Sự ảnh hưởng sâu rộng của Đức Phật và Tăng đoàn đã làm cho ngoại
đạo lo sợ quần chúng sẽ theo Phật và xa rời họ. Do đó, một nhóm ngoại
đạo đã suy nghĩ, toan tính âm mưu triệt hạ uy danh Đức Phật. Sau cùng, một nữ
đệ tử cuồng tín của họ tên là Tôn Đà Lợi đã chấp nhận hy sinh bản thân cho mục
đích đen tối đó. Tôn Đà Lợi thường xuyên trang điểm đẹp đẽ, ôm hoa đến cúng
dường Phật. Một thời gian sau, bọn chúng giết cô gái và vùi xác cô phía sau
tinh xá, phao tin rằng Phật đã thủ tiêu cô gái nhằm ém nhẹm mối quan hệ bất chính của Ngài. Vụ việc khiến không ít người xôn
xao, nghi hoặc. Vua Ba Tư Nặc cho người theo dõi, điều tra vụ việc. Cuối cùng,
chân tướng sự việc đã được phát lộ do ngoại đạo tranh cãi về việc phân chia
tiền bạc bất đồng sau khi vụ án hoàn thành.
Qua câu chuyện trên, vua Ba Tư Nặc thắc mắc tại
sao Đức Phật có đời sống trong sáng như vậy mà còn bị hãm hại. Theo
đó, Đức Phật đã kể lại một tiền kiếp của Ngài, là nhân duyên của kinh Hiền
Nhân.
Chuyện được bắt đầu từ một người tên Hiền
Nhân, sinh trong một gia đình có 3 anh em. Sau khi thân phụ mất, 2 người anh
tham lam, dẫn đến xung đột trong việc phân chia tài sản. Hiền Nhân quyết bỏ tất
cả lợi dưỡng, ra đi tìm đường học đạo. Sau khi gặp được minh sư, ngộ được
đạo mầu, Hiền Nhân dùng trí tuệ, phương tiện giáo hóa quần sinh. Vua nước Lâm
Đạt cảm được đạo hạnh của Ngài, tôn làm quốc sư, góp phần giáo hóa, đem lại
sự an bình cho nhân dân trong nước. Tuy thế, 4 vị quan tham ô trong triều
sinh lòng đố kỵ, mua chuộc và xúi giục hoàng hậu bày hạ kế khiến vua
phải đuổi Hiền Nhân đi.
Vua nghe lời
hoàng hậu, ngược đãi Ngài. Hiền Nhân đọc được bạc tâm của vua và hoàng hậu,
quyết định một y một bát vào núi ẩn cư tu hành. Trước khi ra đi, Ngài đã có
một đối thoại vô cùng hữu ích với nhà vua, đó là một cái nhìn độc đáo về
văn hóa ứng xử đạo đức cũng như phương cách sống của mọi người ở
mọi vị trí khác nhau trong đời sống cộng đồng. Qua tinh thần kinh Hiền
Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong
việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá trong
mọi hoàn cảnh xã hội, xưa cũng như nay.
Ở đây, chỉ
trong phạm vi một lát cắt về tình bạn, đã được Đức Phật đề cập rất
tinh tế, như là một chuẩn mực thể hiện đạo lý làm người, giúp chúng
ta nhận chân được nhân cách con người thông qua hành vi giao tiếp, ứng xử. Lời
dạy của Phật không chỉ là những tình huống ứng đối mà còn giúp chúng
ta có một lối sống phù hợp với đạo lý làm người trước những hoàn
cảnh trái với mong muốn.
Ngài dạy: “Thương
yêu nhau rồi có sự giận ghét nhau, khi thương thì muốn nhờ cậy, lúc ghét thì chẳng
muốn gần. Lấy sự cung kỉnh nhau để cầu thân thiện, lấy sự răn dạy lẫn nhau để
tránh xa điều ác. (...) Người không có lỗi với mình, thì mình không nên bày đặt
sự sai lầm mà vu oan cho họ. Người muốn xa ta thì ta không nên miễn cưỡng gần
họ. Sự thương yêu đã xa lìa thì không nên nghĩ đến.
Con chim
đậu gãy nhánh còn biết đi tìm nhánh khác để đậu, huống chi làm người qua lại có
pháp độ, hà tất phải thủ thường. Cành mục ta không nên vịn nắm, người loạn ý ta
chẳng phạm nhằm họ. Người muốn đem việc xấu cho nhau, dù thấy nhau cũng không
vui, ta xướng mà người không phụ họa theo, nên biết đó là người ở bạc. Người
muốn đem việc lành cho nhau thì dù chậm dù gấp cũng phải đi; đem lời trung
chính nhắc nhở nhau, thì cũng đủ biết người ấy là người hậu. (...) Bạn tri thức
gặp nhau, chủ đãi khách, đêm đầu thì quý như vàng, đêm thứ hai thì làm lơ như
bạc, đêm thứ ba lạt nhách như đồng, chứng cớ rõ ràng như vậy, nếu tôi không đi,
đợi đến chừng nào mới đi?”.
Trong cuộc
đối thoại này, Hiền Nhân đã trình bày cho vua rất nhiều khía cạnh về sự ứng đối
giữa người với người. Đặc biệt và đáng chú ý nhất có lẽ là sự khái quát về bốn
cách kết bạn, như là một châm ngôn, một bài học luân lý - đạo đức Phật giáo
mà Đức Phật đã gửi đến nhân loại: “Bạn có bốn thứ: một là kết bạn như hoa,
hai là kết bạn như cân, ba là kết bạn như núi, bốn là kết bạn như đất”.
Sao gọi là kết bạn như hoa?
Khi bông
hoa còn tươi tốt thì giắt trên đầu, khô héo rồi bỏ đi. Kết bạn cũng thế: hễ
thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại bỏ làm lơ.
Chúng ta
thấy, Đức Phật đã minh họa một cách hình tượng và thực tiễn như thế nào
khi đề cập đến kiểu kết bạn thiếu nhân, thiếu nghĩa, chỉ xu theo vật chất,
lợi dưỡng. Một người bạn mà ứng xử như thế thì làm sao chúng ta có
thể kết bạn lâu dài? Chính điểm này, trong đoạn kinh, Hiền Nhân đã
nói với vua: “Ở đời, có thịnh ắt có suy, có hội họp ắt có ly tán, lành dữ
vô thường, họa phúc tự mình chuốc lấy. Kết bạn mà không bền chắc thì không nên
thân. Thân mà không có chừng độ, thân lâu sẽ có khinh lờn. Ví như múc nước
giếng, múc sâu thì nổi cặn. Gần người hiền được thêm trí tuệ, ở với kẻ dốt càng
thêm ngu si. Thường thấy thì hay khinh lờn, xa nhau thì sanh oán giận. Giao
tiếp người lành nên qua lại có chừng độ, thân mà có cung kỉnh thì thân lâu ngày
càng có hậu. Giao thiệp với kẻ bất lương, họ ăn ở không thực thà, lời ngon
tiếng ngọt chẳng qua là để lợi dụng mình, dù cho có kết hợp cũng không nên
tin…” .
Trong cuộc sống, kiểu kết bạn này dường như không
hiếm. Cho nên, trong cơn hoạn nạn mới có thể nhận thấy được đâu là tình bạn
thủy chung, đích thực. Khi giàu sang hay khi quyền cao chức trọng, nếu có nhiều
người đến giao du kết bạn, thì ta hãy khoan vội mừng, cho rằng mình được nhiều
người quý trọng và lắm bạn hiền. Bạn hiền thì dù ta giàu hay nghèo, sang hay
hèn, miễn là còn giữ được phẩm chất, nhân cách, thì bạn không bao giờ thay lòng
đổi dạ.
Sao gọi là kết bạn như cân?
Khi để vật
nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu vổng lên, có qua lại thì cung kính
nhau, không qua lại thì khi dể nhau.
Đó là tình
bạn như cân, lúc vổng lên, lúc hạ xuống, khi tỏ vẻ trọng vọng, khi rất đỗi coi
thường. Cũng như trên, ngày nay có không ít những “tình bạn” như thế. Nhất
là trên “quan trường hoạn lộ”, khi ta còn đương chức đương quyền, có
biết bao người đến thăm hỏi, quà cáp; khi ta thất thế hay về hưu thì
tất cả những bạn bè trước đây đều không còn lui tới, qua lại. Tìm
được người tri âm, tri kỷ có lẽ còn khó hơn tìm vàng.
Thời Đông Chu có câu chuyện về tình bạn như sau: “Bảo Thúc
chết, Quản Trọng thương tiếc khóc ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi: Ông với Bảo
Thúc vốn không phải họ hàng thân thích, cớ sao lại thương tiếc, khóc than như
vậy?
Quản Trọng
nói: Lúc nhỏ tôi khốn khổ, thường đi buôn chung với Bảo Thúc, lúc chia lãi bao
giờ ta cũng lấy phần hơn mà Bảo Thúc không cho ta là tham, vì biết tôi gặp cảnh
quẫn bách, bất đắc dĩ phải lấy như thế. Tôi ở chỗ chợ búa, thường bị lắm kẻ dọa
nạt, Bảo Thúc không cho ta là kẻ hèn nhát, vì biết tôi có lượng khoan dung. Bàn
việc với Bảo Thúc, nhiều khi việc hỏng, Bảo Thúc không cho tôi là ngu, biết con
người có lúc may, lúc rủi cho nên công việc có lúc thành, lúc bại. Tôi ba lần
ra làm quan, ba lần bị bãi chức, Bảo Thúc không bao giờ xem thường xa lánh,
vì biết tôi chưa gặp thời… Đối với người hiểu mình, mình đem cả tính mạng ra
cống hiến còn chưa là quá, huống chi thương tiếc mà khóc thế này thì thấm vào
đâu...”.
Bạn như thế có mấy người? Nhân tình ấm
lạnh, cuộc sống dễ đổi thay, đây là lẽ thực của nhân sinh...
Sao gọi là kết bạn như núi?
Hòn núi vàng, loài chim thú tụ về, lông cánh được
chói màu vàng rực. Kết bạn cũng thế: khi sang thời sang với nhau, khi vui đồng
vui.
Việt Nam
chúng ta có câu “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Quý thay những người có
thể hy sinh cả sự nghiệp cho bạn như chuyện Lưu Bình - Dương Lễ...
Bên cạnh đó,
dường như ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện Bá Nha - Tử Kỳ. Câu chuyện
đã tạo nên một giai thoại, và cũng qua câu chuyện này, người đời có câu
“tri âm tri kỷ” để chỉ cho kiểu tình bạn cảm thông, thấu hiểu, không phân
biệt sang hèn.
Bá Nha và Tử
Kỳ là hai người bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sách Lã Thị Xuân
Thu chép: “Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm”. Tử Kỳ còn
khen tiếng đàn của Bá Nha lúc thì “nguy nguy hồ chí tại cao sơn”, lúc thì
“dương dương hồ chí tại lưu thủy”.
Bá Nha, họ Du
tên Thụy, người nước Sở, nhưng làm quan Thượng Ðại Phu nước Tấn. Bá Nha
nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời
và không bao giờ rời cây Dao cầm yêu quý của mình. Còn Tử Kỳ họ Chung tên Huy,
là một danh sĩ ẩn dật làm nghề đốn củi để báo hiếu cha mẹ tuổi già
nua, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương.
Một hôm, Bá
Nha đến cửa sông Hán Thương, gặp đêm trăng sáng, bèn cắm thuyền dưới chân núi
Mã Yên, dồn hết tâm tư dạo một khúc đàn. Đàn chưa dứt bài thì dây bỗng đứt; Bá
Nha nghĩ có người nghe trộm, bèn cho người đi tìm. Người chưa kịp đi thì nghe
tiếng nói: - Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn,
đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành! Bá
Nha cười lớn bảo: - Người tiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta?
Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại: - Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là
không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: “Thập nhất chi ấp tất
hữu trung tín” (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà
có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến... Nếu đại nhân khinh chỗ quê
mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên khảy lên khúc đàn tuyệt diệu
làm gì. Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ
lời, liền tiến sát đến mũi thuyền dịu giọng nói: - Người quân tử ở
trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không?
- Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là: Ðức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi,
phổ vào tiếng đàn, lời rằng: Khả liên Nhan Hồi mệnh tảo vong / Giáo nhân tư
tưởng mấn như sương / Chỉ nhân lậu hạng đan biều lạc. Hồi nãy, đại nhân
đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu bốn là: Lưu đắc hiền danh
vạn cổ dương...
Bá Nha vô
cùng bái phục và xin kết nghĩa anh em. Năm sau, trở lại chốn cũ, hay tin Tử Kỳ
đã mất, Bá Nha đến mộ lễ lạy, xong tấu khúc tiếc thương và đập vỡ Dao cầm. Vì
Bá Nha hiểu rằng, từ đây, không ai có thể thấu được tiếng đàn / tiếng lòng của
ông nữa... Dao cầm đập nát đau lòng phượng / Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai? /
Gió xuân khắp mặt bao bè bạn / Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!
Sao gọi là kết bạn như đất?
Tất cả mọi
vật đều dựa đất mà sinh. Làm bạn để nuôi dưỡng, ủng hộ, ân hậu không quên...
Đây là mối
quan hệ bạn bè nương tựa nhau để cùng tiến bộ, là tấm gương bạn bè chân
tình, cao quý - một trong những yếu tố tạo nên tinh thần tùy hỷ trong
đạo Phật. Khi thấy bạn có những tiến bộ, mình không sanh lòng ganh tỵ;
khi thấy bạn gặp cảnh ngộ thiệt thòi, kém sút, mình cũng không sanh tâm khi dể,
rẫy ruồng.
Sự tương
thân đó làm cho tánh vị kỷ không còn tồn tại trong mỗi con người.
Chính vì sự vị kỷ mà con người sanh ra đố kỵ, làm cản trở sự tiến
bộ của người khác.
Bồ tát Hiền
Nhân đã nói: “Kẻ trí giả nhìn thấy rõ ràng đời là một sự biến đổi tang
thương; trẻ trung rồi sẽ già nua, cường tráng rồi sẽ suy nhược, có sống thì sẽ
có chết; giàu sang như mây nổi, đều là vô thường cả. Cho nên, lúc an ổn phải
nghĩ đến khi nguy ngập, khi hưng thạnh thì nghĩ đến lúc vô thường, người lành
thì kính mến, người ác thì phải lánh xa. Có giận hờn ai thì nên trừ bỏ, đừng vì
thế mà gây ác hại người. Nhu hòa mà khó xâm phạm, yếu đuối mà người khó thắng.
Người trí như vậy đó, ta không nên khinh thường…”
Trong xã
hội Việt Nam chúng ta hiện nay cũng có những con người biết sống chia
sẻ cùng nhau lúc khó khăn, được xem là “cổ tích thời hiện đại”. Điển hình
như câu chuyện ở thôn Hội Phú, xã An Ninh Tây (huyện Tuy An - Phú Yên) - một
học sinh lành lặn (Nguyễn Thị Định), cõng một học sinh khuyết tật (Lâm Thị
Minh Trang) đến trường suốt những năm cấp 2; lên đến cấp 3, cả hai mới được đến
trường bằng xe đạp...
Có thể nói, tình bạn như thế đã nói lên
sự hy sinh, giúp nhau cùng tiến bộ. Tình bạn đó không còn là tình
bạn thường tình, mà đã tạo nên một nhân cách lớn, và không phải chỉ
có trong những trang “cổ tích”, mà là một hình ảnh tuyệt đẹp giữa đời
thường, trong xã hội hiện đại.
Qua bốn kiểu
kết bạn trong kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận thức rõ lối ứng xử
trong mối tương quan bạn bè, hay nói khác hơn, dù chúng ta làm bất cứ
nghề nghiệp gì, khi chọn đối tác hay tạo mối quan hệ, chúng ta cũng
có thể ứng dụng bốn cách này để có thể nhận chân về những mối quan hệ
mà ta đang có, đồng thời tạo nên một lối ứng xử có thủy có chung, có văn
hóa, đạo đức.
Có thể nói, qua đây, chúng ta cũng thấy rõ giáo
lý đạo Phật không chỉ nói về những vấn đề “xuất thế”, mà Đức Phật cũng đã
rất chú trọng về vấn đề “nhập thế” - hoàn thiện nhân cách trước khi đạt được
thánh cách - giúp cho tất cả chúng ta một phương pháp ứng xử phù hợp với
đạo lý làm người, tạo nên một nhân cách sống. Nhân cách sống đó, dù bất
cứ ở đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng có thể ứng dụng và mang lại
những kết quả tốt đẹp.