Trong
truyền thống tu tập tại các chùa, Mật tông chủ yếu được thể hiện trong
hai thời khóa tụng và nghi thức cúng cô hồn - đặc biệt là trai đàn chẩn
tế, cũng như sự trì niệm của mỗi cá nhân. Những nghi thức này chịu ảnh
hưởng chủ yếu từ Đông Mật (Trung Quốc, Nhật Bản), được xem là hệ Tantra
cấp đầu tiên của Tây Tạng (Kriya-Tantra), sự hành trì chủ yếu liên hệ
với các nghi thức ngoại giới, chưa phải cốt tủy của Mật tông Tây Tạng.
Đức Pháp vương Gyalwang Dukpa thăm chùa Hương, năm 2007
Mật tông, hay Kim Cang thừa, là giai đoạn phát triển thứ
ba của tư tưởng Đại thừa Phật giáo, sau Bát nhã và Duy thức; và Tây
Tạng được xem là nơi cất giữ một cách trọn vẹn tinh túy Mật tông Ấn Độ.
Mặc dù được truyền vào từ cuối thế kỷ thứ VIII bởi ngài Padmasambhava
(Liên Hoa Sanh) và phát triển mạnh vào thế kỷ XI do đóng góp của ngài
Atisa, song mãi đến khi Trung Quốc chiếm giữ Tây Tạng vào năm 1959, Mật
tông Tây Tạng mới bắt đầu được truyền bá ra khắp thế giới.
Bài viết
này là phác thảo bước đầu về Mật tông Tây Tạng (Tây Mật) tại Việt Nam -
một phác thảo cho thấy sự thịnh hành của pháp tu này vào thời hiện đại
bên cạnh những lối hành trì mang tính truyền thống của Phật giáo nước
ta.
Những hành giả Việt Nam bên ngài Sangsa Rinpoche tại Nepal
Về Mật tông tại Việt Nam
Mật tông
vốn truyền vào Việt Nam từ khá sớm. Theo Thiền uyển tập anh, vào thế kỷ
thứ VI, ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người Ấn Độ, đã đến Việt Nam và dịch kinh
Đại thừa phương quảng tổng trì tại chùa Pháp Vân. Đây là một bộ kinh
của Mật giáo, và liên hệ rất nhiều đến Thiền.
Vào thời Đinh và Tiền
Lê, Mật tông đã khá thịnh hành tại Việt Nam. Những trụ đá được phát hiện
tại Hoa Lư, Ninh Bình vào các năm 1963, 1964, 1978 - dựng vào năm 973,
thời Đinh; có trụ dựng năm 995, thời Lê Đại Hành - đều khắc bản kinh
Phật đỉnh Tôn thắng Đà La Ni (Usnisavijaya dharani), một bản kinh rất
phổ biến của Mật giáo, đã chứng minh cho điều đó.
Dĩ nhiên Mật tông
thịnh hành tại nước ta không chỉ do mỗi ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, mà còn từ
Phật giáo Chiêm Thành, những Tăng sĩ ngoại quốc và những vị sư Việt Nam
thọ học từ Ấn Độ. Trong đó, ngài Mahamaya, gốc Chiêm Thành, thuộc đời
thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, từng theo học với ngài Pháp
Thuận - Pháp hành sám và trì tụng chú Đại bi - cũng rất nổi tiếng về
pháp thuật. Thiền uyển tập anh cho rằng ông đắc pháp Tổng trì Tam muội,
thi triển nhiều pháp thuật khiến cho vua Lê Đại Hành và dân chúng đều nể
phục. Một thiền sư Việt, ngài Sùng Phạm (mất năm 1087), đời thứ 11 của
thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã đến Ấn Độ chín năm, sau mở trường dạy
tại chùa Pháp Vân. Đệ tử của ngài có sư Từ Đạo Hạnh nổi tiếng về phù chú
và sư Trì Bát cũng thấm nhuần Mật giáo. Đại Việt sử ký toàn thư cũng
ghi chép về một vị Tăng sĩ Ấn Độ, vào năm 1311, đến nước ta, xưng là 300
tuổi, theo Mật giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước. Năm 1318,
vua Anh Tông mời một Tăng sĩ Ấn Độ, tên Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi đến dịch
một bộ kinh Mật giáo tên là Bạch Tán Thần chú kinh.
Thiền uyển tập
anh còn cho thấy, trong thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi còn có những vị
thiền sư khác giỏi về Mật tông, như: Vạn Hạnh (- 1068), Thiền Nham (-
1163), v.v…
Thủ ấn và đồ hình quán tưởng trong pháp tu cúng dường Mạn đà la tích tụ công đức
Bên cạnh đó, thiền phái Vô Ngôn Thông, dù không nghiêng
về Mật tông, song dấu ấn của Mật tông cũng được thể hiện khá rõ, điển
hình qua các vị thiền sư Không Lộ, Giác Hải và Nguyện Học. Thiền sư
Không Lộ từng cùng với các sư Giác Hải và Từ Đạo Hạnh qua Thiên Trúc học
Mật giáo, chứng đắc “lục trí thần thông”. Không Lộ nổi tiếng với câu
chuyện hóa duyên (xin đồng) xứ Tống và chữa bệnh lạ cho vua Lý Thần
Tông. Thiền sư Giác Hải được biết đến qua câu chuyện thi triển thần
thông với đạo sĩ Thông Huyền. Còn sư Nguyện Học chuyên trì tụng chú
Hương Hải Đại bi trị bệnh và cầu mưa không khi nào là không linh nghiệm.
Như
vậy, ngay thời kỳ hoàng kim của Phật giáo Thiền tông, dấu ấn Mật tông
vẫn thể hiện rất đậm nét. Ngài Pháp Loa (Nhị tổ thiền phái Trúc Lâm)
cũng dành nhiều thì giờ cho việc trì chú. Ngài cũng phân tích và chú
thích một kinh văn có khuynh hướng Mật tông là Kim Cương trường Đà la ni
khoa chú.
Quy y cảnh dòng truyền thừa Đức Quan Âm Bồ tát (trong tu tập Guru Yoga)
Tuy thế, Mật tông Việt
Nam từ thời kỳ đầu cho đến những thập niên cuối thế kỷ XX, dù có những
ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống tu tập của Tăng Ni, Phật tử song vẫn
chưa thành lập tông phái một cách rõ ràng cũng như chưa có các dòng
truyền thừa chính thức. Trong nhiều thời điểm, Mật tông tại Việt Nam
được vận dụng như một phép thuật “quái lạ” khiến cho nhiều người cảm
thấy nghi ngại. Đó là đặc điểm cũng như những hạn chế của Mật tông
“truyền thống” tại Việt Nam.
Một vài nhân vật tiêu biểu hành trì Mật tông Tây Tạng tại Việt Nam
Mật
tông Tây Tạng đặc biệt chú trọng về nghi thức Quán đảnh (wang) và hành
giả phải được khẩu truyền nghi quỹ (lung), được giảng dạy nghi quỹ
(trid) từ một vị thầy giác ngộ để nhận được ân sủng của dòng truyền
thừa. Lễ Quán đảnh được dịch từ chữ “wang” trong tiếng Tây Tạng, nói đến
giai đoạn đầu tiên, không thể thiếu sót để bắt đầu hành trì Mật tông.
“Wang” có nghĩa đen là “quyền năng”, nhưng trong ý nghĩa là “ban truyền
quyền năng”, hàm ý là sự ban truyền quyền năng của trí tuệ từ vị thầy
sang đệ tử, cho phép vị đệ tử đó đi vào hành trì tu tập và gặt hái thành
quả tu tập, sẽ được điểm nhập vào trong tinh túy của chư Phật. Mật tông
Tây Tạng cho rằng hành giả có thể tu chứng quả Phật ngay trong hiện
đời, không phải trải qua quãng thời gian lâu xa được tính bằng A tăng kỳ
kiếp.
Chỉ xét riêng trên yếu tố này, chúng ta đã thấy có sự
khác biệt với pháp tu Mật tông trong các tự viện Việt Nam từ trước đến
nay (vốn ảnh hưởng từ Đông Mật) so với pháp tu Mật tông Tây Tạng (Tây
Mật). Theo đó, từ thời kỳ đầu khi Mật tông vào Việt Nam cho đến nửa đầu
thế kỷ XX, có lẽ chưa có bất kỳ một người Việt nào tu tập theo đúng
khuôn mẫu Mật tông Tây Tạng.
Mãi đến năm 1936, một Tăng sĩ Việt Nam
đã du hành lên Tây Tạng và được thọ pháp với Lama Quốc Vương danh tiếng.
Vị Tăng sĩ được xem là người Việt Nam đầu tiên thọ pháp với Lama Tây
Tạng đó chính là Thiền sư Nhẫn Tế. (Cần chú thêm rằng, không ít người
hiện vẫn nghi ngờ, không rõ Thiền sư có được truyền dạy Mật tông hay
không, và được truyền thụ bởi ai? Hơn nữa, vào thời bấy giờ Tây Tạng còn
thực hiện chính sách cấm cửa đối với người ngoại quốc, rất khó có người
du nhập, chưa nói là được thọ pháp? Những cứ liệu sơ lược sau đây,
chúng tôi y cứ vào Nhật ký Tây du Phật quốc cùng với một số hình ảnh, kỷ
vật của ngài hiện vẫn còn lưu giữ tại chùa Tây Tạng, Bình Dương, nơi
ngài trụ trì, sẽ ngầm trả lời cho câu hỏi đó).
Đại đức Trí Không (Trái) và một bạn đồng tu người Nepal
Vào tháng 4-1935, Thiền sư Nhẫn Tế từ Sài Gòn đáp tàu đi
Ấn Độ. Đến Ấn, ngài tham gia vào Hội Đại Bồ Đề (Maha Bodhi Society) ở
Sarnath. Nhờ sự giới thiệu của Hội này, tháng 2-1936, ngài rời Ấn Độ lên
Tây Tạng cùng với 4 vị sư Tây Tạng khác. Tháng 6, ngài tới thủ đô
Lhasa, ra mắt Thừa tướng và yết kiến Quốc vương Tây Tạng - ngài Bơda
Lama (?), 27 tuổi, thế ngôi đức DaLai Lama thứ XIII vừa viên tịch cách
đó 4 năm. (Trong Nhật ký đề ngày 6-9-1936, ngài có nói rõ rằng: “Từ bốn
năm về trước thì quốc gia cấm ngoại quốc vào nước, cấm hút thuốc, ăn
trầu…”, đến khi “tân Lama Quốc Vương kế vị đã bốn năm nay, thì ngài mở
cửa cho rước các nước…” ). Ngày 4-10-1936, ngài cầu pháp nơi đức Lama
Quốc Vương và được ban pháp danh là Thubten Osall Lama (nghĩa là vòng
kim cang huệ nhật).
Mặc dù Nhật ký không ghi cụ thể việc ngài thọ lễ
Quán đảnh như thế nào, song có nhiều chi tiết huyền bí rất đáng lưu ý là
từ ngày 16-7, ngài đã được “tiếp điển” nhiều lần với một vị La hán
(không rõ danh tánh, theo Nhật ký thì ngài vốn có duyên với vị Tổ sư này
từ trước), được ngài “chuyền tư tưởng mở cả trí não của bần đạo, làm
cho bần đạo đoạt lý tâm kinh, mới biết đó là đại thần chú của Tam thế
chư Phật”. Theo đó, ngài đã nhận được ân sủng truyền thừa từ chính vị Tổ
sư này và chính thức tu tập Mật tông Tây Tạng trước khi thọ pháp từ
Lama Quốc Vương. Việc ngài về nước sớm, theo Nhật ký, là do sự căn dặn
của vị Tổ sư kia về “nhân duyên tiếp độ” tại quê nhà, cho dù “nhiều bạn
Lama trí thức muốn cho ngươi ở lại Lhasa, nhưng ngày giờ hoằng hóa hầu
đã đến”, hơn nữa “Lhasa có nạn”! Ngày 30-10-1936, ngài rời Tây Tạng về
lại Ấn, sang Sri Lanka, tháng 6-1937 thì về đến Việt Nam.
Sau khi trở
về từ Tây Tạng, ngài đã nhận lời mời trụ trì chùa Bửu Hương và đổi tên
chùa thành “Tây Tạng tự”. Không rõ vì lý do nào mà hầu như ngài không
truyền dạy Mật tông Tây Tạng cho ai, hoặc giả nếu có truyền dạy thì cũng
chỉ hạn chế cho một số ít đệ tử của ngài (?). Theo Nhật ky thì trước,
ngay và sau khi gặp vị Tổ sư huyền bí nọ, ngài vẫn luôn ngồi thiền, niệm
Phật một cách hết sức chăm chỉ…
Sau Thiền sư Nhẫn Tế đến vài chục năm, một Tăng sĩ Việt
Nam khác cũng đã có nhân duyên đi cầu pháp Mật tông Tây Tạng, đó là cố
TT.Thích Viên Thành.
Theo lời mời của ngài Đại sứ nước Anh tại
Bhutan lúc bấy giờ, Thượng tọa Thích Viên Thành - Viện chủ chùa Hương và
chùa Thầy, đã đến Bhutan và thọ pháp với Đức Pháp chủ của quốc gia này,
thuộc dòng truyền thừa Drukpa. Được sự gia trì và ban phước của Pháp
chủ Bhutan, nên dù chưa trải qua thời kỳ nhập thất và hành trì dài lâu,
Thượng tọa vẫn được phép truyền thụ lễ Quán đảnh cho đệ tử nhằm “đem sự
thực hành này để phát triển tâm linh cho Tăng Ni Phật tử trong nước”. Vì
vậy, năm 1992 được xem là thời điểm đầu tiên Mật tông Tây Tạng có sự
truyền thừa chính thức đến Việt Nam do sự truyền dạy của TT.Thích Viên
Thành.
Dù vậy, sự truyền bá Mật tông Tây Tạng của cố Thượng tọa vẫn
có ít nhiều điểm khác biệt so với sự thực hành theo đúng với khuôn mẫu,
điển hình như việc trì tụng chú Đại Bi, Chuẩn Đề - hai câu chú này vốn
không được truyền thừa trong các dòng phái Tây Tạng; tại Tây Tạng, người
ta chỉ thực hành thần chú của Quan Thế Âm Thập Nhất Diện và các pháp
Quan Âm khác, vì vậy cho đến nay, vẫn chưa có sự truyền thừa cũng như
khảo cứu rõ ràng về hai câu chú ấy. Hơn nữa, việc Thượng tọa viên tịch
quá sớm cũng là một mất mát lớn lao cho hàng đệ tử của ngài - họ không
thể có đủ thời gian để thực hiện hoàn tất các pháp tu mà ngài đã được
truyền thụ. Dù vậy, hơn 16 năm qua, Mật tông Tây Tạng do cố Thượng tọa
hướng dẫn vẫn âm thầm bắt rễ trong đời sống của nhiều Tăng Ni, Phật tử,
nhất là phía Bắc.
Một Tăng sĩ khác, còn khá trẻ, ĐĐ.Thích Trí Không, sinh
năm 1975, hiện là một hành giả Mật tông Tây Tạng hành trì một cách đều
đặn và miên mật với những đợt nhập thất hàng năm.
Năm 2000, lần đầu
tiên ĐĐ.Trí Không thọ Quán đảnh với ngài Kyabje Kusum Lingpa - nhân
chuyến viếng thăm (du lịch) Việt Nam và truyền Quán đảnh cho khoảng 100
Tăng Ni, Phật tử tại TP.HCM. Năm 2003, thầy một mình lặn lội sang Ấn Độ
rồi đến Nepal thọ pháp với ngài Kyabje Trulshik Rinpoche và tu tập với
ngài 3 tháng. Cuối năm 2003, thầy lại cùng một vị Tăng trẻ khác đến đó
tu tập tiếp 6 tháng. Từ đó đến nay, năm nào thầy cũng hướng dẫn một nhóm
Tăng Ni, Phật tử đến thọ pháp và tu tập với các Lama Tây Tạng tại Nepal
và Ấn Độ, mỗi đợt từ 3-4 tháng.
Hiện ĐĐ.Trí Không tu học theo phái
Nyingmapa (Cổ Mật) dưới sự hướng dẫn của ngài Kyabje Trulshik Rinpoche,
dù thầy đã thọ pháp với khoảng 20 vị Rinpoche của cả 4 dòng phái Tây
Tạng với các bậc thầy nổi tiếng như: Kyabje Kathuk Moktsa, Tulku Pema
Wangyel, Rabjam Rinpoche v.v…
Nhìn chung, cho đến nay, sau một số
chuyến viếng thăm chính thức và trao lễ Quán đảnh của các Lạt Ma Tây
Tạng tại Việt Nam cùng với việc nhiều người thọ pháp với các Lama nước
ngoài, Mật tông Tây Tạng đang bắt đầu hưng thịnh tại Việt Nam. Ước tính
số người Việt (trong nước) thọ pháp Quán đảnh từ các dòng truyền thừa
Tây Tạng hiện nay là vào khoảng 15.000 người, trong đó có khoảng 300
người chính thức sang Nepal, Ấn Độ, Tây Tạng cầu pháp và thọ lễ Quán
đảnh, chủ yếu với các dòng Nyingmapa (Cổ Mật - Mũ Đỏ), Drukpa Kagyud
(Thiên Long - Mũ Đen), Gelugpa (Mũ Vàng). Và con số này đang ngày càng
tăng thêm. Những hành giả Mật tông Tây Tạng tại Việt Nam hiện tập trung
chủ yếu ở các vùng như: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ,
Việt Trì, TP.HCM, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Đồng Nai, Cà Mau v.v…
Sơ nét về phương pháp hành trì Mật tông Tây Tạng
Đường
vào Mật tông gồm có nhiều bậc. Hành giả trước tiên phải trải qua nền
tảng tu tập giáo lý của Tiểu thừa lẫn Đại thừa, rồi mới tiến vào giai
đoạn của Kim Cương thừa. Theo lời dạy của Đại sư Tulku Nyima Rinpoche
thì: “Ai cũng muốn đi cho nhanh, nhưng phương pháp mau chóng nhất để
thành tựu là đừng đốt giai đoạn, cũng đừng nhen nhúm ý tưởng muốn đốt
giai đoạn. Vì đốt giai đoạn xong thì sẽ vấp ngã; vấp ngã xong thì uổng
phí biết bao thời giờ, cuối cùng sẽ còn đi chậm hơn nhiều kiếp nữa!”
* Giai đoạn cơ bản
Còn gọi là giai đoạn Ngondro, tức Pháp tu nền tảng hay Pháp tu dự bị.
Trước tiên, hành giả phải tu tập, chiêm nghiệm, thiền quán Bốn bước khởi đầu bình thường và Năm bước khởi đầu phi thường.
Để thực hiện Bốn bước này, hành giả phải dựa trên bốn phép quán niệm, trong Mật tông gọi là bốn phép chuyển tâm, bao gồm:
1. Thân người là quý: ý thức sự hy hữu được thân người để tu thành Phật quả.
2. Thân, tâm và hoàn cảnh đều vô thường: ý thức mình có thể chết bất cứ lúc nào nên cần phải cấp cấp nỗ lực tu trì.
3.
Nhân nào quả nấy: ý thức khi mình hành động thiện thì sẽ mang lại kết
quả tốt đẹp, còn hành động ác thì kết quả sẽ tai hại - chúng ta có thể
tự do xoay chuyển nghiệp của mình.
4. Luân hồi là khổ: ý thức toàn bộ
tiến trình sinh tử luân hồi, cho dù chúng ta có tái sinh ở cõi trời hay
địa ngục đi nữa, thì chu trình này đều đau khổ.
Tiếp theo, để thực hiện Năm bước, hành giả phải thực hành:
1.
Quy y và lễ lạy: Nhằm tạo chỗ dựa vững chắc và thể nghiệm Phật, Pháp,
Tăng ngay chính bản thân để tiến tới giải thoát, hành giả phải xưng
tụng: Namo Buddhaya, Namo Dharmaya, Namo Sanghaya và lễ lạy năm vóc sát
đất.
2. Phát Bồ đề tâm: Hành giả khởi Đại bi tâm, thương xót tất cả
chúng sanh đang lặn hụp trong vũng lầy sinh tử, muốn đạt đến trạng thái
giải thoát và chứng ngộ Phật quả một cách nhanh nhất để cứu độ họ. Hành
giả trì tụng câu kinh Phát Bồ đề tâm để làm mạnh mẽ thêm ý nguyện thiêng
liêng, cao cả đó.
3. Thanh tịnh nghiệp chướng: Hành giả sám hối tất
cả lỗi lầm từ xưa đến nay theo pháp tu Đệ nhất thanh tịnh tội lỗi với
Kim Cương Tát Đỏa - quán tưởng và trì tụng thần chú Bách tự Kim Cang,
hoặc lạy sám với 35 vị Phật.
4. Tích lũy công đức: Hành giả muốn
chứng quả vị Phật thì phải thành tựu viên mãn Công đức và Trí tuệ, bằng
cách cúng dường Mạn đà la - dâng cúng những gì quý giá nhất lên chư
Phật, chứng tỏ lòng thành của hành giả hướng dâng trọn vẹn cuộc đời cho
sự giải thoát giác ngộ như chư Phật, nhờ vậy mà phát sinh được nhiều
công đức.
5. Ân sủng của dòng truyền thừa: Pháp này vô cùng quan
trọng. Hành giả hòa nhập tâm mình với tâm của bậc thầy qua pháp Đạo sư
Du già (Guru Yoga) thông qua các nghi quỹ và thần chú. Vị đạo sư chính
là sự thể hiện hữu hình cụ thể của Phật, Pháp và Tăng nên hành giả phải
luôn lễ kính.
Theo pháp tu Tây Tạng, hành giả phải thực hiện các pháp
này mỗi pháp là 111.111 lần với tất cả sự chí thành, chí tâm và toàn
lực. (Thực ra, con số này đã trừ bớt 10% lơ đễnh, còn lại 100.000 lần).
Riêng pháp cuối cùng, hành giả phải trì tụng câu chú của dòng truyền
thừa từ 1.300.000 đến 2.000.000 lần, bởi pháp này vốn quan trọng nhất.
Tuy thế, người ta vẫn thường gọi pháp này là pháp tu 500.000, dù túc số
có nhiều hơn. Pháp tu này chung cho cả ba dòng, riêng dòng Gelugpa (Mũ
vàng) có đôi chút khác biệt.
Để hoàn tất pháp tu Ngondro, đối với
hành giả nhập thất, phải mất từ 6 tháng đến 1 năm mới xong; những hành
giả không nhập thất song vẫn hành trì đều đặn mỗi ngày thì trung bình
phải mất đến 3 năm mới xong.
Hành giả tu tập pháp nền tảng, trước
tiên cần phải có tâm xuất ly, muốn vượt thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh
tử (cốt yếu của Tiểu thừa) và phải dõng mãnh phát Bồ đề tâm (tinh túy
của Đại thừa). Vì lòng bi mẫn, hành giả phát Bồ đề tâm là vì thương xót
chúng sanh, không phải chỉ giải thoát cho riêng mình, mà cần phải đạt
quả vị giải thoát một cách nhanh nhất để cứu độ chúng sanh. Phải hội đủ
những yếu tố đó hành giả mới xứng đáng là một hành giả Mật tông và mới
có đủ điều kiện để tu tập Kim Cương thừa.
Đại sư Tulku Nyima Rinpoche
dạy rằng, pháp tu nền tảng hay dự bị này là để: “thanh lọc hóa cái bình
chứa, biến bình chứa thành bình tịnh thủy trước đã. Thầy có thể đoan
chắc là các con sẽ mau chóng thành tựu nếu chịu khó miên mật, kiên trì
hoàn thiện các pháp tu dự bị! Trên con đường tu tập các pháp tu dự bị,
thầy bảo đảm là các con sẽ đạt được nhiều kinh nghiệm sâu sắc, có khả
năng chuyển hoá mãnh liệt. Đến lúc đó rồi thì các con sẽ trở thành những
chiếc bình chứa hoàn hảo để đón nhận những giáo huấn Dzogchen!”
* Giai đoạn phát triển (Kye-rim)
Sau
khi được chín chắn qua lễ điểm đạo, chín chắn qua sự hiểu biết và thực
hành giai đoạn Ngondro, hành giả tiếp tục được rèn luyện với vị thầy qua
một thời gian để làm chín chắn thêm dòng tâm thức để bước vào những
giai đoạn mới.
Trong giai đoạn này, hành giả luyện tập thiền quán về
một vị Bổn tôn mà mình có duyên hay do thầy chọn. Có hành giả thích
những vị Phật hiền, có hành giả thích những vị Phật trong hình tướng
hung dữ, tùy theo nghiệp kết nối của họ. Giai đoạn này cũng gọi là thiền
quán Bổn tôn.
Cụ thể, hành giả sẽ quán cõi đất này chính là cõi Tịnh
độ. Chỗ hành giả tu là cung điện của Bổn tôn. Nơi hành giả ngồi là đài
sen, là tòa kim cương của Bổn tôn. Thân, khẩu của hành giả là thân, khẩu
của Bổn tôn. Tâm hành giả an trụ trong định không lay động, nhất tâm,
an trụ trong tâm của Bổn tôn. Nhờ đó, hành giả chuyển thức thành trí,
nhận biết bởi do nghiệp của chúng sanh mà cõi này trở nên bất tịnh, còn
đối với nhãn quan của chư Phật thì đây chính là Tịnh độ.
Như thế, hành giả Mật tông lấy kết quả làm con đường.
Nghĩa là, sau khi nhận được Quán đảnh, nhận được ân phước của vị Phật,
hành giả thiền quán mình chính là vị Bổn tôn đó, thấy mình và Bổn tôn
không khác. Không có sự cách biệt giữa một vị Phật xa xôi với hành giả
trong cõi này.
Mật tông lợi dụng tất cả những mong cầu, tham vọng
nhất của bản ngã để tu tập. Khi bản ngã đó đã là một vị Phật thì hành
giả không còn mong cầu gì nữa ngoài việc thiền quán về vị Phật đó. Nhờ
được chín chắn và được gia trì bởi một vị đạo sư chứng đạo, việc quán
tưởng của hành giả sẽ hoàn toàn không phải vọng tưởng. Bởi vị thầy của
họ đã tu như vậy, chứng như vậy, trong hình thức như vậy và truyền trao
tri kiến như vậy, nên đệ tử sẽ vâng theo lời dạy của thầy mà được thành
tựu y như vậy, linh ảnh vị Bổn tôn giữa thầy và trò hoàn toàn không
khác. Dĩ nhiên người học trò phải trải qua thời gian tích lũy công đức,
tu hành đúng cách, hành trì miên mật và phải hoàn thiện hết tất cả các
pháp môn mà bậc thầy đã chỉ dạy, như thế mới có cơ may tiến tới thành
tựu viên mãn.
Khi cung thỉnh Bổn tôn từ cõi trí tuệ của ngài đến để
cúng dường và tán thán, hành giả phải tu tập theo Thất nguyện Phổ Hiền
(trong Thập nguyện Phổ Hiền), gồm: 1. Đảnh lễ chư Phật; 2. Cúng dường
Tam bảo; 3. Sám hối nghiệp chướng; 4. Tùy hỷ công đức; 5. Cầu Phật
chuyển bánh xe chánh pháp; 6. Xin Phật ở đời; 7. Hồi hướng công đức.
Hoàn
thiện giai đoạn này, hành giả cần thực hiện pháp này theo đủ túc số Bổn
tôn, tùy theo điều kiện mà chọn nghi quỹ ngắn hay nghi quỹ dài, và tùy
theo pháp tu mà túc số có thể từ 6 triệu, 10 triệu, 32 triệu cho đến 100
triệu lần cho mỗi một câu thần chú của Bổn tôn. Theo đó, ở mức thấp
nhất, nếu nhập thất, hành giả phải mất từ 1 cho đến 3 năm. Nếu không
nhập thất, có thể cả đời hành giả vẫn không thực hiện đủ túc số. Ở những
mức độ cao hơn, nhiều vị thầy đã trải qua gần hết cuộc đời trong chốn
núi rừng u tịch mới có thể thành tựu được.
* Giai đoạn Hoàn thiện (Dzog-rim)
Thực
hiện xong những pháp tu Bổn tôn của giai đoạn phát triển, hành giả sẽ
thực hành các pháp tu về kinh mạch và những bài tập thân thể (Tsa-lung -
tiếng Tây Tạng; Hathat-yoga - tiếng Ấn) với những thủ ấn của Bổn tôn
(thực hành Tsa-lung, Skr: Prana, Nada, Bindu) qua 6 pháp Du-già bí
truyền đặc biệt, gồm: 1. Nội hỏa (Tumo) - pháp gốc rễ; 2. Huyễn thân
(Gyulu); 3. Quang minh (Odsel); 4. Chuyển mộng (Milam); 5. Vượt trung ấm
(Bardo); 6. Chuyển thần thức (Phowa) - nếu hành giả trong đời chưa
thành Phật thì có thể thực hiện pháp này để chuyển thần thức về cõi Tịnh
độ.
Tiếp theo, hành giả thực hiện những Đại Ấn (Maha mudra), hoặc
Đại Toàn thiện (Dzogchen) bởi những pháp tu Du-già bí truyền cao cấp
nhất (thông thường là Trekchod và Togal) để nhận biết Tâm Kim cương
(Dorje-sem), đạt được Tam thân Phật (Ku-sum). Thành tựu pháp này, hành
giả đạt được giác ngộ, tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng, tự tại ra vào
sanh tử, tự tại tái sanh, tự tại thị hiện và tự tại hóa độ chúng sanh,
chứng đắc tập pháp bao la của một vị Phật.
Thay lời kết
Hầu như bất kỳ Tăng Ni,
Phật tử Việt Nam nào trong đời cũng đã từng đọc qua hay từng trì tụng
minh chú. Có thể nói, như thế, họ đã bước đầu đến với Mật tông, có duyên
với Mật tông, dù người Tây Tạng vẫn cho rằng trì chú không hẳn đã tu
Mật tông, mà tu Mật tông nhất thiết phải đúng pháp như người viết đã
trình bày ở trên. Pháp Mật tông Tây Tạng, cho dù khó hành trì theo đúng
khuôn mẫu, song ngày nay đã có rất nhiều người Việt trong cũng như ngoài
nước đang tha thiết hành trì.
Cơ duyên đã đến với những người mong muốn thực hành Tây
Mật khi ngày càng có nhiều vị Lama đến hoằng pháp tại Việt Nam, và cũng
không khó để tìm đọc những tác phẩm Mật tông Tây Tạng do đã có rất nhiều
bản kinh, sách này đã được dịch sang tiếng Việt. Ở giai đoạn cơ bản,
riêng tại Việt Nam, hiện cũng đã có khá nhiều hành giả có khả năng hướng
dẫn người khác tu tập. Người tu Mật, nếu có duyên hoàn thành giai đoạn
này thôi cũng đã đạt được những lợi ích lớn lao, mà theo lời dạy của
ngài Tulku Nyima Rinpoche thì: “Nhìn lại toàn bộ pháp tu dự bị
(Ngondro), thầy không thấy có cái gì hơn là như vậy được nữa! Không có
cái gì có thể… nhanh chóng hơn là như vậy được nữa! Vậy bây giờ muốn tu
các pháp tu dự bị để có cơ may tiếp tục tiến tới thành tựu viên mãn hay
là muốn mất thêm mấy đại kiếp nữa?”.
Nếu không đủ cơ duyên thọ lễ Quán đảnh và tu trì theo
khuôn mẫu Mật tông Tây Tạng, quý vị vẫn có thể trì niệm một số câu chú
để đạt được những lợi ích nhất định. Những câu chú này đã được Đức Dalai
Lama khuyến khích (cùng với một vài công năng sơ lược), gồm:
1. Minh chú Phật: Om muni muni maha muni ye svaha [ôm mu-ni mu-ni ma-ha mu-ni-dê sô-ha] (Thọ nhận năng lực gia trì của Phật Tổ).
2. Minh chú ngài Quan Âm Tứ Thủ: Om mani padme hum [ôm ma-ni pê-mê hung] (Phát triển tâm từ bi).
3. Minh chú ngài Văn Thù Sư Lợi: Om wagi shvari mum [ôm wa-ghi sô-ri mâm] (Tăng trưởng trí tuệ).
4. Minh chú ngài Kim Cang Thủ: Om vajra pani hum (ôm vai-za pa-ni hum)(...)
5.
Minh chú ngài Quan Âm Độ Mẫu Tara: Om tare tuttare ture svaha [ôm ta-ra
tút-ta-rê tu-rê sô-ha] (Vượt qua các khổ nạn, tăng cường sức khỏe và
tuổi thọ).
6. Minh chú ngài Liên Hoa Sanh: Om ah hum vajra guru padma
siddhi hum [ôm a hung vai-za gu-ru pê-ma si-đi hung] (Tăng phước, tịnh
hóa nghiệp chướng và nhận được sự gia trì).
Kính chúc quý vị Bồ đề tâm kiên cố! h
Thưc hiện bài viết này, người viết đã sử dụng 2 nguồn tư liệu chính (và một số nguồn tư liệu phụ khác):
1. Việt Nam Phật giáo sử luận - Nguyễn Lang (cho phần “Mật tông tại Việt Nam”).
2.
Buổi phỏng vấn với thầy Trí Không tại Finôm - Lâm Đồng (chủ yếu cho
những phần về TT.Viên Thành và phương pháp hành trì Mật tông Tây Tạng).
Xin chân thành cảm ơn các tác giả và ĐĐ.Trí Không (hiện cùng một số Tăng Ni, Phật tử đang tu tập tại Dehradun, Ấn Độ).
Quảng Kiến