Thuyết nhân quả khẳng định rằng điều mọi người gặp
phải đều do tự mình thiết kế trong quá khứ. Làm điều đúng tốt thì hậu
quả tốt. Làm điều sai xấu thì hậu quả xấu. Chuyện tiền thân Maha
Dhamma-Pàla kể lại câu chuyện minh họa cho điều đó. Câu chuyện này do
Đức Phật kể lại sau khi Ngài đã thành Phật và về thăm quê nhà.
Chuyện kể rằng lúc đó Đức Phật dẫn đầu hai mươi ngàn vị Tỷ-kheo. Đại
vương Suddhodana (Tịnh Phạn), sau khi cúng dường một buổi cháo tại
cung điện cho Đức Phật và các vị Tỷ-kheo đã vui vẻ trò chuyện suốt
buổi. Đức vua nói: “Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn hành trì khổ hạnh có vài thần nhân đến gặp ta, trụ ở trên không và
bảo rằng Thái tử Siddhatha đã chết đói”. Bậc Đạo sư liền hỏi: “Thế Đại
vương có tin chuyện ấy không?”- “Bạch Thế Tôn, ta không tin. Ngay cả
khi thần nhân bay lượn trên không và bảo ta như vậy ta cũng không tin
mà bảo rằng Vương tử của ta không chết được cho đến khi chứng đắc Chánh
đẳng chánh giác dưới gốc cây Bồ đề”. Bậc Đạo sư bảo: “Xưa kia, vào
thời Mahà Dhammapala, ngay khi một vị giáo sư lừng danh thiên hạ đến
bảo: “Con ngài đã chết, đây là xương của chàng”, Đại vương cũng không
tin mà bảo:“Trong gia tộc ta, bọn chúng không chết trẻ bao giờ”. Vậy
thời ngày nay, làm sao Đại vương tin được lời của các thần nhân.” Rồi theo lời thỉnh cầu của Phụ vương, Đức Phật kể lại câu chuyện ngày xưa ấy.
Theo Phật giáo, các vị thần cũng chỉ là một loại “chúng sinh”.
Cao hơn nữa có các “chúng sinh” là các vị trời. Mặc dù có một số năng
lực hơn con người, các vị trời, thần vẫn có đầy đủ các đặc tính tham sân
si như con người. Khi đã kết thúc cuộc sống trời, thần, các vị ấy vẫn
có thể tái sinh vào những cõi thấp kém như địa ngục, súc sinh. Kinh
điển Phật giáo còn nhấn mạnh rằng “cõi người ta” là nơi thuận lợi nhất
để tu tập Phật pháp. Vì thế, cho dù ý kiến của các vị thần là đáng
xem xét thì điều họ phán chưa chắc lúc nào cũng đúng. Đối với Phật học,
điều chắc chắn đúng là “Làm điều đúng tốt thì hậu quả tốt. Làm điều
sai xấu thì hậu quả xấu”.
Đối với vấn đề lòng tin, Đức Phật đã từng khuyên:
“… chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền
thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kho tàng kinh
điển truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì
đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện;
chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có
uy quyền; chớ có tin vì đó là bậc thầy của mình”.
Vua Suddhodana không tin vào điều các thần đã báo, vậy lòng tin của
nhà vua dựa vào đâu? Câu chuyện của Đức Phật sẽ trả lời cho câu hỏi
này.
Một thuở nọ, khi vua Bramadatta là vua tại Ba-la-nại, có một
Bà-la-môn ở trong xứ Kàsi. Do thực hành theo thập thiện, vị ấy nổi tiếng
ở vùng mình cư trú là một vị Hộ Pháp (Dhammapàla). Trong nhà vị ấy,
ngay cả các tôi tớ cũng bố thí, tôn trọng đạo đức và giữ ngày trai giới.
Theo thuyết nhân quả, mọi sự đều có nguyên nhân do tự bản thân mình
tạo ra. Tự bản thân ta là “chủ dự án” của dự án đầu tư mang tên “số
phận” cho tương lai của mình, là người “thiết kế” cho đời sống tương lai
của bản thân, là người “thi công” cho “số phận” đó và cuối cùng là
người thụ hưởng kết quả của “dự án số phận”.
Một trong những cách “thiết kế” và “thi công” đó là “chương trình
thập thiện”. Thập thiện có nghĩa là mười điều đúng tốt, bao gồm: không
giết chóc (sát), không lấy của không cho (đạo), không quan hệ tình dục
sai trái (dâm), không nói dối (vọng ngữ), không nói ác hiểm (ác khẩu),
không nói điều gây chia rẽ (lưỡng thiệt), không nói chuyện phù phiếm (ỷ
ngữ), không tham lam (tham), không nóng giận (sân), không suy nghĩ
sai (tà kiến). Muốn có quả sống thọ, không bệnh tật thì phải tránh cái
nhân giết chóc. Muốn có quả không bị mất, bị cướp bóc tài sản thì tránh
cái nhân lấy những gì không phải của mình. Muốn có quả không bị lừa
dối thì tránh cái nhân nói dối. Muốn có quả không bị chửi rủa, nói xéo,
nói xúc phạm thì tránh cái nhân nói ác hiểm. Muốn có quả không bị chia
rẽ, sống đoàn kết thì tránh cái nhân chia rẽ người khác. Muốn có quả
là lời nói của mình được tôn trọng thì tránh cái nhân nói chuyện phù
phiếm. Muốn thực hành hoàn hảo những điều trên thì các suy nghĩ phải
không tham lam, không nóng giận, không suy nghĩ sai.
Trong đời sống mọi người đều gặp những điều không như ý muốn,
điều “xui rủi” trong hiện tại. Theo thuyết nhân quả, điều này xảy ra
do sự trổ quả của những hành động xấu trong quá khứ xa (đời trước)
hay gần (đời này). Mười điều đúng tốt nói trên sẽ giúp người thực hành
làm giảm thiểu tác hại của những quả xấu ấy. Trong đời sống mọi
người đều có một số điều hài lòng, điều “may mắn” trong hiện tại.
Theo thuyết nhân quả, điều này xảy ra do sự trổ quả của những hành
động tốt trong quá khứ xa hay quá khứ gần. Mười điều đúng tốt sẽ giúp
người thực hành tăng cường hiệu quả của những quả tốt ấy. Cũng vậy,
nếu muốn tạo ra những cái quả “may mắn”, hài lòng trong tương lai cần
thực hành mười điều đúng tốt này. Nếu muốn không xuất hiện những cái
quả “xui rủi” trong tương lai cần thực hành mười điều đúng tốt.
Thời ấy, Bồ-tát tái sanh vào gia đình trên, vị gia chủ đặt tên ngài là Nam tử Hộ Pháp (Dhammapàla Kumàra).
Trong cuộc đời, ai cũng muốn có người nối dõi, muốn có con cái khỏe
mạnh, giỏi giang. Ngày xưa, các bậc vua chúa hiếm muộn con cái thường
phải trai giới, làm trong sạch thân tâm và đi đến những nơi linh thiêng
để cầu con. Làm trong sạch thân tâm trong thời gian ngắn chính là việc
tạo ra những “điều kiện cần” mong cho những cá thể tốt có thể tái sinh
vào gia đình mình. Cách trai giới ngắn hạn như vậy cũng có thể có kết
quả mong muốn, mặc dù nó vẫn khó điều chỉnh được cái quả đang trổ ra.
Một quan niệm cổ truyền khác cho rằng việc chôn cất một người ở vị trí
tốt (theo thuật phong thủy) sẽ làm cho con cháu khá lên, trong họ xuất
hiện nhiều người tài. Tuy nhiên, đây vẫn không phải là điều chính yếu.
Theo thuyết nhân quả, những cá thể sống chung với nhau phải có
nghiệp tương đồng với nhau. Những cá thể có các đặc điểm tốt đẹp như mọi
người mong muốn chỉ sinh ra trong những gia đình có nếp sống tốt
đẹp. Nếp sống tốt đẹp là “điều kiện cần” để có con cái khỏe mạnh, giỏi
giang.
Bồ-tát trong các chuyện tiền thân Jataka chính là Đức Phật trong các
kiếp sống trước khi thành đạo. Gia đình của vị Bà-la-môn thực hành
mười điều đúng tốt, đó chính là cơ sở cần thiết để một vị như Bồ-tát có
thể tái sinh trong gia đình này. Việc sinh con xấu hay tốt là do nếp
sống trong quá khứ và hiện tại của gia đình sai xấu hay đúng tốt.
Khi đến tuổi khôn lớn, cha chàng trao cho chàng một ngàn đồng vàng và
gửi chàng đến học ở Takkasilà. Chàng đến đó, học tập với một vị giáo
sư lừng danh thế giới và trở thành Đại đệ tử trong một hội chúng gồm
năm trăm nam tử. Vào lúc ấy, trưởng nam của vị giáo sư từ trần. Vị giáo
sư, các thân bằng quyến thuộc và các đồ đệ vừa than khóc vừa cử hành
tang lễ. Chỉ riêng Dhammapàla không khóc cũng chẳng than. Sau khi năm
trăm vị nam tử từ nghĩa địa ra về, chúng ngồi trước vị giáo sư và nói:
“Ôi, chàng trai thật tốt đẹp, dịu dàng thế mà phải chia lìa cha mẹ
trong tuổi thanh xuân non trẻ”. Dhammapàla đáp:
-“Non trẻ thay, đúng như các hiền hữu nói! Nhưng tại sao chàng
lại chết ở tuổi thanh xuân? Người chết ở tuổi niên thiếu thật không hợp
lý chút nào”.
-“Này tôn giả, thế tôn giả không biết rằng người non trẻ cũng phải chịu chết sao?”
-“Ta biết điều ấy lắm, song lúc còn non trẻ chúng không chết; người ta chết lúc già”.
-“Thế không phải mọi pháp hữu vi đều là giả tạm sao?”
-“Chúng là giả tạm, đúng vậy. Song lúc còn niên thiếu, con người không chết, chỉ khi già người ta mới chết”.
-“Ôi, đó là tục lệ trong gia tộc ngài sao?”
-“Phải, đó là tục lệ của gia tộc ta”.
Điều này thật là hiếm có. Với mỗi người, cha mẹ, anh em, dòng họ bên
nội, bên ngoại đều có nhiều điều sai khác. Có thể có người rất giàu
nhưng người khác rất nghèo. Có thể có người học rộng tài cao nhưng
người khác lại học ít. Có thể người mẹ sống đến gần một trăm tuổi nhưng
con trai lại qua đời vào tuổi bốn, năm mươi. Đó là tình trạng thông
thường. Bên cạnh đó, luôn có những trường hợp hiếm có. Có những gia
tộc có con cái thành đạt suốt ba bốn trăm năm. Trong câu chuyện này, gia
tộc nhà Bồ-tát không có ai chết trẻ. Đó là điều hiếm có mà các đệ tử
của vị giáo sư nhận ra được.
Cácđệ tử liền kể chuyện cho vị giáo sư nghe. Vị ấy liền cho gọi Dhammapàla vào hỏi:
-“Này Dhammapàla, có phải trong gia tộc con không có người nào chết trẻ?”
-“Thưa thầy, đúng như vậy”.
Nghe nói thế, vị giáo sư nghĩ thầm: “chuyện này thật hiếm có thay! Ta
muốn lên đường tới gặp cha chàng và hỏi chuyện ấy. Nếu quả thực vậy,
ta sẽ thực hành theo lối sống của họ”.
Ta có thể thấy dấu ấn đậm nét của thuyết nhân quả trong câu chuyện.
Khi thấy có hiện tượng hiếm có trong gia đình của người học trò, vị giáo
sư rất quan tâm vì ông vừa mới mất đứa con trai. Vì sao gia tộc họ
không bị như mình? Giáo sư không cho rằng đó là chuyện… may mắn. Nếu đó
chỉ là chuyện may rủi thì không thể nào chủ động để tạo ra một gia tộc
có truyền thống như vậy được. Và như vậy, cần gì phải học hỏi từ lối
sống của gia đình ấy. Theo lý thuyết nhân quả, kết quả của gia tộc ấy
chắc chắn do những hành vi tốt mà họ đã và đang thực hiện. Và nếu thực
hiện đúng như vậy thì chắc chắn sẽ tạo ra một gia tộc không có người
chết trẻ. Đó là điều mà vị giáo sư muốn tìm hiểu.
Thế là sau khi đã làm xong mọi việc ma chay cho cậu trưởng
nam, khoảng bảy, tám ngày sau đó, vị giáo sư cho gọi Dhammapàla đến bảo:
“Này con, ta sắp đi xa nhà, vậy lúc ta đi vắng, con phải dạy bảo các
đệ tử của ta”. Nói thế xong, vị ấy đi tìm xương của một con dê rừng,
rửa sạch và ướp hương, rồi đặt vào giỏ, sau đó mang theo chú tiểu đồng,
vị ấy rời Takkasilà dần dần đi đến làng kia, tại đó vị ấy hỏi đường
đến nhà vị Đại Hộ Pháp và dừng ở cửa.
Người đầy tớ đầu tiên của vị Bà-la-môn trông thấy vị này, không kể
sang hèn, đã cất dù từ tay vị ấy, cởi giày, cầm lấy túi xách từ tay tiểu
đồng. Vị giáo sư nhờ báo với thân phụ Dhammapàla rằng ông là thầy
của chàng, đang đứng ở cửa. “Lành thay!”, các gia nhân nói, rồi đi mời
vị thân sinh ra gặp giáo sư. Vị thân sinh vội vã đến thềm nói:”Xin mời
vào” và vừa dẫn đường vào nhà mình, vừa mời vị khách ngồi xuống tọa
sàng. Vị chủ nhà làm bổn phận của chủ nhân như rửa chân vị kia…
Điều đầu tiên có thể thấy trong gia tộc của Dhammapàla là sự hiếu
khách của chủ nhân và người giúp việc. Đây là hệ quả của những điều mà
gia tộc này đã thực hành. Điều này sẽ được giải thích trong phần sau.
Khi vị giáo sư đã dùng cơm xong, hai vị ngồi đàm đạo thân thiết với
nhau. Vị giáo sư bảo: “Này tôn giả Bà-la- môn, con trai Dhammapàla của
ngài có trí tuệ sáng suốt, tinh thông ba tập Vệ-đà và mười tám công
trình tu học, nhân vì rủi ro đã mất mạng. Các pháp hữu vi giả tạm, xin
ngài chớ đau buồn”. Vị Bà-la-môn cười lớn. Giáo sư hỏi:
-“Tại sao ngài cười, thưa tôn giả Bà-la-môn?”
-“Vì không phải con tôi chết đâu, chắc là người khác”
-“Không đâu, thưa ngài, chính con trai ngài chết chứ không phải người khác. Hãy nhìn kỹ xương chàng đây và tin tôi”
Nói thế xong, vị giáo sư mở đống xương ra và nói:
-“Đây là xương con trai ngài”
-“Có lẽ đó
là xương dê rừng hay xương chó, chứ con trai tôi không chết được. Trong
gia tộc ta bảy đời nay chưa hề xảy ra chuyện chết lúc tuổi còn non.
Vậy ngài đang nói sai sự thật”.
Cả nhà cùng vỗ tay và cười lớn.
Gia tộc này tin chắc chắn vào các kết quả tốt. Điều này thực hiếm có,
nhiều người tuy nói tin vào nhân quả nhưng khi gặp chuyện vẫn thấy
nghi ngờ. Nghi ngờ về việc nhiều người trong đời sống hiện tại tuy rất
hiền lành nhưng lại bị nhiều tai nạn và kết luận: ở hiền chưa chắc gặp
lành. Theo thuyết nhân quả, những người này đã làm nhiều hành vi
sai xấu trong quá khứ xa (các đời trước) hay quá khứ gần (đời này) nên
các hành vi hiền lành ngày nay không đủ sức ngăn cho các quả xấu không
trổ ra. Dân gian thường gọi những người này là có “phước mỏng”. Nếu
những người hiền lành này chỉ cần làm thêm một hành vi sai xấu như như
ăn cắp vặt vài chục ngàn đồng, thì họ cũng có thể sẽ chịu hậu quả tù
đày, đau khổ ngay lập tức. Vì thế, đối với những người “phước mỏng”,
chỉ có các hành vi đúng tốt mới hạn chế được các quả xấu. Càng bị khó
khăn, bất công, càng nên sống cho thật tốt.
Khi thấy việc kỳ dị như vậy, vị giáo sư rất hoan hỷ và hỏi: “Thưa
tôn giả Bà-la-môn, hiện tượng thanh niên trong gia tộc ngài không
chết yểu không phải là không có nguyên nhân”. Vị ấy hỏi tiếp bằng cách
ngâm bài kệ:
Tục lệ nào hay thánh đạo nào,
Quả này do thiện nghiệp từ đâu?
Bà-la-môn nói ra duyên cớ
Người trẻ trong dòng chẳng chết non?
Lúc ấy vị Bà-la-môn giải thích những công đức gì đã đem đến kết quả
là trong gia tộc mình không ai chết trẻ. Ông ngâm các đoạn kệ:
Ta không nói dối, sống hiền chân,
Mọi ác nghiệp xa lánh, chẳng gần,
Điều bất thiện ta đều tránh cả,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
Nghe việc người ngu lẫn trí nhân,
Việc người ngu trí chẳng quan tâm,
Ta theo bậc trí, ngu ta bỏ,
Nên chẳng ai người chết giữa xuân.
Trước khi bố thí dạ hân hoan,
Lòng thật vui mừng lúc phát phân,
Khi bố thí xong không hối tiếc,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
Ta mời lữ khách, Bà-la-môn,
Khất sĩ, sa-môn, mọi kẻ cần,
Ta đãi uống ăn nhiều người đói,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
Cưới vợ, không khao khát vợ người,
Giữ lời loan phụng đã thề bồi,
Vợ hiền tiết hạnh tòng phu cả,
Nên các con không sớm bỏ đời.
Con được sinh từ vợ chính chuyên,
Tài cao, học rộng, xứng danh hiền,
Vệ-đà thông thạo, con toàn hảo,
Nên chẳng lìa đời giữa thiếu niên.
Gắng làm chân chánh đạt cõi thiên,
Sống vậy từ cha đến mẹ hiền,
Đến mọi gái trai cùng anh chị,
Nên không ai chết giữa thanh niên.
Mong cầu thiên giới, các gia nhân,
Trai gái thảy đều sống hiền lương,
Ngay kẻ thấp hèn trong nô bộc,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
Cuối cùng, vị Bà-la-môn tuyên thuyết về kết quả tốt đẹp của những người bước trên con đường đúng đắn:
Chánh đạo cứu ai hướng chánh chân
Khéo hành chánh đạo đạt hồng ân,
Phúc này ban tặng người làm đúng
Làm đúng không vào chốn khổ thân.
Đạo đức hộ phò bậc chánh nhân,
Như cây che bóng giữa mưa tràn,
Thằng con sống được nhờ hành thiện
Tâm thiện cho người, Hộ Pháp an
Còn đó là xương người chỗ khác,
Đống xương tôn giả mới vừa mang.
Khi nghe vậy, vị giáo sư đáp: “Cuộc hành trình của ta thật bình an
sung sướng lắm thay, nó mang lại nhiều kết quả chứ không phải là không
có kết quả!”. Đang lúc lòng đầy hoan hỷ, vị ấy xin lỗi thân phụ
Dhammapàla và nói: “Ta đến đây và mang theo mình một đống xương dê rừng,
cố ý để thử ngài. Nam tử của ngài hiện đang bình yên khỏe mạnh. Xin
ngài truyền cho ta những điều luật bảo tồn cuộc sống của gia tộc ngài”.
Lúc ấy, vị kia viết quy luật ấy vào một ngọn lá. Sau khi lưu lại chỗ đó
vài ngày, vị giáo sư trở về Takkasilà và khi đã dạy cho Dhammapàla đủ
mọi tài nghệ và học thuật xong, vị thầy cho phép chàng ra về với một
đoàn tùy tùng đông đảo.
Sau khi Bậc Đạo sư kể Pháp thoại như vậy cho Phụ vương Suddhodana,
Ngài tuyên thuyết tiếp về Tứ đế. Vua cha của Ngài được an trú vào quả
Bất lai. Đức Phật nhận diện tiền thân: “Vào thời ấy người cha và
người mẹ là hoàng tộc ngày nay, vị giáo sư là Sariputta (Xá-lợi-phất),
đám tùy tùng là đệ tử của Ta và Ta chính là chàng trai Dhammapàla”. ■
Nguồn: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo 139