Trên bình
diện tổng quát phóng sinh là việc làm tích tụ nhiều việc lợi ích, tuy
nhiên nếu phóng sinh không đúng cách, phóng sinh tràn làn, người phóng
sinh vì tham cầu lợi ích riêng tư không phát khởi Bồ Đề Tâm trong việc
phóng sinh sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Nhận thức
điều này, người viết mạo muội chia sẻ vài thiển ý với mong muốn người
đọc, nhất là những ai đã, đang và sẽ phát nguyện phóng sinh có thêm
hiểu biết đúng đắn để việc thiện lành mang đến lợi lạc toàn hảo.
1. Nguồn gốc của việc phóng sinh
a. Nguồn gốc
Phóng
sinh là việc làm thể hiện lòng từ bi mong muốn đem an lạc hạnh phúc đến
cho tất cả chúng sinh. Việc làm này lần đầu tiên được biết đến qua lịch
sử của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khi Ngài còn là một vị thái tử
Tất Đạt Đa.
Chuyện kể rằng Đề Bà Đạt Đa - anh em chú bác với
Đức Phật đã giương cung bắn trúng một con chim thiên nga đang tự do bay
trên bầu trời cao rộng. Thiên nga ấy rơi vào trong khu vườn của thái tử.
Nhìn
thấy thiên nga đang quằn quại trong cơn đau dữ dội, với lòng từ bi của
một vị thái tử mới 9 tuổi, Ngài đã nâng thiên nga ôm vào lòng, chăm sóc
vết thương, cẩn trọng tìm chổ trú an toàn.
Bằng tình thương vô
bờ ấy không bao lâu vết thương của thiên nga bình phục hoàn toàn, vỗ
cánh bay cao trong không gian bao la và không quên cất tiếng vui mừng
tỏ lòng tri ân đối với người đã cứu mình.
Sau khi thành đạo
dưới cội Bồ đề, suốt gần 50 năm thuyết pháp độ sinh Ngài vẫn luôn đề
cao tinh thần từ bi, bất sát. Trong kinh Phạm Võng Phật dạy: “ Người
con Phật vì lòng từ bi mà làm việc phóng sinh và khuyên bảo người khác
làm. Nếu thấy người sát sinh thì nên tìm cách cứu cho chúng được thoát
khỏi nạn khổ.”
Kinh Kim Quang Minh cũng có nêu ra những câu chuyện về lòng bi mẫn cứu giúp chúng sinh khỏi nạn khổ đau.
Dựa
trên tinh thần căn bản đó việc phóng sinh đã phát triển rộng khắp Trung
Hoa truyền sang Nhật Bản, Tây Tạng, Triều Tiên và Việt Nam.
b. Thế nào là phóng sinh
Phóng
sinh có nghĩa là cứu giúp những chúng sinh thoát khỏi cảnh khổ đau, sợ
hãi khi bị giam nhốt trong chậu, lồng, nhà giam, hoặc đang bị tra tấn
hành hạ, sắp bị giết… bằng Tâm Bồ Đề dùng mọi phương tiện mang lại sự
sống, sự bình an cho tất cả chúng sinh đang bị đe dọa đến tính mạng.
Như
vậy, hành động cứu giúp chúng sinh với Tâm Bồ Đề thể hiện qua tình
thương vô điều kiện, không phân biệt giàu nghèo, oán thù, người hay
vật… là việc làm hết sức thanh cao, là nét đặc trưng trong truyền thống
Phật giáo.
Việc làm này có lợi ích ra sao? Cần phải phóng sinh như thế nào cho đúng? Đó là việc cần nên tìm hiểu.
2. Lợi ích của việc phóng sinh
Phóng sinh có rất nhiều lợi
ích không thể nghĩ bàn. Kinh Dược Sư Lưu Ly Bổn Nguyện Công Đức nói
rằng: “ Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các
tại nạn.”
Kinh Chính Pháp Niệm cũng dạy: “ Tạo một ngôi chùa
không bằng cứu một sinh mạng.” Vì cứu một sinh mạng tức là cứu một vị
Phật, cứu một vị Phật tức là cứu thoát tất cả chúng sinh. Cho nên nói
lợi ích của việc phóng sinh không thể nghĩ bàn là vậy. Nay tạm nói tóm
lược lợi ích của người làm việc phóng sinh như sau:
Một, luôn được chư Phật hoan hỷ, chư thiện thần gia hộ
Hai, ít bệnh tật hiểm nghèo
Ba, tránh được đao binh, chiến tranh, tai nạn hiểm nguy
Bốn, mạng sống lâu dài, khỏe mạnh
Năm, gia đình bình an hạnh phúc
Sáu, mong cầu chân chính đều được toại ý
Bảy, oan gia được giải, tinh thần luôn thoải mái vui tươi
Tám, con cháu ngoan hiền, hiếu thảo kính nhường
Chín, tăng trường lòng từ bi, không ham thích sự giết hại
Mười, tăng trưởng đức tin chân chính đối với Tam Bảo
Mười một, sau khi chết xa lìa ác đạo, được sinh lên cõi trời hoặc sinh làm người tôn quý
Mười hai, nếu có tu niệm Phật sẽ được vãng sinh Cực Lạc thành tựu Phật quả.
Người
phóng sinh sẽ có được tất những công đức như trên và hơn thế nữa nếu
biết phóng sinh đúng cách nghĩa là động lực của việc phóng sinh phải
phát xuất từ Tâm Bồ Đề thể hiện qua tình thương vô điều kiện, và tuệ
giác không phân biệt.
3. Phóng sinh với Tâm Bồ Đề
a. Đức tính cao quý của Tâm Bồ Đề
Kinh Đại Nhật có chép rằng: “ Phật pháp lấy Tâm Bồ Đề làm chính nhân, lấy lòng đại bi làm căn bản.”
Thế
mới rõ biết giá trị của Tâm Bồ Đề thật to lớn. Trong kinh Hoa Nghiêm Bồ
Tát Di Lặc đã nói với Thiện Tài như sau: “ Thiện nam tử, Tâm Bồ Đề này
như hạt giống của tất cả giáo lý Phật. Nó như ruộng vì làm tăng trưởng
tất cả thiện hạnh của hữu tình. Như đất, vì toàn thể vũ trụ nương vào
đó. Như thần tài (Vaisravana), vì nó phá hủy sự bần cùng.
Như
cha mẹ, vì che chở cho các Bồ Tát. Như viên ngọc ước, vì ban bố mọi sự
tốt lành. Như một bình chứa tốt, sung mãn mọi ước nguyện. Như một cây
lao nhọn, vì hàng phục tất cả những kẻ thù là hư hỏng thối nát. Như áo
giáp, vì nó tránh được mọi ý hành bất cẩn. Như gươm bén vì nó chặt đứt
sự đồi trụy.
Như khí giới, vì nó bảo vệ người ta khỏi tái sinh.
Như móc câu, vì nó móc người ta ra khỏi dòng sông sinh tử. Như cơn gió
lốc, vì thổi tan những tấm màn ngăn che. Như phương châm, vì tóm thâu
tất cả nguyện và hạnh của Bồ Tát. Như điện thờ đối với tất cả thế gian
gồm trời, người và atula. Thiện nam tử đấy là những đức tính của Tâm Bồ
Đề, và nó còn vô lượng đức tính khác nữa.”
Người con Phật dù
làm bất cứ việc gì cũng không nên xa rời Tâm Bồ Đề, bởi lẽ rời tâm này
mà làm Phật sự thì không khác nào Ma sự. Ngài Tịch Thiên cũng dạy trong
tác phẩm Nhập Bồ Tát Hạnh như sau:
“Hạnh lành khác chỉ như cây chuối
Cho quả xong tàn lụi héo hon
Cây Bồ Đề vẫn luôn xanh
Không ngưng kết trái đơm hoa cõi đời.”
Bởi
vậy, Tâm Bồ Đề bất diệt nên tất cả công đức của tâm này hoàn toàn không
mất đi mà vẫn luôn luôn tăng trưởng khắp cùng không gian và thời gian.
b. Phóng sinh với Tâm Bồ Đề là thế nào?
Như
đã trình bày, đức tính của Tâm Bồ Đề không thể nghĩ bàn và không có
cùng tận. Vậy phát khởi Tâm Bồ Đề như thế nào để việc thiện lành luôn
được kết quả tốt, nhất là trong việc phóng sinh? Điều này đã được Ngài
Tsongkhapa dạy trong tác phẩm Ba Điểm Trọng Yếu Của Đường Tu Căn Bản
Đến Giác Ngộ như sau:
“Bồ đề tâm tôn quý
Sẽ được phát sinh bởi
Tất cả chúng hữu tình
Mà những hữu tình ấy
Là những bậc Đại trí.
Chúng sinh bị cuốn trôi
Bởi bốn dòng nước xiết
Bị trói buộc chặt chẽ
Bởi sức mạnh nghiệp lực
Thúc đẩy mãi không dừng.
Bọ tóm gọn vào trong
Lưới sắt của chấp Ngã
Lại bị bao phủ bởi
Bóng tối tăm dày đặc
Của ngu ám Vô minh.
Hữu tình mãi trôi lăn
Sinh rồi lại tái sinh
Trong thế gian vô hạn
Chịu hành hạ tra tấn
Liên tục bởi Ba khổ.
Tình trạng này cũng như
Cảm giác đang sợ hãi
Của những bà Mẹ ta
Hãy nhớ nghĩ như vậy
Để phát tâm Bồ đề.
Điều
này có nghĩa chúng ta hãy phát khởi lòng từ nghĩ tưởng đến tất cả những
chúng sinh đang trôi lăn trong biển khổ sinh tử kia, cụ thể những chúng
sinh mà ta phóng sinh chính là những người mẹ trong vô lượng kiếp về
trước của mình. Chúng ta có thể nào làm ngơ trước đau khổ của mẹ mình
không?
Không! Chúng ta nhất định phải tìm cách để cứu giúp
những người mẹ đáng thương ấy thoát khỏi ngục tù sinh tử, đưa họ đến
bến bờ giải thoát thật sự. Và, khi nghĩ nghư vậy chúng ta đã phát được
Bồ Đề Tâm Nguyện, nhưng nếu nguyện thôi chưa đủ, chúng ta cần phải dõng
mãnh thực thi hạnh nguyện đó có nghĩa là phải hoàn thành Bồ Đề Tâm Hạnh.
Cả hai “Nguyện” và “Hạnh” này chính là gốc của Tâm Bồ Đề. Như Ngài Tịch Thiên dạy:
“Như ngọn lửa ở thời kiếp hoại
Trong phút giây đốt cháy tội khiên
Công đức tâm ấy vô biên (Tâm Bồ Đề)
Được ngài Di Lặc dạy khuyên Thiện Tài.
Tóm thâu hai loại sau đây
Cũng từ một họ Bồ Đề mà ra
Một là Tâm Nguyện tỉnh ra
Hai là Tâm Hạnh gắng mà làm theo.
Bậc Hiền trí hiểu sâu hai thứ
Chỗ khác nhau giữa muốn và làm
Như du hành mới phát tâm
Khác xa với việc dấng thân trên đường.
Trong vòng sinh tử nhiễu nhương
Bồ Đề Nguyện đủ đem đường yên vui
Nhưng kho công đức bời bời
Là Bồ Đề Hạnh nơi người phát tâm.”
Vậy,
động cơ làm việc thiện, nhất là phóng sinh cần phải phát xuất từ Tâm Bồ
Đề tôn quý được thể hiện qua lòng từ bi chân thành vô điều kiện muốn
cứu giúp chúng sinh thoát khổ nạn song song với trí tuệ không phân biệt
thân sơ, giàu nghèo, người vật…
b.1. Phóng sinh với Lòng từ bi không điều kiện
Kinh
Đại Bát Niết Bàn có chép rằng: “ Lòng đại từ, đại bi gọi là tính Phật.”
Lại cũng chép rằng: “ Lòng từ bi chính là Như Lai, Như Lai chính là
lòng từ bi.”
Người con Phật chân chính luôn luôn thấu hiểu được
lòng từ bi mà Đức Phật đã khéo léo truyền trao trong suốt hơn 40 năm
thuyết pháp. Có thể dể dàng nhận thấy điều này qua hành trang Năm giới
cấm, hay trong Lục độ ba la mật.
Việc cấm sát sinh là giới đầu
tiên Phật muốn người đệ tử mình phải tuân giữ. Vì sao vậy? Vì thể hiện
lòng từ bi trân trọng mạng sống của tất cả muôn loài.
Bởi lẽ,
ai ai cũng sợ chết, ai ai cũng sợ gươm đao, suy lòng mình ra người,
đừng giết và đừng bảo người giết. Cấm sát sinh của đạo Phật không dừng
ở việc cấm giết người và còn mở rộng ra khắp cả muôn loài vạn vật, hữu
hình lẫn vô hình. Thể hiện điều này Phật dạy nên ăn chay và phóng sinh.
Nhưng việc phóng sinh cần phải tiến hành trên tinh thần từ bi không
điều kiện. Tại sao như vậy? Vì với lòng từ, người phóng sinh ý thức
được giá trị cao quý mạng sống chúng sinh giống như mạng sống của mình,
thấy chúng sinh đang bị giam cầm, khổ đau, sắp bị giết cũng giống như
mình đang rơi vào hoàn cảnh tương tự.
Họ làm mọi phương tiện để
cứu lấy mạng sống và đưa chúng sinh thoát khỏi hiểm nguy mà không cần
sự báo đền hay bất cứ điều kiện nào.
Tuy nhiên ngày nay việc
phóng sinh đã ít nhiều mất đi ý nghĩa đích thực của nó. Người ta phóng
sinh vì cầu may mắn, cầu hết bệnh tật, cầu mong sống lâu, cầu mong danh
vọng bạc tiền mà nào có ai phóng sinh bằng lòng từ bi chân thật. Phóng
sinh càng nhiều để cầu xin càng nhiều, vô hình chung tạo tội càng
nhiều. Tại sao nói như vậy?
Vì người không có lòng từ hoặc lòng
từ kèm điều kiện mà phóng sinh chẳng khác nào đem chúng sinh làm vật
thế mạng, đem chúng sinh làm cuộc đổi chát bán mua mà phần lợi nhuận
chắc chắn muốn được về mình.
Có nhiều buổi lễ tiến hành phóng
sinh lên đến hàng trăm triệu, các loại chúng sinh trước khi được phóng
thích phải trải qua một thời gian nằm trong chậu, lồng, hay thùng để
chờ kết thúc buổi lễ mới được phóng sinh. Trong số đó có không ít những
chúng sinh đã chết vì mỏi mệt, vì kiệt sức, vì chen chúc nhau để được
sinh tồn trong không gian hạn hẹp của những chiếu chậu, chiếc thùng…
như vậy có tàn nhẫn lắm không? Như vậy có thể gọi là từ bi không?
Lại
có người nói rằng, số lượng những chúng sinh bị chết trước khi thả so
với số lượng chúng sinh còn sống thì không đáng kể. Ôi, có thể nào thốt
được lời ấy? Nếu đã là sinh mạng thì dù một mạng cũng là quý giá, vậy
tại sao đem giá trị sự sống của chúng sinh mà so sánh với số lượng
chúng sinh được thả.
Lại nữa có người còn “đặt hàng” để phóng
sinh, hay phóng sinh chạy theo số lượng. Họ nào biết đâu một cú phone
đặt hàng đã làm cho vô số chúng sinh phải chịu cảnh giam cầm đau khổ.
Hơn thế nữa còn gián tiếp tạo ra tội sát sinh mà không hề hay biết, cứ
tưởng mình làm như thế sẽ được phúc nhưng ai ngờ đó là hành động nhẫn
tâm đến vô cùng.
Chúng ta phóng sinh khi tình cờ thấy chúng
sinh đang bị đau khổ, bị giam nhốt, nguy hại đến tính mạng, với lòng từ
bi ta muốn chúng được an lành, thoát khổ nên tìm cách cứu bằng phương
tiện mà ta có thể.
Ví dụ, hôm nay đi chợ ngang hàng cá, thấy
một con cá đang chuẩn bị giết, mặc dù muốn thả hết số cá đang có nhưng
điều kiện ta có thể mua được một đến hai con. Trước tiên ta sẽ mua con
cá đang nguy hại đến tính mạng và thầm cầu nguyện cho những con cá còn
lại sớm được giải thoát.
Hoặc đi trên đường thấy một con sâu,
con ốc sên hay con giun đang bò, ta tìm cách mang chúng vào lề đường
nơi thoáng mát để tránh cho chúng khỏi thiệt mạng.
Hiện nay
ngoài việc nhấc điện thoại gọi đặt hàng phóng sinh còn có thêm hình
thức phóng sinh “giao hàng tận nơi”. Chùa nào muốn phóng sinh, nhà nào
muốn phóng sinh, người nào muốn phóng sinh chỉ cần cho biết trước ngày
giờ là “hàng” phóng sinh sẽ được mang đến tận nơi. Phóng sinh như thế
bằng mười sát sinh!
Luận Đại Trí Độ dạy rằng: “ Trong tất cả
các tội ác, tội sát sinh là nặng nhất. trong tất cả các công đức không
giết hại là công đức lớn nhất.”
Như vậy, việc phóng sinh theo kiểu này chính là tiếp tay cho hành động sát sinh, tội thật nặng vô cùng.
Lại
có người nói rằng: “ Người phóng sinh có công đức của việc phóng sinh,
kẻ sát sinh có tội lỗi của việc sát sinh. Chúng ta là người tạo công
đức của chính mình, người khác bắt giết gây ra tội lỗi của chính họ.
Mọi việc trong thế gian đều tương đối tồn tại: có thiện tất có ác, có
ngay thẳng tất có gian tà. Lẽ nào vì hành động tội lỗi của kẻ khác bắt
giết mà chúng ta lại không làm thiện hạnh phóng sinh hay sao?”
Lời
nói này đứng trên phương diện khơi dậy lòng từ bi bất sát và khuyến hóa
con người phóng sinh thì không có gì để nói. Tuy nhiên trong xã hội
ngày nay khi việc phóng sinh đã có đấu hiệu thương mại hóa, nguy hại
đến môi trường, nghiêm trọng hơn là tiếp tay cho bọn người chuyên làm
nghề môi giới cung cấp sinh mạng để phóng sinh thì lời nói trên cần
phải được xem xét lại.
Nên hiểu rằng phóng sinh chỉ có ý nghĩa
khi chúng ta giải thoát được chúng sinh trong hoàn cảnh hoàn toàn ngẫu
nhiên, không tính toán, thả chúng về môi trường thuận lợi, thích nghi
với điều kiện sống để chúng sống được dài lâu hơn. Không nhất thiết là
phải mang chúng đến chùa, hay chờ đợi cầu cúng xong mới thả. Chổ nào
thích hợp thì thả, chỉ cần dụng tâm từ bi cho hành động của mình là
được.
Hành động phóng sinh là hành động của một vị Bồ Tát,
nhưng nếu Bồ Tát vì việc làm lợi ích cho bản thân mình mà mặc nhiên để
cho kẻ khác tạo thêm tội lỗi, chịu khổ về sau trong địa ngục thì việc
thiện lành đó liệu có ý nghĩa gì không?
Đành rằng thế gian là
tương đối, nhưng cũng không nên vì lợi ích cho riêng mình làm ngơ trước
khổ đau (của vật bị bắt phóng sinh) và tội lỗi của người bán vật phóng
sinh. Đó không phải là người có lòng từ, càng không phải là việc làm
của người con Phật.
Biết rằng có kẻ mua người bán nhưng chưa
chắc có kẻ bán là bắt buộc phải có người mua. Ví dụ, khi chị A bán cá
không nhất thiết là tất cả mọi người đều ăn cá. Nhưng nếu có người ăn
cá thì chắc sẽ có người bán cá. Bồ Đề Đạo Tràng - Ấn Độ, nơi Đức Phật
thành đạo trước đây không có hiện tượng bắt chim nhốt vào lòng bán cho
người phóng sinh. Vì ở Ấn Độ muôn thú sống cùng con người, hoàn toàn
không có sự tách biệt.
Nhưng ngày nay vì ảnh hưởng của văn hóa
phóng sinh được du nhập từ khách hành hương nên chim chóc cũng bị bắt
nhốt để phục vụ nhu cầu này. Điều đó đi ngược lại truyền thống văn hóa,
tín ngưỡng của Ấn giáo, nhưng vì đồng tiền, vì vô minh nên người ta bất
chấp kể cả tội lỗi.
Cũng vậy, nếu chúng ta cứ tiếp tục phóng
sinh theo kiểu nhấc phone đặt hàng hay đặt lịch giao hàng tận nơi, giá
cả hợp lý, chất lượng bảo đảm thì nghiễm nhiên người phóng sinh lẫn
người bán hàng phóng sinh đều sa địa ngục.
Ngoài ra việc phóng
sinh cũng phải làm với lòng tự nguyện, không kèm theo điều kiện. Đừng
vì danh dự, lợi dưỡng mà phóng sinh, đừng vì tham lam bạc tiền, quyền
uy mà phóng sinh, càng không nên vì sự ích kỷ của mình mà phóng sinh.
Phóng sinh như thế chẳng khác nào cuộc buôn bán ngoài chợ. Hãy tin vào
nhân quả, Hãy phóng sinh vì lòng từ bi chân chính vô điều kiện.
b.2. Phóng sinh với Tuệ giác không phân biệt
Có
người Phật tử nói rằng: “ Tôi không phóng sinh cá mà chỉ phóng sinh
lươn, ốc vì những loài này có thể lặn sâu dưới nước mà không bị bắt
lại.” Suy nghĩ này cũng có phần hợp lý. Tuy nhiên trên bình diện phóng
sinh với tuệ giác không phân biệt, người này vẫn còn bị vướng mắc vào
việc lựa chọn đối tượng để phóng sinh. Chúng ta nên nhớ, phóng sinh là
giải thoát, cứu sống sinh mạng cho tất cả những chúng sinh đang cận kề
đầu búa lưỡi dao.
Ví dụ, người này chỉ muốn thả lươn, không
muốn thả cá, nhưng một hôm ra chợ mua lươn phóng sinh tình cờ thấy một
con cá đang nằm thoi thóp trên thớt chuẩn bị giết, nếu vì sự phân biệt
mà bỏ mặc con cá ấy thì dù có thả hàng triệu con lươn cũng không có
chút lợi ích nào.
Lại có người thích thả cá màu vàng hơn màu
đen vì cho rằng màu đen là xui, không hợp với mình. Rồi có người cho là
thả chim sẻ tốt hơn bồ câu, vì chim sẻ vừa rẻ vừa có thể thả được nhiều
nên cứ tìm chim sẻ mà mua, thậm chí còn được đặt cho cái tên ông hay bà
chim sẻ và từ đó hễ bắt được chim sẻ là họ đem đến tận nhà.
Thật
phi lý khi chim, cá đang vui chơi tự do sinh sống mà vì nhu cầu phóng
sinh lại bị con người bắt, rồi con người lại nhân danh triết lý cao cả
ban ơn thả nó. Đạo Phật có câu khế lý khế cơ, chúng ta làm việc phóng
sinh là điều tốt nhưng cũng cần phải phù hợp với từng địa phương, phong
tục, môi trường sinh sống của các loài chúng sinh.
Ví dụ như ở
quốc gia Ấn không có việc phóng sinh vì tất cả các loài động vật đều
sống rất an lành bên con người, nhưng vì nghĩ rằng phóng sinh ở đất
Phật sẽ có nhiều công đức hơn nên tìm cách hỏi mua và cố nhiên có cầu
tức có cung.
Hoặc mua cá nước ngọt lại đem ra vùng nước mặn
thả, và ngược lại… không những thế khi phóng sinh với số lượng lớn cùng
một lúc, trong cùng một khu vực sẽ tạo ra sự mất cân bằng sinh thái gây
nguy hại đến môi trường sống.
Hoặc phóng sinh ở những ao tù,
nước đọng thiếu không khí, không có sự trao đổi dòng chảy với các sông
lớn sẽ gây nguy hại đến tính mạng của các loài chúng sinh.
Chúng
ta đã phát tâm phóng sinh thì khi gặp bất cứ con vật nào trong bất kỳ
lúc nào thấy cần thiết phải phóng sinh thì không nên chần chừ. Chúng ta
cũng không nên nghĩ phóng sinh phải đem đến chùa hay phải vào những
ngày rằm, mùng 1 hay 30 hoặc vào những mùa đại lễ như Vu Lan, Phật
Đản…mới làm việc này. Vì nếu những dịp như trên trở thành thông lệ để
phóng sinh, người có nhu cầu phóng sinh quá đông trong cùng một thời
điểm sẽ là ngày tận diệt của các loài chúng sinh nhỏ bé yếu đuối.
Có lẽ nào vì cầu chút phúc lành, vì niềm vui cho chính mình mà làm cho hàng vạn sinh linh chịu cảnh khổ đau, hoảng sợ.
Hơn nữa vào những ngày ấy việc ăn mặn còn không nên huống hồ gì gián tiếp bắt nhốt để làm cái việc phóng sinh giả dối ấy.
Hành
động săn bắt thú hoang như chim, thỏ,… không những phạm tội sát sinh mà
còn vi phạm Luật Bảo Vệ Môi Trường ở điều 7, khoản 2,3 được công bố năm
2005.
Giám đốc Hội Bảo Vệ Môi Trường của bán đảo Đài Loan cho
biết: “những con chim rừng bị bắt và bán cho nhóm người sùng đạo để
phóng sinh và kết quả là phần lớn những con chim ấy bị thương hoặc bị
chết.”
Tại Việt Nam hiện trạng phóng sinh như trên đang có phần
gia tăng và phổ cập từ thành thị đến nông thôn. Có nhiều buổi phóng
sinh quy mô lớn họ thuê cả tàu chở hàng vạn, hàng triệu loài thủy cầm
để phóng sinh với số tiền lên đến hàng trăm triệu đồng nhưng họ đâu
biết mới ngày hôm qua những chúng sinh này còn vui tươi tung tăng bơi
lội bên mẹ, bên cha, quần tụ trong bầy đàn của nó thế mà chỉ một đêm
thôi, gia đình, bầy đàn của chúng đã tan tác, lòng oán hận có lẽ nhiều
hơn công đức có được từ việc làm thiếu trí tuệ này.
Hình thức
phóng sinh đâu cần phải quy mô và rập khuôn như thế, chúng ta có nhiều
cách để làm mà qua đó cũng mang đến lợi ích cho chúng sinh không kém
như: giữ gìn môi trường sống xanh sạch đẹp, bảo vệ rừng, bờ biển và tài
nguyên thiên nhiên, xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên để các loài
sinh vật có nơi ở thích hợp thoải mái, tự giác không đánh bắt cá và săn
bắn chim thú bừa bãi… hoặc dùng số tiền lớn này làm việc từ thiện như:
giúp đỡ các gia đình nghèo khó có con em hiếu học được đến trường, tận
tình giúp khi thấy người gặp khó khăn, an ủi động viên khi người rơi
vào tình cảnh tuyệt vọng, kịp thời can ngăn khi thấy kẻ cô thế yếu đuối
bị hành hạ đánh đập, nuôi dưỡng và cung cấp kinh phí cho chư Tăng, Ni
có đủ điều kiện tu học…rất nhiều và rất nhiều cách để thể hiện việc làm
thiện lành.
Cũng cần nói thêm, mỗi người nên tự giác làm công
việc phóng sinh cho chính mình. Nghĩa là ngoài việc mua các loài chúng
sinh để thả chúng ta cần nên giải thoát, phóng sinh cho chính chúng ta.
Người
nào tâm tham nhiều thì nên “phóng” (buông bỏ) tâm tham bằng cách sinh
khởi sự bố thí, cúng dường. Tâm sân nhiều thì nên buông bỏ bằng cách
sinh khởi lòng từ bi nhẫn nhục. Tâm si mê, tà kiến nhiều thì nên buông
bỏ bằng cách tu quán Duyên khởi hay niệm Phật… được như thế công đức
phóng sinh mới thù thắng viên mãn.
c. Tác hại của việc phóng sinh không kèm theo Tâm Bồ Đề
Thật
nguy hiểm vô cùng khi động cơ làm việc thiện hay cụ thể là phóng sinh
mà không kèm Tâm Bồ Đề thông qua tình thương không điều kiện và tuệ
giác không phân biệt. Hậu quả của việc phóng sinh ấy đi ngược lại hành
động mà họ đang làm, nghĩa là thay vì phóng sinh họ lại trực tiếp hoặc
gián tiếp làm việc sát sinh.
Quả báo của việc sát sinh đau khổ
vô cùng, mạng đền mạng là điều không tránh khỏi, nhưng nếu biết mà vẫn
không thay đổi thì thật đáng trách.
Lịch sử Đức Phật cũng có
nhắc đến quả báo của việc sát sinh qua câu chuyện vua Tỳ Lưu Ly tiêu
diệt dòng họ Thích Ca (họ của Đức Phật). Chuyện kể như sau: Tiền thân
Đức Phật trước kia là một chú bé trong một ngôi làng nọ. Trong làng có
một cái hồ, nơi đó có rất nhiều cá.
Một hôm dân làng cùng nhau
kéo lưới bắt toàn bộ cá dưới hồ lên để ăn, trong số đó có một cón cá
rất to. Chú bé kia không ăn cá nhưng thấy cá to nên muốn đùa bằng cách
lấy cây gõ vào đầu cá 3 cái.
Sau này đến thời Phật Thích Ca,
vua Ba Tư Nặc là người mộ Phật, cưới một cô gái nô tỳ trong dòng họ
Thích làm vợ sinh ra được Tỳ Lưu Ly. Lúc nhỏ, Tỳ Lưu Ly thường hay qua
bên nhà ngoại tức kinh thành Ca Tỳ La Vệ chơi, nhân đùa giỡn nơi tòa
ngồi của Phật nên bị mắng và bị nhục mạ là con của đứa nô tỳ thấp kém.
Vì
uất hận trong lòng nên sau khi lớn lên, làm vau ông quyết tâm kéo quân
tàn sát dòng họ Thích để trả mối thù bị lăng nhục. Phật ba lần dùng địa
vị là Đấng Cha lành của chúng sinh để khuyên Tỳ Lưu Ly nên ngưng bình
chinh phạt dòng họ Thích đồng thời muốn tránh nghiệp sát và hóa giải
hận thù, nhưng cuối cùng Tỳ Lưu Ly cũng đem quân tàn sát và truy sát
dòng họ Thích đến cùng.
Mục Kiền Liên - vị đệ tử thần thông số
một của Phật thấy vậy dùng thần thông đem 500 người họ Thích bỏ vào
bình bát để tránh họa sát thương nhưng khi trút ra chỉ còn là bát máu.
Nhân
việc này, chúng Tăng hỏi Phật nguyên nhân, Phật ôn tồn nói ra câu
chuyện này và cho biết, con cá lớn kia là Tỳ Lưu Ly còn quân lính là
những con cá nhỏ trong hồ. Người ăn cá trong làng chính là người dòng
họ Thích. Phật không ăn nhưng vì gõ lên đầu cá 3 cái nên ngày nay chịu
quả báo đau đầu 3 lần.
Nghe câu chuyện này người có trí không
khỏi bàng hoàng khiếp sợ. ngay cả Phật là bậc Đại giác mà cũng không
tránh khỏi định nghiệp của việc sát sinh. Vì thế nếu phóng sinh mà
không kèm Tâm Bồ Đề thì hậu quả cũng không thể nào tránh khỏi.
Lại
nữa, có câu chuyện Phật tử Minh Thiện, người tỉnh Bến Tre. Nguyên trước
đây làm nghề buôn cá từ Biển Hồ (Campuchia) về bán cho các vựa cá ở
miền Nam. Khoảng năm 1967, lúc 11h sáng khi đang làm việc tại văn
phòng, Minh Thiện cảm thấy buồn ngủ. Vừa thiếp đi, ông thấy một đoàn
hơn 20 người già trẻ, nữ nam mặc áo xanh lấm chấm vàng, trên đầu đội mũ
đỏ, mặt mày thiểu não, yếu ớt, dìu nhau bước vào văn phòng cầu xin ông
tha mạng.
Minh Thiện ngạc nhiên tỉnh giấc, bước ra cửa hướng
đoàn người lạ vừa đi ra. Đến chỗ nhân công đang đổ cá xuống thuyền, ông
thấy trên 20 con cá màu xanh lấm chấm vàng, con lớn to bằng em bé hai
tuổi, con nhỏ bằng bắp chân, trên miệng mỗi con có một vệt màu đỏ to
bằng bàn tay trong giống cái mũ nhọn, mắt như đang nhìn mình cầu cứu.
Minh
Thiện thấy lạnh xương sống, mình nổi da gà, toát mồ hôi, ông chợt nghĩ
rằng đây chính là những người mới đến xin mình cứu mạng, liền cho người
đem thả xuống sông. Từ đó ông bỏ nghề buôn cá, chuyển nhà lên Đà Lạt
làm nghề buôn rau trái sinh sống.
Trên đây là hai trong số rất
nhiều câu chuyện rất thật, rất sống động về quả báo của việc sát sinh.
Người đời vì chút lợi lộc phù phiếm trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả
mai sau.
Chút miếng ăn mà sát hại sinh linh nào ngờ miếng ăn đó
chính là thịt của cha mẹ, thân bằng quyến thuộc hay của chính mình.
Hoặc vì si mê cố chấp tà kiến không phân rõ đâu là nẻo thiện đường tà,
làm việc thiện lành hóa ra việc ác, cứ cho việc mình là đúng không chịu
lắng nghe hiểu thấu suy lường, tự hại chính mình và hại cả những người
chung quanh.
Vì lẽ đó khi làm việc gì cũng nên khởi lên động
lực từ Bồ Đề Tâm. Luận Đại Trí Độ dạy rằng: “ Tâm đại từ là tâm ban vui
cho tất cả chúng sinh, tâm đại bi là tâm cứu vớt cho tất cả chúng
sinh.” Thật đáng suy nghĩ lắm thay!
d. Những trường hợp không sát sinh và Nghi thức phóng sinh căn bản
d.1 Những trường hợp không nên sát sinh
Phàm
người thế gian, nhất là người tại gia luôn có nhiều chướng ngại trong
việc khởi sự tu tập các việc lành nhất là việc phóng sinh. Ngày nay
nhìn quanh thế giới thật khó tìm đâu ra niềm an vui thật sự. Chiến
tranh vẫn còn, niềm hy vọng một thế giới hòa bình thật mong manh như
làn khỏi mỏng.
Mạng sống con người ngày càng ngắn ngủi, lại bị
đe dọa bởi nhiều căn bệnh quái ác như ung thư, tiểu đường, cao huyết
áp, và những trận đại dịch vô cùng hiểm nguy. Nguyên nhân cũng vì lòng
ham thích giết chóc mà ra.
Giết vì thù hận, giết vì ghen tức,
giết vì tranh nhau quyền lợi, danh vọng, giết gì miếng ăn… máu và tiếng
kêu than của muôn loài chúng sinh chưa hề dứt vì lẽ đó mà thế giới này
vẫn luôn hỗn loạn, đau thương.
Nay muốn thế giới hòa bình mỗi
người nên tự giác tránh xa nghiệp ác, tạo nhiều việc lành như bố thí,
phóng sinh, học Phật, niệm Phật.
Kinh Phạm Võng, Phật có dạy: “
Người con Phật lấy lòng từ mà phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều
là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình. Vì mình trải qua nhiều đời
nên chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ của mình. Nếu giết hại
sinh mạng để ăn thịt tức là tự giết cha mẹ mình, cũng là tự giết thân
cũ của mình….Cho nên thường hành phóng sinh thì đời đời sinh ra thường
gặp Chính pháp. Khuyên dạy người làm việc phóng sinh, nếu thấy người
đời giết hại sinh vật, nên tìm phương tiện để giải cứu khiến cho chúng
thoát khỏi khổ nạn.”
Thế nên, người có tâm thiện lương, hơn hết
là người con Phật cần có phương tiện khéo léo chuyển hóa gia đình,
khuyến hóa mọi người tập ăn chay, không nên sát sinh, thực hành phóng
sinh theo tinh thần Tâm Bồ Đề.
Nhân đây xin trích dẫn những
trường hợp cần tránh sát sinh và nên thực hành phóng sinh để người đọc
tham khảo, suy tư và áp dụng thực hành
Thứ nhất, ngày sinh nhật, mừng thọ không nên sát sinh
Thế
gian có tục lệ mừng ngày sinh nhật cho người dưới 60 tuổi và mừng thọ
cho người trên 60 tuổi. Đây được xem là ngày vui của cá nhân và gia
đình. Trong ngày vui này không nên sát sinh để làm tiệc đãi bạn bè,
người thân vì ý thức rằng mạng sống mình được lâu dài khỏe mạnh đâu
phải do sát hại sinh vật mà được.
Mình và vật giống nhau ở chỗ
tham sống sợ chết, đừng làm vui trên sự đau khổ của chúng sinh khác.
Trong ngày đó hãy phóng sinh, làm việc thiện để có thêm công đức, tăng
sức khỏe và được trường thọ.
Thứ hai, ngày sinh con không nên sát sinh
Nước
bốn biển có thể gọi là nhiều nhưng không sao đong đầy tình mẹ. Mang
thai 9 tháng 10 ngày đã là việc khó, nhưng càng khó hơn khi phải vượt
cạn để đưa con đến được thế giới loài người một cách an toàn.
Trong
lúc ấy sinh mạng của mẹ và con như chỉ mành treo chuông, Quỷ Dạ Xoa ăn
máu tanh của sản phụ và thịt thai nhi đang bu quanh để chờ cơ hội cướp
lấy sinh mạng của cả hai mẹ con.
Vì lẽ đó, người thân trong gia
đình nếu muốn giúp phần phúc đức cho mẹ tròn con vuông thì không nên
sát sinh và phải phóng sinh, niệm Phật, làm việc phúc thiện để mẹ con
được mạnh lành.
Hơn nữa đứa con ra đời tuy được an toàn nhưng
trong ba năm đầu sinh mạng vẫn còn nhiều hiểm nguy chầu chực vì thế nên
tránh việc sát hại sinh vật, làm nhiều việc thiện để tạo công đức lành
cho con trẻ bình an.
Lại nữa, cha mẹ phải tránh việc giết hại
chúng sinh trực tiếp trước mặt con trẻ như lấy tay đập ruồi, đập muỗi,
giết kiến, giết chuột… vì con trẻ trong giai đoạn đang lớn tâm thức rất
nhanh nhạy, tiếp thu được tất cả những hình ảnh từ hành động của cha mẹ
chúng, nhất là những đứa hiếu động nhiều nghiệp sát thì khi thấy việc
làm ấy chúng rất thích thú.
Điều này sẽ rất nguy hiểm vì sự
giết hại đã ăn sâu trong tiềm thức của con trẻ, sau này khi gặp chuyện
bực tức, nếu không kiềm chế chúng rất dể đánh và giết người.
Thứ ba, Cúng giỗ không nên sát sinh
Ngày
giỗ chạp, tiết thanh minh là dịp để cháu con ôn lại ân tình của Tổ tiên
đối với dòng tộc, gia đình. Anh em quần tụ, dâng lên Tổ tiên ông bà mâm
xôi, lá trầu trái cau, hoa, quả, trà, hương tinh khiết thể hiện lòng
tri ân và báo ân của con cháu đối với bậc tiền nhân.
Đồng thời
làm việc phóng sinh, tạo công đức lành, tụng kinh cầu siêu góp phần
công đức để Tổ tiên sớm được sinh về cảnh giới an lành.
Không nên sát sinh, uống rượu, bày tiệc uống ăn, chén tạc chén thù dẫn đến tranh đấu bất hòa nhau.
Con
cháu hiếu thảo là biết sống lương thiện, hoàn thuận kính nhường, món
quà quý giá nhất con cháu dâng lên ông bà chính là sự sống trong sạch,
và tâm hồn thanh khiết.
Của cải lương thiện tạo ra đem dâng Tổ tiên còn không nhận được huống chi là của bất chính. Hãy thận trọng!
Thứ 4, Hôn lễ không nên sát sinh
Ngày
Hôn lễ là ngày quan trọng nhất của đời người vì kể từ ngày đó hai tâm
hồn là một, biết cảm thông và chia sẽ cho nhau nhiều hơn và đó cũng là
ngày đánh dấu bước trưởng thành tiếp theo trong đời người. Có gia đình
rồi ai cũng muốn được hạnh phúc, muốn sinh con hiền cháu thảo. Đồng
thời trước ngày cưới đã đi xem ngày, chọn giờ tốt nhưng vào ngày đó lại
giết hại sinh linh, cười vui trên sự đau khổ, tiếng rên xiết của biết
bao sinh mạng, điều này thật đáng không nên.
Không có đạo lý nào cho phép vui cười trên sự khốn cùng của kẻ khác nhất là vào ngày linh thiêng trọng đại của đời người.
Hãy
tránh việc sát sinh, nên làm việc phóng sinh và nhiều điều phúc thiện
trước và sau khi cưới. Điều tốt đẹp chỉ có thể xảy đến khi ta biết hiến
dâng sự tốt đẹp cho người khác.
Thứ năm, Đãi khách không nên sát sinh
Thói thường “phú quý sinh lễ nghĩa” nên kẻ giàu sang mà thiếu ý thức mang tội nhiều hơn kẻ nghèo.
Người
con Phật đã giác ngộ nên hạn chế việc giết hại, tổ chức ăn thịt uống
rượu. Hãy tập ăn chay vì sức khỏe và sự sống lâu dài, đồng thời tránh
được nghiệp sát thân do đao binh, tai nạn. Ngày nay ăn uống vui say
trên sinh mạng chúng sinh mà đâu biết đó chính là thịt của cha mẹ hay
người thân chính mình.
Thứ sáu, Lễ tang không nên sát sinh
Người
thân mình mất, tâm thức lìa khỏi xác thân còn chưa biết về đâu, đường
trước mịt mờ, ngõ sau mất lối. Nếu người khi sống làm nhiều phúc thiện,
khi chết hiện tướng an lành thì sẽ được sinh về cõi lành. Người sống
làm nhiền điều ác, khi chết hôn mê bất tỉnh sẽ bị đọa vào ba cõi khổ:
địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Còn kẻ thiện ác chưa phân, khi chết tỉnh
mê lẫn lộn, hạng người này cần phải trải qua 49 ngày phân định nghiệp
nặng nhẹ để theo nghiệp mà đầu thai.
Người thân không nên khóc
than, gào thét, nếu thương người mất, không nên sát sinh mà phải phóng
sinh, bố thí, cúng dường, tụng kinh cầu siêu và hồi hướng công đức ấy
giúp cho người mất có thêm thiện nghiệp để sinh về cõi lành.
Ví
như người lữ hành đang lúc không còn thức ăn, bổng nhiên được tiếp tế
lương thực để đi tiếp chặng đường dài phía trước. Còn nếu sát sinh cúng
tế, làm cho người chết càng thêm nặng tội.
Ví như người cõng đá
to đi trong bùn, đang bị lún dần trong vũng lầy dơ bẩn, bổng nhiên có
người gửi thêm vài tảng đá nữa khiến cho người cõng đá kia phải chìm
sâu trong vũng bùn nhơ nhớp đó.
Đây là sáu trong số muôn vàn
trường hợp cần tránh, vì nhận thấy sáu trường hợp này người thế gian dễ
tạo tội sát sinh nhất. Nhưng cũng chính sáu trường hợp này mà biết ăn
năn sám hối, từ bỏ sát sinh thực hành phóng sinh, làm điều phúc thiện,
lợi lạc thật lớn vô cùng.
d.2 Nghi thức phóng sinh căn bản
Nhiều người mong muốn làm việc phóng sinh nhưng không biết phải chọn nghi thức nào nhanh gọn và mang lại hiệu quả đúng.
Nay
xin góp nhặt từng trong lời dạy của chư Tổ sư soạn thành nghi thức ngắn
gọn có thể áp dụng mọi lúc mọi nơi, trong mọi trường hợp, nghi thức này
có thể học thuộc để cá nhân tiện bề thực hành.
Trước hết người
phóng sinh nên chắp tay trang nghiêm, mắt nhìn vào những chúng sinh
đang bị đau khổ đó mà quán tưởng như là người mẹ thân yêu hay người
thân nhất của mình đang gặp nạn, mình đang hết sức giải cứu cho họ.
Bằng
động lực ấy, dùng 3 nghiệp thân, miệng và ý trì Chú Đại Bi (nếu thuộc
và có thời gian) hoặc niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (3 lần) sau đó
đọc bài kệ Sám hối:
Chúng con đã tạo bao ác nghiệp
Đều vị ba độc tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra
Tất cả nay cầu xin sám hối
Sau khi niệm như vậy 3 lần, rồi lại vì chúng sinh mà niệm 3 lần bài Quy y Tam Bảo
Con xin quay về nương tựa Phật
Con xin quay về nương tựa Pháp
Con xin quay về nương tựa Tăng
Quay về nương tựa Phật, con không đọa vào Địa ngục
Quay về nương tựa Pháp, con không đọa vào Ngạ quỷ
Quay về nương tựa Tăng, con không đọa vào Súc sinh
Chúng con đã về nương tựa Phật
Chúng con đã về nương tựa Pháp
Chúng con đã về nương tựa Tăng
Sau đó niệm Chú Vãng Sinh (3 lần, nếu thuộc) hoặc niệm danh hiệu Phật A DI ĐÀ cho đến khi thả hết.
Sau khi thả xong, người phóng sinh chấp tay đọc bài Kinh Bát nhã (nếu thuộc) rồi Hồi hướng như sau:
Vì
mục tiêu thành tựu Phật quả, lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Con xin đem
công đức lành này hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Nguyện con và tất cả chúng sinh đều vãng sinh Cực Lạc, sớm thành Phật
đạo vì lợi ích cho tất cả hữu tình.
Sau đó, đọc tiếp bài:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Tâm Hòa - phattuvietnam