lễ cầu
siêu, có khoảng 10.000 người tham gia tuyệt thực. Khí thế đấu tranh của
quần chúng hết sức manh liệt.
Để cứu nguy cho chế độ, đêm 20 rạng ngày 21-8-1963, dưới
sự chỉ huy trực tiếp của Ngô Đình Nhu, “Kế hoạch Nước lũ” được tiến
hành, tấn công đồng loạt hầu hết các ngôi chùa được dùng làm trụ sở đấu
tranh trên khắp miền Nam. Hầu hết giới lãnh đạo Phật giáo đã bị bắt đưa
vào trại giam. Với việc tấn công chùa, chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm
đã “thực sự giẫm trúng vỏ chuối do Phật giáo quăng ra” (40) và đã chọn
cho mình một tuyệt lộ.
Những ngày sau “Kế hoạch Nước lũ”, cả thành
phố Sài Gòn rung động trước sự phát triển dữ dội của phong trào. Nhiều
bộ trưởng, khoa trưởng, giáo sư đại học từ chức. Sinh viên, học sinh bãi
khóa, nghỉ học đấu tranh cho tự do tín ngưỡng. Tình hình này khiến sự
chần chừ, do dự của Mỹ về việc thủ tiêu chính quyền Ngô Đình Diệm đã
được vượt qua. Sau khi nhận nhiệm sở thay Nolting, Cabodge Lodge, tân
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đã tiếp xúc với Diệm và Lodge đã phúc trình với
Washington rằng Diệm có lẽ đã mất khả năng lãnh đạo đất nước và kết luận
rằng trừ trường hợp vợ chồng Ngô Đình Nhu rời khỏi xứ, Diệm có thể coi
như là hết thuốc chữa. Ngày 24-8-1963, Thứ trưởng Ngoại giao George
Ball, Xử lý thường vụ Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk ký gửi cho Lodge
điện văn với nội dung: “Rõ ràng Nhu đã chiếm quyền. Hãy cho Diệm cơ hội
gạt Nhu và bè lũ nhóm ra một bên. Nếu đã cố gắng hết cách mà Diêm vẫn
khăng khăng chối từ thì chúng ta đành phải đối đầu với khả thể là Diệm
cũng không cứu được” (41). Bản án tử hình đối với chế độ Ngô Đình Diệm
đã ký, vấn đề là chỗ thời điểm thi hành nữa mà thôi. Thời điểm đó chính
là ngày 1-11-1963.
45 năm nhìn lại ngọn lửa Thích Quảng Đức, chúng ta có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:
Một
là, trong những phong trào đấu tranh chống bạo quyền, chống áp bức dân
tộc,… diễn ra trong lịch sử loài người, đây không phải là lần đầu tiên
phương pháp bất bạo động theo đúng ý nghĩa của nó được đem ra áp dụng.
Thánh Gandhi là người đã thành công trong việc áp dụng phương pháp bất
bạo động để giành độc lập cho đất nước Ấn Độ. Và ngay từ đầu của cuộc
đấu tranh, giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam đã khẳng định: “Chúng tôi
phải thực hiện tư tưởng Phật giáo ngay trong cuộc đấu tranh của chúng
tôi… Ngay bây giờ, chúng tôi có thể tuyên bố một cách minh bạch rằng
người Tăng sĩ Phật giáo là người sẵn sàng noi theo Gandhi, vị Thánh của
sức mạnh bất bạo động” (42). Tuy vậy, bất bạo động mà Gandhi sử dụng là
chính sách “bất hợp tác” tiến bộ dần trong bất bạo động, được thể hiện
từ những hình thức như bãi công, bãi thị, bãi khóa, công chức cự tuyệt
mọi chức vụ, không làm việc trong các cơ quan do chính phủ lập ra, nông
dân không nộp thuế, hàng hóa Anh bị tẩy chay, toàn dân Ấn tự dệt vải may
măc… đến việc quần chúng biểu tình không mang vũ khí…, song tuyệt nhiên
chưa có hình thức tự đốt mình như Hòa thượng Thích Quảng Đức. Sức mạnh
bất bạo động của Gandhi là sức mạnh “bất hợp tác” của số đông người; bất
bạo động của Thích Quảng Đức là sức mạnh tinh thần của một cá thể mà
lay chuyển cả một chế độ, cảnh tỉnh một thế gian đầy bạo lực. Rõ ràng
việc đốt mình của Thích Quảng Đức “là một trạng thái mới lạ và huyền ảo
của bất bạo động. Nó chứng tỏ rõ rệt cái uy quyền tối thượng của tinh
thần. Không một bạo lực nào có thể làm suy giảm được tâm hồn, sức chịu
đựng của một cá thể đối với mọi ức chế đàn áp chính trị độc tài thật vô
biên” (43). Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng cho rằng với phong trào Phật
giáo miền Nam năm 1963, “cái tinh túy của đạo Phật được phát huy, được
luân lý dân tộc chấp nhận. Đó là hình ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức tự
thiêu, một kỳ công không cách gì có được, là hun đúc của lịch sử, là
tinh hoa của Phật giáo, với tầm cỡ thế giới… nhất là hình ảnh Ngài đến
lúc trái tim không còn hoạt động được nữa” (44). Do vậy, điều mà Hòa
thượng Thích Tịnh Khiết đã khẳng định trong Diễn từ đọc sau lễ hỏa táng
nhục thân Hòa thượng Thích Quảng Đức đến nay vẫn còn nguyên giá trị: “Từ
xưa đến nay, biết bao vị cao tăng đã tự lên giàn hỏa. Tuy nhiên, trường
hợp của Hòa thượng Thích Quảng Đức... là một trường hợp đặc biệt và hy
hữu” (45).
Hai là, xét riêng trong phong trào Phật giáo miền Nam
Việt Nam năm 1963, chúng ta thấy có rất nhiều sự kiện góp phần hỗ tương
lẫn nhau để đẩy lùi bạo quyền, nhưng phải khách quan mà nhận rằng ngọn
lửa Thích Quảng Đức giữ vị trí trung tâm, đạt đến một tầm cao mà không
có một sự kiện nào có thể so sánh được. Ngọn lửa Thích Quảng Đức đã tập
hợp mọi người khác chính kiến, khác màu da vào cùng một khối, kêt tụ
được tinh anh của những khối óc và trái tim vì tình thương mà quyết
không chịu lùi bước. Trong suốt quá trình của cuộc đấu tranh từ ngày
7-5-1963 đến 1-11-1963, không tránh khỏi đâu đó có những giây phút do
dự, mệt mỏi, nản lòng. Chính những thời khắc đó, ngọn lửa Thích Quảng
Đức trở nên vô vàn quý báu, đã làm rắn chắc những trái tim đang dao động
và tôi luyện thêm những ý chí rụt rè. Bất bạo động trong phong trào
Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, mà đỉnh cao là sự hy sinh anh dũng
của Hòa thượng Thích Quảng Đức, đã thu hút đại bộ phận nhân dân miền
Nam, không chỉ Tăng Ni, tín đồ Phật tử, mà cả những người khác tôn giáo,
không cùng chính kiến, nhập cuộc tham gia đấu tranh, được nhân dân thế
giới hết sức ủng hộ. “Đây là lần đầu tiên một cuộc tự thiêu gây sửng sốt
và nể phục nhất trong cuộc đấu tranh của Phật giáo năm 1963. Nó ghi đậm
nét vào cuộc chiến Việt Nam và không bao giơ phai nhạt… hành động của
Ngài... trở nên một tấm gương kiên định của người dân miền Nam chống lại
Tổng thống Diệm”. Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Kết tinh trong một vị
chân tu những nỗi căm hờn đối với chế độ độc tài cá nhân gia đình trị,
vô nhân đạo và bạo ngược, hành động dũng cảm của Hòa thượng Thích Quảng
Đức là một bản án không gì bôi được đối với chế độ bù nhìn của Mỹ ở Sài
Gòn, đồng thời là một lời kêu gọi đồng bào Phật tử đấu tranh chống
phát-xít, dù chết không chịu lùi bước. Thật không phải thường có những
cái chết kích động nhân tâm sâu sắc và rộng rãi như cái chết của Hòa
thượng Thích Quảng Đức” (46).
Ba là, ngọn lửa Hòa thượng Thích Quảng Đức đốt lên với
tâm nguyện: “Để cúng dường Tam bảo và để giác ngộ chính quyền mau chóng
thoả mãn năm nguyện vọng của Phật giáo”; rằng “mong ơn Phật Tổ gia hộ
cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối
thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản Tuyên ngôn,… Trước lúc nhắm
mắt mà về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi lời chào cho Tổng thống Ngô
Đình Diệm nên lấy lòng bác ái, từ bi đối với quốc dân và thi hành chính
sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở” (47); rằng bất
bạo động là phải dấn thân một cách tự giác, “chấp nhận một sự hy sinh
đến cùng độ và lấy sự hy sinh ấy làm sức mạnh để rung chuyển đến tận
lòng người chứ không phải rung chuyển chính sách mà thôi” (48) thì ngọn
lửa Thích Quảng Đức đã thể hiện sinh động nhất và được xem là tiêu biểu
nhất cho lý thuyết bất bạo động.
Và trước khi kết thúc bài viết này, chúng tôi nghĩ rằng
những gì mà chúng ta đã và đang nghiên cứu, tìm hiểu về “ngọn lửa Thích
Quảng Đức”, nếu nói theo cách nói của nhà thơ thì “chỉ còn là rơm rác và
chỉ nguyện được là rơm rác” (49). Và theo cách nói của nhà văn thì
“ngòi bút trơ nên bất lực không thể hiện nổi sự vĩ đại của một bậc siêu
phàm”. Vấn đề ở chỗ hiểu được chừng nào về giá trị đích thực của “ngọn
lửa Thích Quảng Đức” là cần phải đưa sự hiểu biết đó vào hiện thực của
cuộc sống, để góp phần xây Đời, dựng Đạo. Đó mới chính là điều đáng quý,
đáng trân trọng.
PGS TS, LÊ CUNG *
(1) Phan Lạc Tuyên, Hương thơm cuộc đời, trong
“Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - cả nước tôn vinh anh”, NXB.Văn Học, Hà Nội,
tr.223.
(2) Thích Thiện Siêu, Tỏa ánh từ quang, Ban Trị sự GHPGVN Thừa
Thiên-Huế, 1992, tr.87-88.
(3) S. Radhakishnan, Chiến tranh và hòa bình, Thích Quảng Độ dịch, Sài
Gòn, NXB.Hoa Muôn Phương, tr.53, tr.123.
(4) Trong cuộc hội nghị mật vào tối 7-5-1963 tại chùa Từ Đàm (Huế), giới
lãnh đạo Phật giáo khẳng định phương pháp đấu tranh là bất bạo động.
Tiếp theo, phương pháp đã khẳng định lại một lần nữa trong “Bản phụ
đính” bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963 được công bố vào ngày 23-5-1963.
(5) Nguyễn Khải, Sư già chùa Thắm và ông Đại tá về hưu, Báo Lao Động, số
24, ngày 25-3-1993.
(6) Thích Thông Bửu. Tư tưởng Bồ tát Quảng Đức, trong “Đại lễ kỷ niệm
năm thứ 37 ngày tự thiêu của Bồ tát Quảng Đức”. Tổ đình Quán Thế Âm ấn
hành, tr.15.
(7) Phong vấn Pháp sư Thích Giác Đức ngày 20-10-1995 tại Boston, USA.
(8) Nay là đường Cách mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu.
(9) Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, NXB.Khoa Học, Hà Nội,
2002, tr.342.
(10) Trung tâm Lưu trữ quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS-8464
(11) Trần Văn Giàu, Sđd., tr.343.
(12) Diễn từ của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết - Hội chủ Tổng hội Phật
giáo Việt Nam, sau lễ hỏa thiêu nhục thân của Hòa thượng Thích Quảng
Đức, Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế...
(13) Lửa căm hờn đang rực cháy. Xã luận báo Nhân Dân, ngày 13-6-1963,
tr.1.
(14) Xã luận báo Nhân Dân, ngày 13-6-1963, tr.1.
(15) Nam Thanh, Cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, Sài Gòn, Viện Hóa
đạo xuất bản, 1964, tr.166.
(16) Nam Thanh, Sđd., tr.167.
(17) Tâm Phong, Nhớ lại cuộc vận động của Phật giáo. Tuần báo Hải Triều
Âm, số 18, ngày 24-8-1963, tr.10
(18) Những sự kiện lịch sử Đảng, tập III, NXB.Thông Tin Lý Luận, Hà Nội,
1985, tr.268.
(19) Thích Mãn Giác. Ông René De Berval. Nguyệt san Liên Hoa, Huế, ngày
27-2-1964, tr.37-38.
(20) Hoàng Xuân Hào, Phật giáo và chính trị tại Việt Nam ngày nay,
quyển 1 (Luận án Tiến sĩ Luật khoa - Ban Công pháp Trường Đại học Luật
khoa, tr.266.
(21) Quốc Oai, Sđd., tr.112.
(22) Tuệ Giác, Việt Nam Phật giáo tranh đấu sử, NXB.Hoa Nghiêm, Sài Gòn,
tr.211.
(23) Tuệ Giác, Sđd., tr.207.
(24) Tuệ Giác, Sđd., tr.211.
(25) Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC. 04-HS.8467.
(26) Như chú thích 26.
(27) Tuệ Giác, Sđd., tr.170-171.
(28) Quốc Tuệ, Sđd., tr. 202.
(29) Schecter, Jerrold, The New Face of the Buddha, John Weatherhill,
Tokyo, 193.
(30) Nam Thanh, Sđd., tr.49.
(31) Gặp Thượng tọa Thích Trí Thủ. Nguyệt san Liên Hoa, số ra ngày
30-11-1963, tr.108.
(32) Phong trào Phật giáo miền Nam (Tài liệu tham khảo đặc biệt), Việt
Nam Thông tấn xã, 1973, Hà Nội, tr.22.
(33) Xuân Thâm, Cuộc đấu tranh của Phật giáo đang làm cho chế độ Mỹ Diệm
khủng hoảng trầm trọng, Tuần báo Thống Nhất, số 322, ngày 23-8-1963,
tr.4.
(34) Tuê Giác, Sđd., tr.210.
(35) Tuệ Giác, Sđd., tr.196.
(36) Quốc Tuệ, Công cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, Tác giả xuất
bản, Hà Nội, tr.298.
(37) Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm, Huế.
(38) Jerrold Schecter., Sđd., tr.307.
(39) Quốc Tuệ, Sđd., tr.307.
(40) Tâm Phong, Nhớ lại cuộc vận động của Phật giáo. Tuần báo Hải Triều
Âm, số 18, ngày 24-8-1963, tr.10.
(41) The Pentagon Papers, New York: Bantam Books, 1971, tr.194.
(42) Bản phụ đính “Bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963 của Tăng tín đồ Phật
giáo Việt Nam” được công bố vào ngày 23-5-1963. Trung tâm Lưu trữ Quốc
gia II, Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8352.
(43) Quốc Oai, Phật giáo tranh đấu, Sài Gòn, NXB.Tân Sanh, 1964, tr.93.
(44) Mấy vấn đề về nghiên cứu Phật giáo và lịch sử tư tưởng dân tộc,
trong “Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam”. Ủy ban
Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội, 1986, tr.22.
(45) Diễn từ của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết - Hội chủ Tổng hội Phật
giáo Việt Nam, sau lễ hỏa thiêu nhục thân của Hòa thượng Thích Quảng
Đức. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm.
(46) Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, Tập II, NXB. Khoa học,
Hà Nội, 1966, tr.434.
(47) Quôc Oai, Phật giáo tranh đấu sử, NXB.Tân Sanh, Sài Gòn, tr.38-39.
(48) Bản phụ đính “Bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963 của Tăng tín đồ Phật
giáo Việt Nam” được công bố vào ngày 23-5-1963. Trung tâm Lưu trữ Quốc
gia II, Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8352.
(49) Vũ Hoàng Chương, Lửa Từ bi, Sài Gòn, 1963.