a/ Phật giáo và ‘sáng tạo luận’ (creationism)
– Trong rất nhiều sách viết về Phật giáo và các tôn giáo Tây phương
khác bằng ngôn ngữ Tây phương, một số tác giả Tây phương vẫn dùng những
khái niệm tôn giáo theo truyền thống phương Tây để đánh giá các tôn giáo
này. Ví dụ, Phật giáo bị xem là “vô thần” bởi vì Phật giáo không giải
thích được nguồn gốc của vũ trụ bằng một “sáng tạo luận”, theo đó thế
giới này được tạo ra bởi một “Đấng Tối Cao” cai quản thế gian theo ý
muốn độc đoán chuyên quyền của riêng mình mà loài người thấp hèn không
được quyền thắc mắc hay khiếu nại gì cả.
Thật
ra sáng tạo luận chỉ là một trong những giả thiết (chứ không phải là
giả thiết duy nhất) giải thích cho nguồn gốc sự sống và đây là đức tin
nền tảng của các tôn giáo xuất phát từ Trung Đông (Middle East). Trong
khi đó, khoa học và các tôn giáo Đông phương đưa ra các giải thích khác
về nguồn gốc vũ trụ và đời sống. Một khi ý thức được bối cảnh văn hoá
Trung Đông của đức tin này, chúng ta không thể nào chấp nhận cái nhận
xét cho rằng Phật giáo là “vô thần” chỉ vì Phật giáo không giải thích
nguồn gốc thế giới và con người theo cùng cách với các tôn giáo Trung
Đông ấy. Nhận xét như thế cũng giống như nói rằng “anh không có những giá trị đạo đức giống tôi thì anh là đồ vô đạo đức” hoặc như kiểu hỏi “anh (chị) có đạo không?” – Đưa đến phản ứng: Thưa “Tôi không có “đạo”, tôi là người lương” – Một người chỉ cần có nửa khối óc cũng thấy nhận xét trên là không công bằng.
Một
trong những lý do mà Phật giáo và một số hệ thống triết học Ấn Độ giáo
không chấp nhận sáng tạo luận, chỉ vì họ có lập luận triết học tiêu biểu
như sau: Không có một sinh thể (being) nào mà mọi mục tiêu đã được
thành tựu lại vẫn còn cần phải hành động, bởi vì mục tiêu của hoạt động
là để thỏa mãn một dục vọng nào đó. Ý là: nếu như một “Thượng đế”
thì đấng này phải toàn hảo và đã toàn hảo thì đương nhiên là không có
dục vọng nào cần phải thành tựu nữa. Vậy Thượng đế sáng tạo để làm gì?
Cần có con người cho đỡ cô đơn chăng? Hay để hưởng thụ một chút quyền
lực? Vả lại, về mặt triết học, nếu như quy mọi sự về một nguyên nhân tối
hậu, thì cái gì là nguyên nhân của nguyên nhân tối hậu đấy?
Thử
hỏi: Thượng đế hay Đấng tạo thế toàn năng ấy, có thể tạo ra một khối
lượng lớn đến nỗi chính mình không cất lên nổi chăng? Và xin hỏi rằng:
đặc tính của Thiên Chúa là năng động hay bất động? Nếu là năng động thì
phải liên tục năng động, như vậy Thượng đế đương nhiên là phải thường
hằng (eternal). Thế thì tại sao Thượng đế lại “không làm gì cả” từ hàng
tỷ tỷ năm mãi cho đến cách đây khoảng sáu ngàn năm (theo Do thái giáo)
mới hoạt động (tạo thế), và vũ trụ lại chỉ hiện hữu trong vài ngàn năm
rồi tận thế vĩnh viễn?
Đó
là những lý luận tiêu biểu của một bộ phận tư tưởng Ấn Độ, liệu truyền
thống Trung Đông có sẵn lòng dựa trên lý luận này để phán xét vũ trụ
quan của mình hay không? Tất nhiên là không, và họ không cần phải làm
như thế.
Cho
nên, trí giả Tây Phương cũng không thể dùng các phạm trù văn hóa có
nguồn gốc Trung Đông kia để phán xét các tôn giáo Đông Phương. Bởi vì, ở
mặt phương pháp luận, dùng những khái niệm “hữu thần”,”vô thần” để phán
xét Phật giáo tự chính nó đã phi lý rồi. Rõ ràng là như vậy,nhưng,thật
khó tránh khỏi. Bởi vì, đối với những trình độ trí thức còn giới hạn, để
hình dung được đối tượng nào đó, ở đây là Phật giáo, người ta cần phải
cố xếp đối tượng đó vào bảng phân loại nhị phân của truyền thống triết
học Tây Phương quen thuộc với họ. cũng may là, với sự tiến bộ của ngành
tôn giáo học, ngày nay đã có một số ít nhà nghiên cứu chủ trương rằng truyền thống Phật giáo có đủ một lich sử lâu để chúng ta nghiên cứu Phật giáo bằng chính lịch sử Phật giáo.
Quan điểm này đánh dấu một bước tiến trong học thuật về Phật giáo ở Tây
Phương. Và cũng nên công bằng mà ghi nhận rằng :Trong nhiều sách,sau
khi phân tích và tìm hiểu cặn kẽ giá thuyết Phật,nhiều học giả Tây
Phương cho rằng đạo Phật là một liệu pháp thực tiễn: tất cả đều nhằm đến
việc chấm dứt các ‘khổ’. Đồng thời, họ cũng hiểu rằng , với Đức Phật,
việc thực hành siêu nghiệm (dựa trên đức tin Đấng siêu nhân, không kiểm
nghiệm được, nào đó),nếu có đóng góp được gì cho mục tiêu” chấm dứt các
‘khổ’”, thì sẽ được tin cậy; thế nhưng chẳng những nó không có ích dụng
gì cả, mà thường xuyên gây trở ngại (nên biết, tư tưởng tuyệt đối xấu
không hề có trong đạo Phật).
b/ Bản chất của tôn giáo với Phật giáo –
Như ai lấy đều công nhận religion (Việt dịch: tôn giáo) lấy sự kết hợp
giữa Thần( God, Thượng đế) và Người làm nền tảng. Nhưng Phật giáo không
thừa nhận có một đấng “Tạo Vật Chủ”, nhất là Phật giáo nguyên thủy, nên
không có một khái niệm nào về sự quan hệ giữa Thần và Người. Phật giáo
Tịnh độ, tuy có căn cứ vào sức bản nguyện của Phạt A Di Đà để thành
lập ” cứu độ quan ”, nhưng quan niệm này không thể được coi là một hình
thức quan niệm về ”liên hệ giữa Thần và Người”. Do đó, nhiều học giả Tây
Phương và Nhật Bản cho rằng Phật giáo,đặc biệt là Phật giáo nguyên
thủy, từ bản chất không phải là tôn giáo.
Phía khác,lại có một số học giả cho rằng Phật giáo là khoa học.
dĩ nhiên nhận xét này đã đứng trên lập trường cho rằng tôn giáo là sự
“quan hệ giữa Thần và Người” để quan sát Phật giáo;và đương nhiên chúng
ta cũng không thể chấp nhận. Song có điểm rất thú vị là trong số các học
viên Tây Phương lại có người, cũng đứng trên lập trường ấy để nhận định
Phật giáo,và cho rằng” Phật giáo là khoa học chân chính, cho nên Phật giáo cũng là một tôn giáo chân chính”.
Lại mới đây ,trong bài khảo luân nhan đề ”Phương diện tôn giáo và đạo đức của Phật giáo”, ông Paul Dalph nói :”Một tôn giáo là đưa toàn bộ yêu cầu nhân quả thực hiện ngay trong thâm tâm của mình”,
đó là dựa vào phương pháp khoa học để luận chứng chân lý của Phật
giáo, một nhận xét tuy đúng nhưng vì quá thiên trọng phương diện lý
trí, cho nên không hề thừa nhận có cảnh giới thần bí nào. Dù sao tì nhận
xét này cũng không khỏi có điểm không phù hợp với Phật giáo.
Vây,nói
cho cùng,thì Phật giáo có phải là một tôn giáo (religion)không? Để trả
lời câu hỏi này, chúng ta cần phải xét đến nguồn gốc cũng như bản chất
của những đòi hỏi tôn giáo-Về nguồn gốc của tôn giáo,giữa các học giả
tuy có nhiều quan điểm khác nhau,nhưng nếu đứng về phương diện tâm lý là
nhận xét tì tôn giáo phát sinh từ nhu cầu đáp ứng những hiện tượng tinh
thần của con người.Do đó ta không thể tìm nguồn gốc của tôn giáo các
thần linh, mà phải tìm nó ở tinh thần của con người.
Các
điều kiện sinh tồn của con người tuy nhiều nhưng,tựu trung, có hai điều
kiện nổi bật nhất là: điều kiện tự nhiên và điều kiện tinh thần. Nhưng,
về mặt tác dụng, tính chất của hai điều kiện này hầu như hoàn toàn
tương phản nhau. Điều kiện tự nhiên cũng là các quy luật tự nhiên, mà
dù muốn hay không người ta cũng buộc phải tuân theo. Còn điều kiện tinh
thần lại lấy ước ngyện tự do làm đặc tính;có khi vì muốn được triệt để
tự do mưu đò chống lại các quy luật tự nhiên.Chẳng hạn như, con người
sinh ra tất có phải chết,đó là quy luật tư nhiên;ấy thấy mà ước vọng tự
do của con người muôn sống mãi không chết. Như vậy trong sinh tồn của
kiếp người, ta thấy chứa đựng một mâu thuẫn không thể tránh khỏi. Do đó,
trong cuộc sống hằng ngày,khi nào hai điều kiện trên thỏa hiệp mà điều
cần tự do chiếm phần ưu thắng, thì cuộc sống đó được nhận là có hạnh
phúc. Nhưng khi đến một hòa giả nhất triệt để giưã hai điều kiện ấy là
một việc không thể. Từ đó, người ta tìm tòi và sáng tạo ra những phương
pháp thần bí nhằm hóa giải mâu thuẫn đó của cuộc sống-đây chính là mầm
mông của tôn giáo. Mà thống cảm về mâu thuẫn đó càng tăng, nếu như lí
trí của người ta càng mạnh; và sức phản tỉnh của người ta càng mạnh
chừng nào thì thống cảm ấy cũng mạnh chừng nấy; rốt cuộc những quan
điểm yềm thê,mất mãn,thất vọng đối với cuộc đời cũng do đó mà phát
sinh.Như vậy, một bên là yêu cầu tự do,lấy sự tự do tuyệt đối,lấy tự do
tuyệt đối và sự vinh quang tuyệt đối làm thuộc tính,thậm chí còn mong
kéo dài sự sống đến vô hạn;ddoonhf thời ,nhìn lại cuộc sống hiện thực
trói buộc, mất tự do càng cảm thấy mất mãn,khổ não,vì thế mà nảy sinh ra
yêu cầu giải thoát.Và,hai phương diện của cuộc sống:một mặt đối với khổ
và ước vọng thoát khổ;mặt kia,bằng phương pháp thần bí do cái tâm mong
cầu của con người tìm ra,nhằm đạt được một sự điều hòa, đó chính là
nguồn gốc của tôn giáo.
Còn
làm thế nào để thỏa mãn yêu cầu đó? Đây chính thực là vấn đề căn bản
của tôn giáo. Về điểm này,tuy có nhiều đẳng cấp và chủng loại,nhưng loại
tầm thường nhất là hòa giải mâu thuẫn,thỏa mãn yêu cầu, mà kẻ có thể
đem lại những điều kiện đó phải là một tồn tại vượt trên loài người,tức
là Thần hay tưởng tượng ra nhiều Thần do nhiều phương pháp (cầu đảo,đức
hạnh,tín ngưỡng ,mông tưởng…tức ‘duy tưởng’/idealist)để cầu xin sự phù
hộ nhằm đạt mục đích.nghĩa là, trên thế gian này,ngoài sự tồn tại của
nhân loại,còn phải có một hoặc nhiều đâng thiêng lieng lắm giữ chìa khóa
của tự do và của tự nhiên. Nếu con người biết chiều theo ý muốn của
đấng thiêng liêng ấy thì sẽ được giải thoát, được tự do. Căn cứ theo tín
ngưỡng này, đấng thiêng liêng đã có đủ uy lực,có thể hoán chuyển tất
yếu (fatalism) thành tự do. Nói cách khác, đấng thiêng ấy phải có phép
lạ đó khi con người thành khẩn cầu xin.
Và,
bất luận xưa hay nay,đây là hình thức tôn giáo thịnh hành nhất. Cho nên
người ta định nghĩa tôn giáo là sự kết hợp hay quan hệ giữa Thần và
Người. Thế nhưng chúng ta cần ghi nhận rằng đó chỉ là một hình thức tôn
giáo, chư không nên cho nó là một điều kiện tất yếu của tôn giáo. Vì,như
nói trên, nguồn gốc của tôn giáo là yêu cầu kết hợp giữa”cảm nhận mất
tự do”và” mong cầu giả thoát”.
Và,
nếu bằng chi thức co được từ kinh nghiệm,nhận thấy rằng các thần thánh
không thể thỏa mãn yêu cầu tôn giáo, mà chính tôn giáo có thể thỏa
mãn,thì Phật giáo là một tôn giáo. Thật vậy,nếu tôn giáo bắt nguồn từ sự
mâu thuẫn bất hợp lý của nhân sinh, mà cố gắng hợp lý hóa những yếu tố
bất hợp lý đó bằng một Nhân Cách Thần toàn năng toàn trí thì không thể
toại ý được. Do đó mà Đức Phật đã không coi trọng phương cách dùng vị
Nhân Cách Thần làm đối tương tôn giáo.Thật ra, Phật giáo cho rằng có một
vị Thần nào đó vượt ngoài những hạn chế của tự nhiên.
c/
Nét đặc trưng của Phật giáo-Từ chỗ biết rõ sự mâu thuãn nhân sinh kia,
nguồn gốc của mọi nhiễu phiền bất toại (dukkha), là do nơi ước vọng
mong cầu có được một cuộc sống vô hạn với yêu cầu giải thoát,tất cả
những thứ này đều phát sinh từ nội tâm của ta; như vậy thì giải quyết tôi hậu tất nhiên phải tìm ngay trong tự tâm, thay vì đi tìm nơi một đáng siêu nhân nào đó. Và:nền tảng cơ bản về mặt tôn giáo của đức Phật là sự phản tỉnh tự tâm.
Như nhiều người đã biết lời dạy cuối cùng của Đức Phật là :”hãy
tự mình thắp đuốc lên mà đi;hãy tự mình là nơi nương tựa cho mình nương
tựa nơi tránh pháp,tránh chứ đừng nương tự vào nơi nào khác”.
Những lời này là minh chứng rõ ràng;và từ đáy về sau lập trường về Phật
giáo đều lấy đó làm chủ hướng quán thông. Điều này cũng có nghĩa là
,theo Phật giáo,người thế nhập được sinh mệnh vô hạn quyết không thể dựa
vào phương pháp ‘biểu tượng hóa tích cực’(qua hình ảnh Thần) mà tìm cầu
được; trái lại phải bắt đầu giải phóng những hạn chế, cho nên phải bắt
đầu từ cái cá thể bất hợp lý của ngã chấp, ngã dục để giải phong chính
mình .Và khi thải nghiệm được sinh mệnh vô hạn thì tự minh biến thành
nội dung của sự thể nghiệm ấy.
Đó
là lập trường mới do Đức Phật đề ra. Nói một cách đơn giản thì:lập
trường của Phật giáo là ’giải thoát’(khỏi những hữu hạn của tự nhiên) là
mục đích, và đằng sau đó dự phóng một định mệnh vô hạn (cuộc sông tự
chủ tuyệt đối) những cái’vô hạn sinh mệnh’ấy chỉ được thể hiện nội tại
chứ không biểu tượng hóa- có thể đây là một hình thức tôn giáo, tuy thần
bí nhưng rất hợp lý và thực tiễn.
Các
tôn giáo phổ thông xem ‘ sinh mệnh vô hạn’ như là sai ở bên ngoài, biến
nó thành một hình thái nhất định với biểu tượng là Thần (Thượng đế,
Gog/Dieu/jehovah/Alah/Brahmah…). Phật giáo tuy lấy giải thoát làm tiêu
biểu bên ngoài thế giớ hữu hạn nhưng vẫn không biểu tượng hóa cái ‘
sinh mệnh vô hạn’. Nếu nói một cách miễn cưỡng thì đem ‘ không’ vào nội
tâm – tất cả đều quy về ‘ một tâm’ (duy tâm). Đó là lập trường độc hữu
của Phật giáo. Thế nhưng, đối với những người chưa thể nhiệm được giáo
lý thâm ảo đó thì không khỏi có cảm giác hoang mang cho nên tùy thuận
theo đà tiến triển của tư duy mà đem Chân Không biểu tượng thành Diệu
Hữu; và, để thích ứng với đường lối này, Phật giáo đã đưa ra nhiều danh
từ như ‘ Pháp Thân’ ‘ Chân Như’, ‘ Tịnh Độ’ v.v. tư tưởng này có tuy có
nhiều biền hóa nhưng tựu trung, theo ý tưởng theo căn bản,thì tất cả
chỉ là những phương pháp giúp khai thác triệt để vùng đất kì nội tâm.
Theo
cách phân tích và quan sát trên, người ta không thể không thừa nhận
rằng Phật giáo, về mặt tự lực, nơi mục tiêu thỏa mãn yêu cầu tôn giáo,
trong bản chất, là một tôn giáo hoàn toàn sung thực. nếu muốn so sánh
với quan niệm Thần và Người của các tôn giáo khác thì:tương đương với
Thần là’Niết -bàn’, ’Không’, ’Pháp’;còn tương vói Người thì xem ‘ngã
dục’ là trung tâm khiến chi tự tỉ phải khổ đau trong cuộc sống mâu
thuẫn, những cái’ngã dục’đó lại cũng luôn luôn hướng đến một cuộc thoát
ly, nỗ lực giải phóng tự kỷ để thể hiện để thể nghiệm cho thế giới uyệt
đối tự do (‘Niết –bàn’,’Pháp giới’,’ Phật giáo’). Nhưng đối với Phật
giáo, cũng Thần Người trong các tôn giáo hoặc khách quan hoặc chủ quan
tất cả đều do”Một Tâm” của con người, nghĩa là do nơi tự tâm con người
để tìm cầu sự siêu việt. Và cái cảnh giới siêu việt đó nhất trí với nội
tâm đây là hình thức tôn giáo đặc trưng nhất mà Đức Phật đề ra.
Ngắn
gọn, trong tôn giáo tất phải có hai phương diện tiêu cực và tích cực
chung không thể tách rời nhau. Các tôn gióa phổ thông thì từ mặt lý
tưởng ( tuyệt đối-tích cực) tiến đến hiện thực(tương đôi-tiêu cực);
nhưng đặc trưng của Phật giáo thì ngược lại:đi từ hiện thực đến lý
tưởng. Mà ngày nay, khi haaud hết các tôn giáo Thần quyền đang đi dần
vào bóng tối thì Phật giáo, vì có những đặc tính nêu trên vẫn được loài
người ngưỡng mộ và phát triển mạnh mẽ.có thể nói Phật giáo là một tôn giáo đã được thành lập theo phương pháp tâm lý tôn giáo chân chính và vĩnh viễn bất diệt.
Nguồn: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo