Mạn Đà  La phiên âm từ chữ  Sanskrit : maṇḍala (मंडलः), tiếng Anh phiên âm là  
Mandala . Mạn Đà La  có nghĩa là vòng tròn viên mãn hay là sự toàn vẹn
(circle or completion). Đây là hình vẽ của các bậc giác ngộ biểu thị  vũ trụ hay là 
một đồ hình của vũ trụ thu nhỏ. 
   
Mạn Đà La có trong đạo Bà La Môn thuở xưa và có thể bắt nguồn từ các hình 
dạng trong thiên nhiên như mặt cắt của các loại hoa, các vỏ sò, các loại cây trái. 
Hiện nay  từ mạn-đà-la được xem như là một  đồ hình hay một dạng thức hình học 
 biểu tượng  vũ trụ. Theo nghĩa  này thì mạn-đà-la có biểu tượng trong nhiều  tôn 
giáo khác  như  Đạo Giáo với đồ hình lưỡng nghi, Thiên Chúa Giáo với một số 
dạng thánh giá biểu trưng, Hồi Giáo với các kiến trúc đặt biệt tổng quát của các 
đền thờ .
 
 
 
Phật Giáo sử dụng Mạn Đà La như  một đàn tràng bày các lễ vật cho nghi thức 
cúng dường, hành lễ, tu luyện... Mật Giáo thiết lập Mạn Đà La để mô tả vũ trụ và 
biểu hiện trí tuệ viên mãn. Phần lớn Mạn Đà La được vẽ, in, thêu những mẫu hoa 
văn. Các Mạn Đà La Tây Tạng được tạo bằng các loại đá quý, hoa, gạo khô, đá 
màu hay bơ, thông thường là cát màu .  Mạn Đà La vũ trụ được xem như là một 
tinh hoa đặc thù của Tây Tạng, là một pháp môn tu tập và Tây Phương xem  như 
là một nghệ thuật.
 
Một tu viện Tây Tạng xây theo mô hình mạn đà la 
 
Mạn đà la tạo bằng bơ 
Hình dạng cơ bản của Mạn Đà La  là  hình tròn, gọi là nguyệt luân (candra-
mandala). Bên trong hình tròn này có biểu tượng của năm vị Như Lai. Chính giữa 
là vị Đại Nhật Như Lai (MahāVairocana-Tathāgata), đó  là Pháp thân  của Phật 
(DharmakāyaBuddha) . Vòng tròn của Mạn Đà La có ý nghĩa sự toàn vẹn. Các 
vòng ngoại vi  để bao bọc cho vòng tròn tâm điểm. Tinh túy chính là tâm của Chư 
Phật chứa đựng bên trong.
 
Chư tăng Tây Tạng đã thiết lập Mạn Đà La  ngay từ khi Phật Giáo du nhập vào 
khoảng thế kỷ thứ 7. Tu viện đầu tiên của Tây Tạng (khoảng năm 779)  thiết lập 
Mạn Đà La ba chiều giống như cung điện. Năm 1988,  Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 đã 
chính thức cho phép kiến trúc và biểu thị Mạn Đà La trước công chúng .
 
Mạn Đà La cát màu có nhiều loại hình thể khác nhau . Thông thường  các Mạn Đà 
La cát đều được đặt trong các khuôn nền hình vuông . Sau đó  chư tăng vẽ một 
sơ đồ ký họa các vòng tròn hình học đồng tâm trước khi dùng cát màu và ống 
đồng hoặc bạc  (ống đồng hình dạng giống như  cái phễu dài) để gõ và rắc cát  lên 
từng ô của bản sơ đồ, với công cụ nầy các chư tăng   đã tạo ra các Mạn Đà La 
bằng cát phong phú , tuyệt mỹ, với những đường cong uyển chuyển, mềm mại... 
Tạo đồ hình Mạn Đà La  phải sử dụng nhuần nhuyễn ống đồng, kỹ thuật rắc cát 
màu cũng như cách chế tạo cát màu. Ngoài ra chư tăng còn phải  thanh tịnh thân 
tâm và  thiền định nhiều ngày  trước khi tạo đồ hình .

 
 
Thông thường  chư tăng bắt đầu  tạo đồ hình từ trung tâm rồi đến các vòng đai 
bên ngoài để tránh làm hư hại. Khi chiêm ngưỡng Mạn Đà La  chúng ta phải quan 
sát từ ngoài vào trong.  Mỗi phần đều có ý nghĩa riêng :
1.  Vòng ngoài cùng là vòng trí luân, tượng  trưng cho vòng đai lửa (trí tuệ) bốc 
cháy bừng bừng, hộ trì và có công năng bảo vệ cho Mạn Đà La.
2. Vòng thứ hai là vòng bi luân  rất hẹp và mỏng. Vòng này làm bằng những hình 
chùy kim cang liên tiếp nhau, tượng trưng cho từ bi và cũng là để bảo vệ hộ trì cho 
Mạn Đà La. 
3. Vòng thứ ba, gồm những hình cánh sen, thường tượng trưng cho 82 chư vị 
Phật, có khi là 64 hay 42, tùy kích thước lớn  nhỏ. Chư vị ở trong vòng thứ ba là 
các vị đã thành tựu viên mãn hai đức hạnh bi và trí của hai vòng ngoài và đạt giác 
ngộ viên mãn.
4. Vào phía bên trong, chúng ta thường thấy những hình của “Bát Bảo Cát 
Tường” là tám bảo vật biểu trưng các điềm lành .
5. Vào sâu hơn nữa  là cung điện của chư Hộ Phật, năm màu của Ngũ Trí Phật, 
với cầu thang leo lên bốn cửa và chính diện trung ương. Tại trung ương là nơi vị 
Hộ Phật của Mạn Đà La trụ trì.
6. Kể từ đây, tùy theo chủ đề, mỗi Mạn Đà La có thể có các chi tiết biểu tượng 
khác nhau như Mạn Đà La Phật Quán Thế Âm thì trung ương sẽ là vị Hộ Phật 
Quán Thế Âm thị hiện dưới dạng của giáo chủ Liên Hoa Bộ là đức Phật A Di Đà, 
thường được tượng trưng bởi hình hoa sen.
 
7. Bên dưới  của cung điện luôn luôn là Cổng Đông, nền màu xanh, khi 
bước vào Cổng này sẽ gặp đức Phật Bất Động tượng trưng bởi hình chùy kim cang.
 
8. Bên trái  là Cổng  Nam, màu vàng, bước vào 
sẽ gặp Phật Bảo Sanh Như Lai tượng trưng bởi hình viên ngọc quý.
9. Bên trên là Cổng Tây, màu đỏ, bước vào sẽ gặp 
đức Phật Tỳ Lô Giá Na, tượng trưng bởi hình bánh xe Pháp.
10. Bên phải là Cổng Bắc, màu xanh lục, bước vào sẽ gặp Phật Bất Không 
Thành Tựu Như Lai, tượng trưng bởi thanh gươm bốc lửa.
 
Nói chung , tất cả Mạn Đà La có ba ý nghĩa :
 - Mạn Đà La Ngoại Vi được dùng trong việc cúng dường với các ngoại vật thọ 
hưởng qua ngữ căn , như nước , hoa , hương ...
   
- Mạn Đà La Nội Thể  cúng dường các phần của thân thể  (bao gồm đất, nuớc, 
lửa, gió  và khí hoặc các năng lượng kinh mạch vi tế), biểu tượng xương sống như 
núi Tu Di và tứ chi như Châu Lục.
- Mạn Đà La Mật là cúng dường về sự tỉnh thức  vui sướng với tâm thức sáng tỏ.
 
Sau khi đã tạo xong đồ hình và để cho các Phật tử chiêm ngưỡng chư tăng làm lễ 
xóa Mạn Đà La biểu trưng vạn vật vô thường và thu gom cát  rải trên sông hồ 
hoặc tặng cho Phật tử để  mang lại điềm lành cho dân chúng.
 
Ngoài ý nghĩa tâm linh và tôn giáo Mạn Đà La được  mọi người trên thế giới chiêm 
ngưỡng và xem như là một nghệ thuật độc đáo, kiệt xuất bởi màu sắc rực rỡ và hài 
hòa từ thiên nhiên như đất đá, hóa thạch, biển cả, cho đến màu sắc lung linh từ  
các vì sao của dãy thiên hà xa xôi... và  các hình dạng đẹp lạ lùng nằm trong vỏ 
ốc xoắn, các loài hoa...Nghệ thuật Mạn Đà La   hợp nhất giữa thế giới bản thể và  
hiện tượng, giữa tâm thức (tiểu vũ trụ) và ngoại giới (đại vũ trụ),  dùng trực quan và 
cụ thể hóa khái niệm, biểu trưng cái vô hình trong vô thức bằng những hình ảnh 
biểu tượng để chúng  ta có thể hiểu được.
http://www.oldcottage.net