Trong
nhiều thế kỷ, nghệ thuật Phật giáo không trình bày Đức Phật qua hình
dáng con người mà biểu thị Ngài qua hình thức một chiếc lọng, một cái
ngôi, một vết chân hay con ngựa của Ngài. Qua đầu kỷ nguyên Tây lịch,
phong cách Hy-Ấn Gandhara và những trường phái điêu khắc Ấn Độ cùng lúc
thực hiện những hình tượng Ngài cũng như những vị Bồ-tát qua nhiều bộ
điệu khác nhau với những cử chỉ được xếp thành quy tắc. Những mudra mà
người Tàu gọi là yin, người Nhật in-zô, ta dùng chữ ấn hay thành ngữ ấn
quyêt, tiêu biểu cho quyền lực và hiện hình thần thánh. Thật ra, những
cử chỉ này đã có từ trước vừa trong tranh ảnh Ấn giáo, vừa trong kỹ
thuật du-già (yoga), được xem như là một phương pháp giải thoát, nghĩa
là chúng không thuộc về một tôn giáo nào. Người ta thường gặp chúng
trong những tranh vẽ, những hình tượng điêu khắc cũng như trong những
cuộc hành lễ tinh thần, thờ cúng, nghi lễ, định tâm. Được những giáo sĩ
thời kỳ Vệ -đà đã sử dụng trong lúc tụng niệm những bài kinh thiêng,
những cử chỉ này đã phát triển, biến dạng rất nhiều trong Phật giáo bí
truyền Nhật Bản. Đối với nhiều người, các kiểu đứng, ngồi, bắt tay, xếp
chân của các tượng Phật, các vị Bồ-tát, La hán đều là ấn. Trong nghi lễ
Mật giáo Ấn Độ, những hình vẽ bằng đầu ngón tay, ta gọi là bắt ấn, có
công năng thần diệu, giúp phần định tâm, còn gọi sự hỗ trợ của chư Phật,
Bồ-tát. Trong nghệ thuật nhảy múa Ấn Độ, những cử chỉ này được khai
thác thành “ngôn ngữ tượng trưng”, một ngôn ngữ những dấu hiệu thực hiện
chẳng hạn trong kỹ thuật tường kể một sự tích, nay được truyền bá ra
mọi nơi, cũng dễ hiểu khi biết Ấn Độ là một nước có một cuộc tiến hóa
tinh thần lâu ngày, một khả năng dồi dào sáng tạo, phối hợp, xuất cảng
những giáo huấn đạo lý, những phương thức tín ngưỡng và những biểu thức
các tín ngưỡng ấy. Những người thực hành yoga (gọi là yogin) thường hay
dùng vị trí những ngón tay để kèm theo hay động viên sự tập luyện định
tâm của mình. Ngày nay những mudra gọi là định tâm trong các tranh vẽ
hay hình tượng Phật giáo hay Ấn giáo chỉ rõ Yoga đã có ảnh hưởng nhiều
lên những biểu tượng này. Những bài tụng ca Vệ-đà luôn còn được kèm theo
những động tác ngón tay vô cùng phức tạp nhưng rât chính xác. Ấn quyết
có thể xem như là quyền lực ban cấp cho bàn tay để gắn chặt tác động
trong nghi lễ.
Mudra thường được ghép đôi với mantra, một thể thức cầu khẩn. Trong
khuôn khổ một nghi lễ, người giáo sĩ vừa đọc một mantra vừa xác định một
vị trí cho bàn tay, vì trí có thể thay đổi tùy theo chữ, theo câu hay
âm vang của giọng đọc. Từ thuở Vệ-đà, không phải ai cũng có quyền sử
dụng mudra và không phải ở đâu cũng thực hiện mudra được. Mudra như vậy
đã xác minh giáo sĩ là người có quyền hạn nắm giữ kiến thức và quyền
hành. Quyền hành chứa đựng trong mantra rất nguy hiểm trong tay những
người chưa thành thạo vì mọi sai lầm trong việc sử dụng sẽ làm rối loạn
trật tự thế giới, phá hại mùa màng, khởi động thiên tai, đói khổ, chiến
tranh. Ta hiểu vì sao những chức vụ đạo giáo thường được dành cho một
giới tinh hoa và ở Ấn Độ, những giáo sĩ Bà-la-môn luôn kiếm cách giữ độc
quyền. Rút cuộc, cuộc hỗn hợp mudra và mantra bao hàm một đặc tính thần
diệu mà việc sử dụng có tính chất mã hóa chỉ dành cho những giáo sĩ,
dân chúng có quyền hưởng thụ mà không cần thấu hiểu ý nghĩa sâu xa.
Mudra còn quan trọng hơn khi thấy nó có liên quan đến y khoa, gắn liền
với sức sống. Trong môn yoga, nếu mudra được xem là chỉ định cả những tư
thế thân thể, tập luyện hô hấp, hay nói chung,tất cả những vận động vận
dụng mọi phần tử của cơthể, như vậy vị trí của tay chỉ là một phần nhỏ.
Tuy nhiên có phái tin bàn tay là một vùng phản xạ tương đương với một
phần cơ thể và óc não, như vậy bàn tay là tấm gương của cơ thể và tâm
thần. Đi xa hơn, mudra ngón tay liên hệ với một tu thế thì lại còn tăng
cường hiệu lực.
Trong nghệ thuật Phật giáo, mudra trước tiên được dùng để tỏ rõ những
cử chỉ của Đức Phật. Nó được xem như là một từ vựng tượng trưng, dễ
hiểu cho dân chúng nhưng phù hợp với những quy tắc đã được công nhận.
Nó thay thế những văn bản không thông dụng trong đại chúng, không phải
ai cũng có và đọc được. Cốt yếu nhất là nó biểu đạt một khái niệm tôn
giáo. Thật vậy, mỗi một lời nói, mỗi một cử chỉ của Đức Phật là một chỉ
đạo tinh thần, vạch ra một quan hệ giữa con người. Khi sử dụng mudra
trong các cuộc tập luyện tinh thần định tâm hay tập trung, các tu sĩ
mong ước sáng tạo những hoạtlực đồng thời kêu gọi thần linh. Vì vậy họ
thường dùng mudra trong sự thực hành nghi lễ thờ phụng, khẩn cầu. Khi
gần đến chinh giác muốn đạt, các bàn tay những yogin thường có một vị
trí chính xác. Ngược lại, nhìn vị trí bàn tay, người ta có thể suy đoán
trạng thái của người yogin. Theo người Nhật trong trường phái Shingon,
có tiếng là sử dụng nhiều mudra và dưới nhiều thể dạng, không phải bàn
tay gợi lên thái độ của Đức Phật mà chính Đức Phật đã được tượng trưng
ngay trong bàn tay. Trình bày riêng biệt, mỗi mudra nhắc lại một lúc nào
đó trong đời Đức Phật hay chứng nhận một khái niệm đạo giáo. Trình bày
trên hình tượng Đức Phật hay một vị Bồ-tát, mudra chỉ định bản sắc, phẩm
chất, quyền lực của nhân vật. Ngoại trừ Hiệp chưởng ấn Anjali-mudra khi
cầu nguyện, những trường phái phương Nam thường sử dụng rất giới hạn
vài ấn quyết như Thiền ấn (hay Samadhi-mudra), Địa xúc ấn
(Bhumisparsha-mudra), chuyển pháp luân ấn (Dharmacakra-mudra), Vô úy ấn
(Abhya-mudra), Thí nguyện ấn (Varada-mudra), Giáo hóa ấn (Vitarka-mudra)
trong hình tượng Đức Phật. Những trường phai phương Bắc trái lại, ngoài
những ấn quyết Ấn Độ, phát triển rộng rãi những mudra trong các giáo
phái Tây Tạng, Nhật Bản, Trung Quốc. Sau đây chỉ xin bàn đến vài ấn
quyết thông thường.
Khi Đức Phật tập trung tư tưởng đi đến Giác ngộ, Ngài ngồi kiết già
Padmasana, hai tay đặt trước bụng, ngón tay duỗi thẳng, những ngón tay
trái đặt trên những ngón tay mặt, hai ngón cái chạm nhau, gan bàn tay
ngửa lên trên, có khi bắt chéo thành góc 45 độ, là một mudra rất thông
dụng ở Đông Nam Á, được gọi là Thiền ấn Dhyana-mudra (hay
Samadhi-mudra), có thể bắt nguồn từ trường phái nghệ thuật Gandhara hay
từ triều Ngụy bên Trung Quốc. trong mudra này, hai ngón cái có thể tách
rời các ngón khác để chạm vào nhau làm thành một hình tam giác thần bí,
biểu tượng Tam bảo Phật Pháp Tăng hay, theo nhiều môn phái bí truyền,
ngọn lửa thần bí thiêu rụi mọi ô nhiễm. Được đặc biệt sử dụng trong hình
tượng Đức A-di-đà, ấn quyết này cũng được dùng trong hình tượng
Bhaishajyaguru, tức Đức Phật Dược sư. Ở bên Nhật nó mang tên Yakushi
Nyorai và người ta đặtthêm trên hai tay một cái chén. Không có ở Ấn Độ,
ít ở Trung Quốc nhưng rất nhiều ở Nhật Bản là một cách trình bày Thiền
ấn khác: hai tay rời khỏi thân, dang thẳng đứng lên ngang ngực, hai ngón
cái có thể dính với hai ngón chỉ (vị trí cao Jobon), hai ngón giữa (vị
trí vừa Chubon) hay hai ngón nhẫn (vị trí thấp Gebon). Mudra này dành
cho Đức A-di-đà (Amitabha), bên Nhật Bản mang tên Amida Jô-in trình bày
định tâm, giáo huấn, tiếp dẫn vào cõi Tây phương Cực Lạc. Theo truyền
thống, Thiền ấn là mudra của Đức Phật khi ngồi nhập định dưới gốc cây bồ
đề, say sưa trong cuộc thiền định sâu đậm để cố tìm nguồn gốc sự đau
khổ trên đời và phương cách chấm dứt: đây là tư thê của những yogin
trước kia, khi thực hành một thăng bằng hoàn hảo giữa suy nghĩ, bình
tâm, thư thái trong những tác động tập trung tư tưởng.
Dưới gốc cây bồ đề, Đức Phật quyết ngồi cho đến lúc tìm ra được
phương cách chấm dứt mọi khổ đau trên đời này nên khi đạt đến đích, Ngài
viện đất làm chứng nhữngcông đức mà Ngài đã tích lũy từ nhiều tiền
thân. Địa xúc ấn Bhumisparsha-mudra, biểu tượng một lòng tin và một giải
quyết không lay chuyển được, là điển hình những biểu thị Đức Phật Thích
ca mâu-ni và Đức Bất Động Phật Akshobhya. Ngài ngồi kiết già Padmasana,
tay mặt đặt trên đầu gối mặt, đầu những ngón tay duỗi ra đụng đất, có
khi chỉ ngón chỉ, tay trái đặt trên đùi trái, gan bàn tay hướng lên
trên. Có nhiều hình tượng bên Nhật Bản trình bày bàn tay mặt đặt lên mặt
đất, gan tay hướng xuống dưới và được gọi Anzan-in tứ là bình định núi
non, hay Anchin-in nghĩa là bình định trái đất. người ta thường giải
thích Đức Phật lấy tính kiên quyết để viện đất làm chứng. Cũng có thể
hiểu khi được thỉnh cầu, đất đã gởi một đạo quân thiên thần để diệt trừ
những quỷ sứ của Mara, vậy thì đây là một mudra chinh phục quỷ sứ. Trong
vài hình tượng bí truyền, Đức Bất Động Phật (Akshobhya) đụng đất với
tay mặt nhưng tay trái vắt một vạt áo lên ngang ngực. Ở Hàn Quốc vì ngộ
nhận nên cũng thấy có trình bày Đức A-di-đà (Amitabha) với mudra này.
Khi Ngài đưa hai tay lên ngang ngực, gan tay trái hướng ra trước, gan
tay mặt hướng lên trên, những ngón tay xòe ra gần đụng tay kia, đấy là
Đức phật Thích-ca mâu-ni thuyết pháp trong Chuyển pháp luân ấn
Dharmacakra-mudra. Ấn quyết này nhiều nơi được thay đổi ít nhiều. Ở
Ajanta bên Ấn Độ, hai tay xa hẳn nhau và các ngón không đụng nhau. Trong
phong cách Gandhara, tay mặt nắm thành quả đấm trùm lên toàn bộ các
ngón tay trái. Trong các tranh tường ở chùa Horyu-Ji bên Nhật Bản, tay
mặt được đặt lên trên tay trái. Còn có một dị bản nữa, hiếm hơn; là hai
gan tay hướng ra ngoài, những ngón tay quấn vào nhau, đụng nhau ở đốt
cuối. Khi thể hiện mudra gọi là mặt trời này, Đức Phật được xem như Đức
Chuyển Luân Vương Chakravartin; chúa tể một thế lực toàn năng, đang quay
bánh xe mặt trời, vận dụng giáo huấn trong sáng làm tiêu tan mọi bóng
tối của ngu muội. Hai tay của Ngài làm thành hai vòng tròn thần bí, tiêu
biểu cho hai bánh một chiếc xe. Hai ngón tay cái hợp lại với nhau là
trục xe chống đỡ hai bánh xe tượng trưng hai mặt cốt yếu vật chất và
tinh thần luôn luôn bền chặt liên kết và vĩnh viễn chuyển động. Nói cho
đúng, trong những sách xưa bên Ấn Độ, bánh xe và hoa sen được xem như
một bánhxe mà tám cánh thể hiện Bát Chính Đạo. đối với người Phật tử,
Chuyển pháp luân ấn còn là một thời điểm rất quan trọng trong đời sống
Đức Phật, lúc Ngài thuyết pháp lần đầu tiên trong vườn những linh dương
tức Lộc Uyển ở Sarnath. Thường chỉ có mudra này trên hình tượng Đức Phật
Gautama và ở Ấn Độ trên hình tượng Đức Di Lặc (Maitreya) ngồi để thõng
hai chân phía trước (kiểu Bhadrasana), ở Nhật Bản trên hình tượng Đức
A-di-đà (Amitabha).
Khi Đức Phật muốn biểu lộ yên vui, nhân từ, bảo vệ, đừng sợ hãi, Ngài
giơ tay mặt lên ngang vai, cánh tay gập lại, gan tay hướng về trước,
những ngón tay dính nhau, còn tay trái thì thả lõng xuống theo cơ thể.
Trong các trường phái phương Nam, ở Thái Lan và nhất là ở bên Lào, Vô úy
ấn (Abhaya-mudra) này thường liên kết với điệu bộ của Đức Phật đứng,
hay đúng hơn, đang từ cõi trời Đâu xuất (Tusita) xuống. Ở Đông Nam Á,
thường thấy một thay đổi là cả haitay đều giơ lên ngang đầu. Ở Nhật Bản
nhiều tu sĩ nhận xét có khi cả tay mặt được nâng lên phía trước, đây là
một nhân vật thuộc môn phái Shingon. Mudra dể hiểu này phát xuất từ một
cử chỉ tự nhiên vì giơ tay không có khí giới tỏ ra một tín hiệu hòa bình
nếu không là thân mật. nhưng từ thời thượng cổ, ấn quyết này cũng đã
được dùng để khẳng định quyền lực như những vua La Mã thường làm để vừa
ấn định quy tắc vừa đem lại hòa bình. Trong sách Phật có viết lại chuyện
Đức Phật trước một con voi hung dữ liền giơ tay như ấn quyết này để cản
lại voi, như vậy mudra không chỉ có ý nghĩa làm dịu mà còn gợi lên ý
tưởng không sợ, đem lại yên tĩnh cho những người xung quanh. Trong nghệ
thuật Gandhara và sau này ở Trung Quốc, dưới các triềuđại Ngụy, Tùy vào
các thế kỷ IV-VI, mudra này được dùng để diễn tả động tác thuyết pháp. Ở
các trường phái phương Bắc, trong hình tượng các vị thần thánh, đi đôi
với ấn quyết này thường có một ấn quyết khác, thực hiện với tay trái
hoặc như Thí nguyện ấn (Varada-mudra), hoặc, vị trí ngồi, bàn tay mặt
hướng lên trên, lảm thành một ấn quyết đôi (Abhaya-Varada-mudra) mà
người Nhật gọi là Segan-semui-in.
Thí nguyện ấn Varada-mudra tượng trưng cho lòng trắc ẩn, từ thiện,
thành thực, mà cũng là đón tiếp, dâng hiến , biếu tặng. Đây là ấn quyết
sự hoàn thành ước nguyện chuyên tâm giải thoát nhân loại. Thực hiện phần
lớn với tay trái, cánh tay hoặc thõng xuống theo dọc cơ thể, gantay mở
ra hướng về phía trước, hoặc gập lại, gan tay hơi hướng lên trên, những
ngón tay duỗi ra hay hơi co. Mudra này giống với Vô úy ấn
(Abhaya-mudra) nhưng hai định hướng bàn tay khác nhau. Cũng thấy có vài
hình tượng Đức Phật hay vị Bồ-tát ở Nhật Bản sử dụng ấn quyết này với
tay mặt. Trong các hình tượng đời Ngụy hay thời kỳ Asuka, những ngón tay
lúc đầu cứng đơ, dần dần mềm dẽo ra, hai ngón giữa và ngón chỉ tách ra
khỏi những ngón khác, có khi là ngón nhẫn hay ngón út như ở tượng
Yakushi trong tòa Kondo chùa Horyu-ji. Qua đời Đường những ngón tay hết
còn cứng đờ và ít nhiều uốn cong. Ở Ấn Độ, từ thời kỳ Gupta (thế kỷ
IV-V),mudra này là đặc trưng các hình tướng Quán Thế Âm
(Avalokiteshvara). Sách Phật dẫn tích Quán Thế Âm trong cuộc thâm viếng ở
cõi âm ti;, đã cho nước chảy từ cánh tay thõng xuống theo ấn quyết này
để cứu sống những người đã chết. Mudra này ít được thấy một mình mà cặp
đôi với một mudra khác như với Abhaya-mudra (Abhaya tay mặt, Varada tay
trái) thường gặp ở Trung quốc và Nhật Bản. Trong các ấn quyết đôi này,
khi hai ngón tay cái đụng nhau, ở Nhật Bản mudra được gọi là An-i-in và
có ý nghĩa làm nguội, làm dịu. Mudra này thường bị lầm lẫn với Giáo hóa
ấn Vitarka-mudra mặc dầu trong ấn quyết này tay trái không đặt trên đầu
gối như ấn quyết kia.
Thật vậy, Giáo hóa ấn (Vitarka-mudra) giống vừa Abhaya-mudra vừa
Varada-mudra, nhưng thực hiện với hai tay như trong ấn quyết đôi
Abhaya-Varada-mudra, hai ngón cái đụng đầu hai ngón chỉ. Thường ấn quyết
này tượngtrưng cho một trong những kỳ thuyết pháp của Đức Phật. Ấn
quyết cũng còn được gọi Biện minh ấn vì đây là lúc Đức Phật giải thích
giáo pháp, thuyết phục người chưa tin đạo. Ở Nhật Bản, mudra này được
biến đổi, khi ở bàn tay mặt ngón cái và ngón chỉ ghép với nhau, tay trái
vén một vạt áo, người Nhật gọi ấn quyết này là Kesa-ken-in; khi tay mặt
đưa lên đến ngực, tay trái nắm vạt áo ngang đùi hay xê ra khỏi cơ thể
thì là Nai-segan-in…Ở Nhật Bản cũng như ở Trung Hoa, một biến thể của
mudra này gọi là An-i-shoshu-in khi tay trái đặt theo Vitarka,tay trái
theo Varada ngang hông; khi tay mặt đặt theo Abhaya, tay trái Varada hay
Vitarka mang một bình thuốc, mudra mang tên Yakushi-in được thực hiện
trên hình tượng Dược sư Phật (Bhaishajyaguru). Đặc biệt, bên Nhật Bản,
hiếm nhưng cũng thấy có là ấn quyết dành cho hình tượng Thần Tài với
ngón nhẫn ghép với ngón cái, gọi là Kichijo-in. Khi đầu hai ngón cái và
ngón chỉ ghép với nhau thành hình tròn được xem là hoàn hảo tất nhiên
bất diệt, phù hợp với Phật pháp. Bên Tây Tạng, với ngón tay cái ghép vào
bất cứ một ngón nào khác, ấn quyết được những nữ thần Tara hay những vị
Bồ-tát thực hiện. Cũng ở bên ấy, trong hình tượng những thần Yabyum,
hai tay chéo nhau ở cổ tay, gan tay hướng về phía ngực, những ngón hơi
xòe ra. Trong các môn phái bí truyền cũng như trong nghi lễ thờ phụng
Đức A-di-đà (Amitabha), Giáo hóa ấn được dùng rất nhiều. Bên Nam Dương,
trong tháp Borobudur, những hình tượng các Đức Phật, trên lan can thứ
năm quanh tầng vuông mandala, đều có tay mặt sử dụng Vitarka-mudra, tay
trái đặt trên vạt áo, gan bàn tay hướng lên trên: ấn quyết này là đặc
biệt của Đức Bồ-tát Phổ Hiền (Samanthabhadra).
Có một ấn quyết thông thường không khi nào các Đức Phật được sắp cao
nhất trong thứ bậc Phật giáo thực hiện, trong Đại thừa cũng như trong
Tiểu thừa: hai tay chắp lại với nhau trước ngực như một người đang tụng
niệm, đó là Hiệp chưởng ấn Anjali-mudra thường dành cho những người đọc
kinh cầu nguyện. Rất thông dụng trong khắp Đông Nam Á khi kính cẩn chào
hỏi, mudra này gợi lên một ý tưởng dâng hiến và nếu hai tay dang lên đến
mặt thì là một cử chỉ tôn kính,sùng bái. Ấn quyết này cũng đượcthay đổi
nhiều từ nước này qua nước nọ. Trong các môn phái bí truyền miền Bắc,
người Nhật sử dụng Kongo-gassho-in tức là Vajra-Anjalikarma-mudra, thực
hiện như Anjali-mudra nhưng những ngón cái chéo nhau, hai đầu ngón quấn
vào nhau, hai cánh tay hơi dang ra đằng trước chứ không còn dính vào cơ
thể. Trong những lễ phong chức, có thể chỉ hai ngón cái chéo nhau mà
thôi. Ý nghĩa mudra này là hai tay tượngtrưng cho hai phần mandala các
thiên thần hay sựliên minh mật thiết giữa thế giới nhân loại (tay trai
và thế giới các Đức Phật (tay mặt). Trong trường hợp đặc biệt hình tượng
Đức Quán Âm Fukukensaku, ấn quyết mang tên Ju-in được thực hiện với hai
tay đặt mặt đối mặt, hơi xa nhau và nằm ở giữa một viên tinh thể.
Là một hiện tượng tôn giáo, văn hóa, tri thức, Phật giáo đượctruyền
bá qua giáo dục, thực hành, nghệ thuật. Bắt nguồn từ Ấn Độ từ 5 thế kỷ
trước Tây lịch, đạo Phật lan tỏa lên toàn miền Bắc, phía Tây đến
Afghanistan, phía Đông dọc theo con đường Tơ lụa qua Bắc Trung Quốc, rồi
Hàn Quốc, Nhật Bản. Theo đường biển, đạo Phật được phổ biến qua Tích
Lan, quần đào Nam Dương, bán đão Đông Dương rồi tiến lên Nam Trung Quốc.
Phật giáo như vậy vào khoảng đầu Tây lịch đã được truyền bá khắp Á
châu. Cuộc tiếp xúc sống động với những truyền thống tín ngưỡng, với
những nền văn hóa khác đã gây ra những biểu tượng đặc thù. Mặt khác, uy
lựctinh thần và trí tuệ của những bậc truyền giáo qua nhiều thế kỷ cũng
đã góp phần không ít vào những giáo huấn truyền đạt. Những cộng đồng
Phật tử tất nhiên tập hợpquanh những giáo điều đã được Đức Phật giảng
dạy, đặc biệt quanh những quy ước tranh ảnh, những tượng trưng tiêu biểu
cho giá trị Phật giáo giúp họ nhân danh những nhân vật cao siêu, những
bậc thầy cao quý được xem là gương mẫu. Những mudra là những “cử chỉ
thiêng liêng”, “cử chỉ thần bí”, “cử chỉ ma thuật” giúp tín đồ trong sự
cảm nhận Đức Phật. Phát xuất từ những cử chỉ tự nhiên, mudra dính liền
với đời sống Đức Phật, được thực hiện qua những cử chỉ được quy tăc hóa
(thể dạng bàn tay) theo một cú pháp (định hướng bàn tay), ấn quyết chứa
đựng một giá trị truyền đạt đòi hỏi ở tín đồ một cảm tình trí tuệ trên
nẻo đường dẫn con người đến thần linh.■
Tham khảo
– Louis Frédéric, Les dieux du bouddhisme-Guide iconographique, Flammarion, Paris, 1992.
– Philippe Cornu, Dictionnaire encyclopédique du Bouddhisme, Seuil, Paris (2001)
– Félicie Artaud, Les mudras, étude des gestes sacrés, Mémoire de fin d’études, 2002, www.arts-sceniques.be
– Cécile Becker, Thierry Olivier, Gestes et symboles du bouddhisme, www.guimet.fr.
Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 72-73