Thứ sáu ngày 19/4, Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa
Dokhampa và Tăng đoàn Truyền thừa quang lâm, cầu nguyện quốc thái dân an và ban
đại lễ gia trì quán đỉnh cộng đồng Đức Phật Dược Sư tại chùa Phổ Quang, quận
Sơn Trà, TP Đà Nẵng.
Nhân dịp này, Drukpa Việt Nam xin giới thiệu toát yếu ý nghĩa về
Đức Phật Dược Sư và đăng tải lại bài giảng của Đức Pháp Vương về Phật Dược Sư
tại Chùa Quang Ân (Thanh Trì, Hà Nội) trong chuyến viếng thăm hoằng pháp của
Ngài và Tăng đoàn tại Việt Nam năm 2010.
Đức Phật Dược Sư là Tôn
chủ của thế giới Tịnh Độ Lưu Ly ở phương Đông, có danh xưng là Kim Cương Phật.
Cúng dàng Đức Phật Dược Sư có thể tiêu trừ được hàng trăm bệnh, tiêu trừ nguyên
nhân của căn bản phiền não.
Ngài có một mặt, hai tay, thân màu
sắc xanh lưu ly. Đức Dược Sư Phật an toạ trong tư thế Kim Cương, trên bảo tòa nguyệt
luân hoa sen, Ngài có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Ngài khoác trên mình ba tấm y
giải thoát. Tay phải trong thế Thí nguyện ấn trì giữ thảo dược, tay trái để
ngửa trì giữ bình bát chứa đựng thần dược đem diệu cam lồ diệt trừ vô lượng tật
khổ, thành tựu viên mãn mọi tâm nguyện
của chúng sinh. Bên trái Ngài là Đức Nhật Quang Bồ Tát, bên phải là Đức Nguyệt
Quang Bồ Tát. Đức Phật Dược Sư phát 12 đại nguyện cứu độ các tật khổ của hết
thảy chúng sinh. Thực tướng của các bệnh khổ này là do căn bản vô minh, Ngài
cứu giúp chúng sinh thoát khỏi luân hồi sinh tử cho nên tôn xưng Ngài là Đại
Dược Vương Phật hay Vương Thiện Đạo. Tu trì chân ngôn Phật Dược Sư có thể tiêu
trừ được bách bệnh nan y của thân, tâm bệnh, căn bản phiển não, thành tựu các
thiện hạnh thế gian và công hạnh Phật sự xuất thế.
Giảng pháp và truyền quán đỉnh cộng đồng Phật Dược
Sư, xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội, tháng 3/2010
Mandala Bản tôn Phật
Dược Sư
Hôm nay, chúng tôi sẽ truyền quán
đỉnh và hướng dẫn tu trì về Đức Phật Dược Sư. Bài kệ đầu tiên là trì tụng Quy y
Tam Bảo: Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng. Xin lưu ý quý Phật tử rằng nếu
không đón nhận và thực hành ba pháp Quy y này thì chúng ta không thể tu tập
trên con đường Phật pháp.
Thứ hai là phát Bồ đề tâm: Bồ đề tâm
là tâm cầu giác ngộ phát triển Từ bi và Trí tuệ.
Thứ ba là cúng dàng: Chúng ta dâng
phẩm vật lên cúng dàng Phật - Pháp - Tăng. Khi dâng phẩm vật cúng dàng với lòng
thành như vậy, chúng ta mong nguyện rằng tất cả chúng sinh được hạnh phúc và
thoát khỏi khổ đau. Nguyên nhân chính khiến chúng ta ốm đau bệnh tật là do ích
kỷ. Nếu muốn sống mạnh khoẻ, không đau yếu, chúng ta phải tìm cách loại trừ ích
kỷ. Cho nên trong bài kệ này, chúng ta cầu nguyện cho tất cả mọi người, tất cả
chúng sinh được hạnh phúc an vui. Đây là phương pháp làm giảm bớt ích kỷ, bám
chấp vào bản ngã của mình. Chúng ta thường có thói quen cầu nguyện cho bản thân
như: “cầu mong cho con không đau ốm, cho con được hạnh phúc”. Đây chính là
nguyên nhân của tất cả những bệnh tật, khổ đau. Cho nên, thay vì cầu nguyện cho
bản thân, từ giây phút này trở đi, bạn hãy phát tâm rộng lớn cầu nguyện cho tất
cả mọi loài, mọi người an vui hạnh phúc.
Chúng ta bắt đầu quán tưởng Đức Phật
Dược Sư trên đỉnh đầu, hoặc có thể quán chính bản thân mình là Đức Phật Dược
Sư, rồi quán tưởng mười phương chư Phật, chư Bồ tát đang vây nhiễu xung quanh.
Việc quán tưởng như trên là cách tốt nhất để thiết lập nhịp cầu kết nối tâm
mình với các Ngài. Sự kết nối này đem lại cho chúng ta bình an hạnh phúc. Sắc
thân Đức Phật Dược Sư màu xanh dương, tượng trưng cho sức mạnh của năng lượng.
Muốn có được hạnh phúc chân thật, chúng ta cần phải phát triển, trưởng dưỡng
được sức mạnh của năng lượng này. Chư Phật ứng hiện thân vô số, mỗi vị Phật có
một sắc thân, hình tướng khác nhau, như Đức Phật A Di Đà sắc thân màu đỏ, tượng
trưng cho năng lực của tình thương yêu, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sắc thân màu
vàng ròng, tượng trưng cho sự thành tựu viên mãn.
Màu xanh dương của Phật Dược Sư tượng
trưng cho sức mạnh. Chúng ta cần có sức mạnh. Khi có sức mạnh, chúng ta sẽ có
một hệ thống miễn dịch, một loại năng lượng miễn dịch. Loại năng lượng miễn
dịch này có khả năng chống lại sự yếu đuối của tâm lý và thân vật lý. Nếu tâm
không đủ mạnh, ta sẽ luôn cảm thấy sợ hãi sự mong manh của vô thường, sẽ rất dễ
tức giận, buồn chán và tuyệt vọng. Còn nếu đủ sức mạnh, tâm chúng ta sẽ giảm
bớt giận dữ, buồn rầu, tuyệt vọng và tất cả các loại hạnh phúc chân thật sẽ
đến. Như vậy điều trọng yếu là chúng ta phải làm cho tâm mình mạnh mẽ. Vì lý do
đó, Đức Phật Dược Sư có màu xanh dương, màu biểu trưng cho sức mạnh mà ít người
trong số chúng ta biết đến. Nhiều người cũng có thể hỏi rằng: Tại sao chư Phật
lại hiện thân trong rất nhiều hình tướng, tư thế, màu sắc khác nhau, hoặc khi
thì hiện tướng nam, lúc thì hiện tướng nữ… Tại sao không là một vị Phật thôi? Để
trả lời câu hỏi này, chúng ta phải hiểu rằng mục đích chính của chư Phật giáng
thế là để mang lại hạnh phúc và sự giải thoát cho chúng sinh, nên các Ngài hiện
đủ thân tướng để hợp thời hợp cơ vì lợi ích chúng sinh.
Tiếp đến, chúng ta quán trên luân xa
trán, cổ họng và tim của Đức Phật Dược Sư lần lượt an trú ba chữ chủng tử OM AH
HUNG tượng trưng cho năng lượng giác ngộ. Chữ OM tượng trưng năng lượng giác
ngộ của Thân, chữ AH tượng trưng năng lượng giác ngộ của Khẩu, chữ HUNG tượng
trưng năng lượng giác ngộ của Tâm, nên chúng ta bắt đầu từ ba chữ chủng tử này.
Chúng ta cần năng lượng giác ngộ của Thân, Khẩu, Ý, trong ba năng lượng này thì
năng lượng giác ngộ của Tâm là quan trọng nhất. Bởi thế, chủng tử HUNG được
xoay quanh bởi chuỗi chân ngôn của Đức Phật Dược Sư: TAYATHA! OM BEKANZE
BEKANZE MAHA BEKANZE RADZA SAMUDGATE SOHA. Chuỗi chân ngôn này xoay thuận chiều
kim đồng hồ, vừa quay vừa tỏa ra thứ ánh sáng nhẹ nhàng, trong suốt. Việc quán
tưởng ánh sáng là quan trọng và rất cần thiết.
Bây giờ chúng ta tiếp tục quán tưởng
mình trong hình tướng Đức Phật Dược Sư và quán tưởng bậc Thượng sư đang truyền
quán đỉnh cho chúng ta chính là Phật Dược Sư. Chúng ta có thể nhắm mắt để quán
tưởng thật rõ ràng. Tại sao chúng ta phải quán tưởng thân mình trong hình tướng
Phật Dược Sư? Làm như vậy để chúng ta nhận ra được bản chất Phật, bản chất Như
Lai Tạng nguyên thủy ở trong chính mình, bản chất nguyên thủy đó chính là Phật.
Phật Dược Sư, Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni… tất cả chư Phật nguyên thủy
đều ở trong Như Lai Tạng tính. Thực tế là chúng ta vốn giác ngộ, vốn là Phật,
chỉ vì không nhận ra điều này nên chúng ta cần quán tưởng mình là Phật, là Đức
Dược Sư. Thông qua sự quán tưởng, ta có thể chứng ngộ bản chất Phật tính sẵn có
nơi mình từ vô thủy tới nay. Phật tính không phải là đối tượng bên ngoài để tìm
cầu hay để tạo ra. Đây chính là Đức Phật nguyên thủy sẵn có của mỗi người. Bởi
vậy chúng ta quán tưởng thân mình là Đức Dược Sư và cần quán tưởng Bậc thầy của
mình cũng chính là Phật Dược Sư bởi vì bản chất tâm của Ngài vốn là Phật từ xưa
đến nay và Ngài đã giác ngộ điều này. Chúng ta không nên nhìn Ngài như một
người phàm tình, mà nên tin kính tuyệt đối rằng Bậc thầy gốc của mình chính là
hiện thân của mười phương chư Phật. Đặc biệt trong quán đỉnh này, Ngài là hiện
thân của Đức Phật Dược Sư đang trực tiếp trao truyền quán đỉnh cho chúng ta.
Các truyền thống Phật giáo thường
được chia thành hai Thừa là Nguyên thủy
Phật giáo và Đại thừa Phật giáo; Đại thừa Phật Giáo lại được chia thành hai
nhánh là Kinh thừa và Mật thừa. Lý thuyết cơ bản của cả Mật thừa và Kinh thừa
đều tin chắc rằng mỗi chúng sinh đều có sẵn Phật tính hay Như Lai Tạng. Như vậy
cả hai thừa đều giống nhau về đức tin vào Phật tính, nhưng đặc biệt trong Mật
thừa có những phương pháp tu tập thiện xảo, giúp hành giả dễ dàng nhận ra Phật
tính của mình một cách nhanh chóng, đó chính là phương pháp quán tưởng. Trong
Kinh thừa không đề cập đến phương pháp quán tưởng này. Thật ra không có sự khác
biệt giữa Kinh thừa và Mật thừa, chỉ khác là Mật thừa có các phương tiện thiện
xảo đặc trưng như pháp Quán đỉnh, cúng dàng Hỏa tịnh, quán tưởng tự thân mình
là Phật, Bồ tát… Đây là những phương tiện giúp Hành giả nhận ra Phật tính một
cách nhanh chóng. Nếu không phải là Phật tử, không có sự hiểu biết chân chính
về Phật tính như trên, chúng ta luôn cho rằng Đức Phật ở bên ngoài, không phải
là bản chất thật của mình. Chính vì cách nghĩ này mà sự chứng ngộ trở nên rất
khó khăn.
Đức Phật Thích Ca dạy rằng: “Đức Phật
chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”, đây cũng chính là bản
chất từ bi trí tuệ nguyên sơ nơi tâm mỗi người. Chúng ta thường mong chứng đạt Phật quả, thành
tựu giác ngộ. Bạn nên biết, để chứng ngộ Phật tính, chúng ta không cần thay đổi
bất cứ điều gì bên ngoài. Chứng ngộ chỉ là sự chuyển hoá tâm ở mức độ cần thiết
để nhận ra được bản chất Phật của chính mình. Ngay thời điểm đó, chúng ta trở
thành Phật, còn nếu cứ mải tìm cầu Phật như một đối tượng bên ngoài thì chỉ mệt
công luống uổng thời gian và càng xa rời bản chất Phật nơi chính mình và không
bao giờ đạt được trí tuệ.
Đức Phật Thích Ca cũng dạy mỗi người
nên phát triển trí tuệ của chính mình, khi phát triển được trí tuệ này, chúng
ta sẽ hiểu được vạn pháp (đây chính là trí tuệ toàn tri). Nếu muốn biết được
tâm người khác, trước tiên bạn cần phải tự biết tâm mình. Hiện giờ, chúng ta
chưa đủ thiện xảo để hiểu rõ tâm mình. Không biết được cuộc sống của chính mình
nên chúng ta không thể biết tâm và cuộc sống của người khác, và điều này gọi là
vô minh. Chúng ta thực sự vô minh, mặc dù hiện nay có đầy đủ cả sáu căn mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nhưng chúng ta vẫn không hiểu biết về cuộc sống của
chính mình. Hãy thử xét lại lối sống của mình xem! Chúng ta luôn sống bằng sự
ước đoán, tính toán chuyện gì sẽ và đang xảy ra, một nhân vật, sự kiện quan
trọng nào đó sẽ xuất hiện vào ngày mai, nhưng trên thực tế chúng ta không bao
giờ biết chính xác ngày mai sẽ như thế nào. Chúng ta thường sống trong sự hy
vọng mong cầu, hy vọng hôm nay sẽ có thật nhiều quà, nhiều niềm vui và bất ngờ
thú vị. Song rốt cuộc cũng chỉ là sự suy đoán viển vông, chỉ vì không có trí
tuệ để nhận ra Phật tính của mình. Nếu nhận ra Phật tính thì ta không phải sống
bằng sự suy đoán mà vẫn biết mọi chuyện một cách rõ ràng. Hiển nhiên lúc đó
chúng ta sẽ không còn nhiều đau khổ. Nhờ có trí tuệ Toàn tri mà nguyên nhân của
đau khổ, tất cả mọi lỗi lầm bất thiện nghiệp sẽ được loại trừ. Dần dần, bạn
không bao giờ còn ốm đau tật bệnh, bạn sẽ biết được nguyên nhân của bệnh tật
đau khổ. Tất cả mọi bệnh tật ốm đau hay khổ đau đều bắt nguồn từ vô minh. Khi
vô minh không còn thì tất cả bệnh hoạn khổ đau cũng không còn và hạnh phúc chân
thật sẽ đến.
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều
bệnh tật thuộc thân thể vật lý khác nhau, có một số bệnh ngay cả khoa học không
hề biết được nguyên nhân. Sự thực là tất cả chúng ta không ai muốn mình bị tật
bệnh, nhưng theo quan điểm Phật giáo, chúng ta vẫn cứ ốm đau bởi vô minh và những
bất thiện nghiệp tích lũy từ nhiều kiếp. Cho dù chúng ta không muốn tạo nên
những nghiệp xấu đó, nhưng do năng lực của vô minh chúng ta không còn cách chọn
lựa nào khác, nên chúng ta vẫn tiếp tục tích lũy bất thiện nghiệp. Tôi xin lấy
ví dụ, những người làm nghề đồ tể, sát sinh chó, bò, gà, lợn… để kiếm tiền, mưu
cầu hạnh phúc cho riêng mình là những người như thế. Nếu chúng ta có thể hỏi
những con vật tội nghiệp đó rằng "chúng muốn hạnh phúc hay muốn
chết", chắc chắn chúng sẽ trả lời: “Không, chúng tôi không muốn chết,
chúng tôi muốn sống, muốn có hạnh phúc”. Bởi vì không biết Phật Pháp, không
biết đâu là nguyên nhân của khổ đau và hạnh phúc, cho nên họ cứ sát sinh để mưu
cầu hạnh phúc cho bản thân, và đó chính là vô minh. Hay ví dụ của những người
lấy việc ăn thịt là niềm hạnh phúc. Họ đơn giản đi tìm sự hạnh phúc sung sướng
thông qua sự khoái khẩu, nhưng đó là một phương pháp sai lầm, vì chúng ta không
thể dựa vào bất thiện nghiệp mà mong cầu hạnh phúc được. Phương pháp chân thật
để đạt được hạnh phúc là sự ban tặng, như mang niềm vui hạnh phúc cho người
khác, hoặc phóng sinh để cứu sống các loài. Theo cách này, chúng ta sẽ đạt được
hạnh phúc và trường thọ. Đấy là chân hạnh phúc, cho nên điều quan trọng nhất là
chúng ta cần phải nhận ra và loại bỏ nguồn gốc đau khổ hay sự vô minh.
Đức Phật Dược Sư là một bậc Giác ngộ,
nghĩa là có Trí tuệ hay sự hiểu biết. Chúng ta quán tưởng mình trong hình tướng
của Ngài là đang cố gắng có được trí tuệ, từ bi như Ngài. Trong hình ảnh của
Ngài, chúng ta thấy tay phải duỗi xuống trong tư thế Thí nguyện ấn trì giữ cây
thảo dược, tay trái Ngài để ngửa cầm bình bát chứa đựng cam lồ diệu dược. Cây
thảo dược tượng trưng cho việc khi chứng ngộ bản chất Phật tính, bạn sẽ không
còn bất kỳ một loại thân bệnh và tâm bệnh nào cả. Bát chứa đầy cam lồ diệu dược
tượng trưng cho việc khi chứng ngộ Phật tính, ta có thể đáp ứng viên mãn mọi
mong cầu, ước nguyện của chúng sinh. Hai chân Ngài ngồi tư thế kiết già tượng
trưng cho việc khi chứng ngộ Phật tính, chúng ta sẽ không còn chịu bất kỳ khổ
đau nào như những loại khổ đau mà chúng ta hiện đang phải trải nghiệm trong thế
giới này. Tay phải của Ngài duỗi trên đầu gối trong thế Thí nguyện ấn, tượng
trưng khi thành Phật bạn luôn luôn liên hệ mật thiết với con người, với những
chúng sinh xung quanh để giúp đỡ cứu hộ độ trì cho họ. Tay trái của Ngài đặt
trong tư thế thiền định ngay giữa trung tâm của thân, tượng trưng khi thành
Phật chúng ta không bao giờ còn bị phiền nhiễu bởi những trạng thái tiêu cực
như tham lam, giận dữ,…và tâm của ta sẽ luôn ở trong trạng thái thiền định. Như
tất cả chư Phật, Đức Dược Sư cũng an toạ trên hoa sen, tượng trưng cho việc khi
thành Phật, cho dù đang ở cõi Sa bà uế trược, chúng ta cũng không bị ảnh hưởng
bởi những nhiễm ô, phiền não của Sa bà. Tất cả những trang sức, hoa báu xung
quanh tòa của Ngài, tượng trưng cho việc khi thành Phật, bạn sẽ luôn hân hưởng
mọi điều tốt đẹp trên thế giới này, mà không bị phiền nhiễu khổ đau. Có thể giờ
đây bạn cũng có vài điều tốt đẹp như tiền bạc, nhà cửa, bạn bè, gia đình…,
nhưng những thứ này luôn gắn liền với khổ đau. Còn khi thành Phật, những thứ
tốt đẹp lộng lẫy và huy hoàng hơn thế sẽ đến một cách nhậm vận tự nhiên mà
không có khổ đau đi kèm. Bởi vậy, điều quan trọng nhất là bạn phải nhận ra được
bản chất Phật tính, tức Đức Phật Dược Sư ở ngay trong chính mình.
Ngày mai là quán đỉnh Phật A Di Đà,
cũng chính là bản chất Phật của mình. Chúng ta cần phải chứng ngộ bản chất đó.
Phật tính của chúng ta có các công dụng khác nhau, như cứu chữa bệnh tật, tích
lũy tài bảo, khía cạnh về năng lượng làm giảm thiểu bớt kẻ thù hay ma quỷ tổn
hại… Như vậy, Phật Dược Sư nêu biểu khía cạnh chữa thân và tâm bệnh, còn Phật A
Di Đà nêu biểu tích lũy tài bảo và năng lượng để được trường thọ. Nếu chúng ta
không trường thọ mà chỉ chữa lành bệnh thì sợ chúng ta không có đủ thời gian để
thực hành Phật pháp. Tuy vậy, Phật Dược Sư, Phật Di Đà vốn chỉ cùng một bản
chất giác ngộ, ta không nên cho rằng Phật này khác với Phật kia. Mỗi đức Phật
thể hiện một khía cạnh khác nhau, một năng lực khác nhau. Đây là điều chúng ta
cần hiểu rõ! Như vậy, thông qua việc thọ lãnh quán đỉnh và nghi quỹ, chúng ta
cần bắt đầu phát triển quan kiến đúng đắn về các vị Phật và và ý nghĩa giá trị
giáo pháp của Đức Phật!
(Trích từ: Mandala, sự hợp nhất của Từ bi và Trí
tuệ theo quan kiến Kim Cương thừa, NXB Tôn giáo, 2011)