Kinh Bản Và Huyền Thoại
Theo Viên Trừng –
Trạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự,
thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhã và trước Pháp hoa. Ông ta lập luận
rằng: Đức Phật nói Nhất thừa ở trong Bát nhã là thời kỳ thính chúng
đang còn trình độ tu học ở ngoại vi, nhưng đến khi Đức Phật nói kinh
nầy, thì thính chúng nghe được giáo pháp chân thực và đều tùy thuận Nhất
thừa.
Ông đã dẫn chứng thi kệ của kinh nầy, do Tỷ kheo A già đà bạch
rằng: “Đương vị nhập thực thuyết, tùy thuận giai Nhất thừa,… Nghĩa là:
Sẽ nói vào chân thực, đều tùy thuận Nhất thừa,…”. Ông lại dẫn tiếp:
“Nhất vị chi pháp nhuận, phổ sung ư nhất thiết,… Nghĩa là: Thấm nhuần
một pháp vị, tất cả đều sung mãn,…” (Đại chính 9, tr 366a23-26).
Vì
vậy, ông kết luận, kinh nầy Đức Phật giảng dạy cho đại chúng sau thời
kỳ Bát nhã. Và Viên Trừng – Trạm Nhiên lai nói: Kinh nầy, tuy chỉ thị
Nhất thừa, nhất pháp, nhất vũ, nhất vị, nhưng chưa thọ ký trực tiếp tên,
hiệu, cõi nước cho những vị đương cơ, vì vậy mà biết rằng, kinh nầy Đức
Phật, giảng dạy cho đại chúng trước thời kỳ Pháp hoa. (Viên Trừng, Kim
cang tam muội chú giải tự, Tục Tạng kinh 35, tr. 0219b22-c5).
Nếu
theo luận chứng của Viên Trừng – Trạm Nhiên và lại căn cứ vào năm thời
kỳ giảng dạy giáo pháp của Đức Phật do Trí Khải (538 – 597), Tổ sư của
Thiên Thai Tông Trung Hoa phán định, thì Đức Phật giảng kinh Kim cang
tam muội nầy khoảng năm 42, sau khi Ngài thành đạo.
Nhưng, theo
Nhân Sơn - Tịch Chấn, đời Thanh (1644 – 1912), ở trong phần Huyền đàm,
mục Giáo Tích Tiền Hậu, của Kim cang tam muội kinh thông ký, đã đưa ra
nhiều luận chứng, để chứng minh rằng, kinh Kim cang tam muội được Đức
Phật giảng dạy, sau kinh Pháp Hoa và trước kinh Niết Bàn, nghĩa là trước
khi đức Phật nhập Niết bàn khoảng ba tháng. (Huyền Đàm - Giáo Tích Tiền
Hậu - Kim cang tam muội Kinh Thông Ký, Tục Tạng Kinh 35, tr 257c17 –
258c02).
Như vậy, theo Nhân Sơn - Tịch Chấn, Đức Phật giảng kinh nầy, vào khoảng Ngài gần cuối năm 79 tuổi.
Kinh Kim cang tam muội, được dịch sang Hán vào thời Bắc lương (397-
439), hiện có ở trong Đại Chính Tân Tu, số ký hiệu 273, cuốn 9, từ trang
365 đến 374. Mất tên người dịch.
Ta đọc Xuất tam tạng ký tập 3,
do Tăng Hựu (445-518), soạn dựa vào bản Lương thổ dị kinh lục của Thích
Đạo An (312- 385), có ghi tên của kinh nầy. (Đại Chính 2145. 55. 18c6).
Pháp
Kinh viết Chúng kinh mục lục vào năm 594, cũng có ghi Kinh Kim cang tam
muội vào mục lục, loại đơn bản thất dịch (Đại chính 2146. 55. 121a14).
Năm
597, Phí Trường Phòng viết Lịch đại Tam bảo kỷ, cũng có ghi tên kinh
nầy. (Đại chính 2034. 49. 85a18). Và trong Chúng kinh mục lục của Ngạn
Tông cũng ghi kinh nầy vào loại khuyết bản (Đại chính 2147. 55. 176b28).
Trong Chúng kinh mục lục của Tĩnh Thái viết năm 666, ghi kinh nầy khuyết bản (Đại chính 2148. 55. 214a29).
Đạo
Tuyên viết Đại đường nội điển lục, năm 664 cũng chép theo cách của Xuất
tam tạng ký tập (Đại chính 2149. 55 .256c4). Trong Dịch kinh cổ kim đồ
kỷ (Đại chính 2151. 55. 361a24), do Tĩnh Mại viết cũng giống Đạo Tuyên.
Năm 695, Minh Thuyên thiết lập Đại Chu san định chúng kinh mục lục, xếp kinh Kim cang tam muội vào loại thất dịch và khuyết bản.
Đến năm 730, Trí Thăng viết Khai Nguyên thích giáo lục, ghi rằng kinh Kim cang tam muội hiện còn (Đại chính 2154.55.5522b14).
Bản
dịch kinh Kim cang tam muội đến thời Trí Thăng vẫn còn là do lấy những
thiên còn lại mà đưa vào Đại tạng (Khai Nguyên giáo lục 12, 19. Đại
chính 2154. 55. 605b15, 667a22, 668c20).
Như vậy, theo các tư
liệu ta thấy kinh Kim cang tam muội đã được dịch sáng Hán muộn lắm là
vào thế kỷ thứ tư và đã được đưa vào Đại tạng kinh vào thế kỷ thứ tám.
Theo
Nhân Sơn – Tịch Chấn, đời Thanh (1644 – 1912), trong phần Huyền Đàm,
mục Phiên dịch thời đại của Kim cang tam muội kinh thông ký, sau khi đã
đưa ra những luận chứng và ông đã đi đến kết luận rằng, kinh Kim cang
tam muội do Pháp sư Đạo An (312 – 385) dịch. (Tục Tạng Kinh 35, tr
258c02 – 259a06).
Ngoài kinh Kim cang tam muội, ở trong Đại chính
Tân tu, cuốn 34, ta còn thấy có Kim cang tam muội kinh luận của Nguyên
Hiểu, với số ký hiệu 1730, từ trang 961a1 đến 1007c29.
Nguyên Hiểu là ai, mà đã viết sớ, luận về kinh nầy?
Theo
Tống cao tăng truyện, do Tán Ninh (919-1001) viết thì: “Nguyên Hiểu họ
Tiết, người Tương Châu, Đông Hải. Học đạo khi tuổi còn để chỏm. thường
thích đi đó đây và tranh luận, không ai có thể vượt qua. Ông thông hiểu
hết tam học. Sức học địch cả muôn người. Ông rất hâm mộ cửa trường của
Ngài Huyền Trang, nhưng duyên không được. Ông bất mãn ăn chơi vô kể,…
Hoặc viết sớ để giảng về Tạp Hoa, hoặc đánh đàn làm nhạc, ở các đền thờ,
hoặc ở trọ làng xóm, hoặc thiền ở nơi núi sông, cuộc sống của ông phần
nhiều theo tự ý, chứ không theo thời khóa nào cả.
Bấy giờ quốc
vương đại hội một trăm tòa Kinh nhân vương, tìm khắp các bậc thạc đức.
Châu ấy cho sư có danh tiếng bèn tiến cử lên. Các vị khác không thích
nếp sống của sư, đề nghị vua đừng chấp nhận.
Chẳng bao lâu, phu
nhân của vua não bị sưng vù lên, các danh y bó tay. Vua, vương tử, thần
thuộc cầu đảo khắp chỗ sông núi hồn thiêng, nhưng không có hiệu quả. Có
chiêm gia bảo rằng: “Nếu sai người đến nước khác kiếm thuốc thì bệnh mới
lành”. Vua liền sai sứ lấy thuyền vượt biển vào Đường để tìm y thuật.
Trong
lúc ở trên thuyền mơ màng, sứ giả liền thấy có một ông, do sóng đánh
nhảy lên thuyền, mời sứ giả xuống biển xem cung điện trang nghiêm đẹp
đẽ, liền gặp Long vương.
Long vương tên Khâm Hải, bảo với sứ giả
rằng: “Phu nhân của vua nước ngươi là người con gái thứ ba của Thanh Đế.
Trong cung ta trước có kinh Kim cang tam muội, đó là hai giác viên
thông, trình bày hạnh bồ tát. Nay, nhờ bệnh của phu nhân làm tăng thượng
duyên, muốn gởi kinh nầy ra nước kia để lưu bố”. Nói rồi, Long vương
đem đến ba mươi tờ, xếp chồng rời rạc, giao cho sứ giả.
Lại còn
nói: “Kinh nầy khi đem vượt biển sợ quỷ”. Long vương sai cầm dao rạch
đùi của sứ giả nhét vào trong, dùng giấy sáp cuốn buộc lại để làm thuốc
rịt bắp đùi lại như cũ.
Long vương dặn khi về đến, có thể nhờ
Thánh giả Đại An xếp thứ tự đóng lại, rồi mời pháp sư Nguyên Hiểu viết
sớ mà giảng, thì bệnh của phu nhân sẽ lành, không có gì để nghi ngờ. Giả
như có thuốc A-da-đà hiệu lực cũng không hơn được”.
Dặn xong, Long vương đưa họ ra khỏi Long cung, lên mặt biển trở về nước.
Bấy
giờ sứ giả về kể lại, nhà vua nghe câu chuyện rất hoan hỷ. Cho người
tìm mời Thánh giả Đại An đến để xếp đặt thứ tự của kinh.
Không ai
có thể biết nguồn gốc của Đại An, hình dáng và phục sức của ông hết sức
kỳ lạ. Chỗ của ông thường ở nơi chợ búa, thường đánh chén đồng mà hát
ca lên tiếng “Đại an, đại an”, vì vậy mà ông có hiệu ấy.
Vua cho sứ mời ông vào cung, ông nói: “Hãy đem kinh đến đây, tôi không muốn vào nước có cung vua”.
Ông
được kinh, liền xếp thành tám phẩm, đều hợp với ý Phật. Ông nói: Đem
mau cho Nguyên Hiểu giảng, còn người khác thì không được.
Nguyên
Hiểu nhận kinh nầy, chính tại quê mình là Tương Châu, liền bảo sứ giả
rằng: Kinh này lấy hai giác là bản giác và thỉ giác làm chủ trương, hãy
vì ta mà chuẩn bị xe trâu một sừng, đem bàn đặt giữa hai sừng để bút
nghiên lên. Trước sau trên xe trâu, liền viết sớ thành năm cuốn. Ngay
ngày đó, vua mời Nguyên Hiểu giảng ở chùa Hoằng Long.
Bấy giờ, có
một người xấu trộm mất bản sớ mới làm, liền đem việc ấy trình vua, vua
cho trễ ba ngày, nên chép lại thành ba cuốn, gọi là lược sớ.
Đúng
lúc vua, quan, đạo tục, nhóm đầy cả pháp đường, Nguyên Hiểu bước lên
pháp tòa, tuyên giảng đúng cách, giải nghĩa có thể lặp lại rõ ràng.
Tiếng ca ngợi vang dậy trời đất. Nguyên Hiểu nói: “Ngày xưa, tuy chọn
trăm cột, tôi không dự vào, nay đặt một đòn dông, thì tôi lại có thể”.
Bấy giờ, những bậc danh đức khiêm mình, tự sám hối.
Ngày xưa,
Nguyên Hiểu bày tích mất bình thường, dạy người không nhất định, có khi
liệng mâm mà cứu người, phun nước mà dẹp cháy, tàng hình ấn hiện nhiều
chỗ, hoặc có khi ở trong sáu phương giả chết, cũng là dòng họ của Bôi
Độ, Chí Công.
Còn việc ông giải thích tánh nghĩa, xem vào không
chỗ nào là không rõ. Sớ có hai bản quảng và lược, đều lưu hành ở nước ấy
(Triều Tiên). Bản lược lưu nhập vào Trung Hoa, sau có phiên kinh tam
tạng cải làm luận”(Tống cao tăng truyện 4, Đại chính 2061.50.
730a6-b29).
Đọc Tống cao tăng truyện của Tán Ninh viết vào khoảng
giữa những năm 982-988, ta thấy được những gì giữa kinh Kim cang tam
muội và Nguyên Hiểu?
Trước hết, Tống cao tăng truyện cho ta biết
rằng, bản kinh Kim cang tam muội do Nguyên Hiểu sớ luận là một bản kinh
được tàng trữ từ Long cung và sắp xếp thứ tự tám chương như đang có hiện
nay là do Thánh giả Đại An. Và Tống cao tăng truyện cũng cho ta biết
rằng, Đại An và Nguyên Hiểu xuất hiện cùng thời với Ngài Huyền Trang mở
trường dịch kinh vào đời Đường, ở thế kỷ thứ bảy.
Tuy nhiên, Tán
Ninh ở Tống cao tăng truyện cũng không cho ta biết thêm gì về kinh Kim
cang tam muội do Long vương Khâm Hải trao cho sứ thần của vua Tân La
(Triều Tiên) là bằng văn bản Phạn hay Hán hoặc bằng ngôn ngữ của Tân La?
Và nếu là bản Hán thì do ai dịch và vì lý do gì không lưu thông mà phải
tàng trữ tại Long cung cho đến khi gặp sứ thần của nước Tân La mới trao
mà còn sợ đi đường bị việc quỉ chiếm đoạt?
Lại nữa, Tống cao
tăng truyện cũng cho ta biết giữa Thánh giả Đại An và Pháp sư Nguyên
Hiểu có liên hệ chặc chẽ với bản kinh Kim cang tam muội về sư sắp xếp và
chú giải qua lời giới thiệu của Long vương Khấm Hải từ Long cung.
Không
những vậy, kinh Kim cang tam muội còn là pháp dược chữa lành cơn bệnh
hiểm nghèo u não của phu nhân vua Tân La bấy giờ, chỉ đơn giản do Thánh
giả Đại An sắp xếp lại nội dung bố cục của kinh và Pháp sư Nguyên Hiểu
viết sớ giảng giải, lưu bố kinh nầy là bệnh kia lành.
Tống cao
tăng truyện nói rằng, việc sắp xếp nội dung kinh Kim cang tam muội của
Thánh giả Đại An rất hợp với ý của Phật. Còn Nguyên Hiểu khi nhận kinh
nầy để sớ giảng ông liền buộc miệng nói: “Kinh nầy lấy hai giác là bản
giác và thỉ giác làm chủ trương, thì hãy vì ta mà chuẩn bị cổ xe một
sừng và hãy đem bàn đặt giữa hai sừng để bút nghiên lên”.
Những
thông tin về Thánh giả Đại An và Nguyên Hiểu với kinh Kim cang tam muội
của Tống cao tăng truyện, đã giúp cho ta biết thêm về túc duyên đối với
phật pháp của hai vị nầy và nhất là đối với kinh Kim cang tam muội. Và
biết đâu Nguyên Hiểu là hóa thân của Vô trú Bồ tát ở trong phẩm Bản Giác
Lợi và Thánh giả Đại An là hóa thân của Đại lực Bồ tát ở trong phẩm
Nhập Thực Tế của kinh Kim cang tam muội nầy, và chỉ có thể như thế mới
có thể trả lời được câu hỏi, tại sao khi trao kinh Kim cang tam muội
nầy, Long vương Khâm Hải ở Long cung lại giới thiệu cho sứ thần của vua
nước Tân La (Triều Tiên), khi về nước phải tìm gặp hai vị nầy để yêu cầu
sắp xếp nội dung của kinh và sớ giải, mà không thể giao cho ai khác?
Có
người sẽ cho rằng, cách lý giải và để trả lời như vậy, không có tính
thuyết phục, vì nó mang tính chất huyền thoại hơn là khoa học. Nhưng ta
thử đặt lại câu hỏi một cách nghiêm túc rằng: Có khoa học nào không bắt
đầu từ huyền thoại? Không có huyền thoại sẽ không bao giờ có khoa học.
Huyền thoại nuôi dưỡng và phát triển khoa học và là chất xúc tác để cho
khoa học đầy năng lực nghiên cứu và sáng tạo. Vì sao? Vì cuộc sống là cả
một trường thiên diễn về huyền thoại hay chính nó là huyền thoại. Khoa
học không có huyền thoại thì làm sao khoa học có đủ khả năng nhận thức
và khám phá cuộc sống để phục vụ con người?
Ngoài bản Kim cang
tam muội kinh luận của Nguyên Hiểu ra, ta còn thấy có Kim cang tam muội
chú giải, bốn cuốn của Viên Trừng – Trạm Nhiên đời Minh. (Tục Tạng Kinh
35, số ký hiệu 065). Và Kim cang tam muội kinh thông tôn ký, 12 cuốn của
Sa môn Tịch Chấn, thuật, vào đời Thanh. (Tục Tạng kinh 35, số ký hiệu
652).
Đọc Khóa hư lục của vua Trần Thái Tông (1217-1277), ta
thấy Vua có viết bài tựa kinh Kim cang tam muội. Bản kinh Kim cang tam
muội do Vua chú giải đã bị thất lạc, nhưng bài tựa của kinh do Vua viết
vẫn còn giữ lại ở trong Khóa hư lục và đã được nhiều vị dịch ra Việt
văn.
Kinh Kim cang tam muội cũng đã trở thành đối tướng học hỏi
và nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu của các học giả cận đại và
hiện đại như Mizuno Kogen và Robert E. Buswell. Và những công trình
nghiên cứu ấy đã được công bố năm 1955 cho công trình của Mizuno Kogen
và năm 1989 cho công trình của Robert E. Buswell.
Và kinh Kim
cang tam muội cũng đã được Lê Mạnh Thát nghiên cứu và công bố trong Toàn
Tập Trần Thái Tông, do Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, năm 2004.
Và
như vậy, sự có mặt của kinh Kim cang tam muội ở trong tam tạng giáo
điển là một sự lý thú kỳ diệu. Kỳ diệu, vì nó vừa là hiện thực và vừa là
huyền thoại. Huyền thoại trong phiên dịch và hiện thực trong văn bản.
Hiện
thực, vì kinh Kim cang tam muội đã chỉ ra cho con người có nguyện lớn,
có chí lớn với những phương thức hành xử và ứng dụng pháp quán chiếu vô
trú một cách linh hoạt và sống động như kinh nói: “Này Bồ tát! Người như
vậy, không kẹt ở nơi hai tướng, tuy không xuất gia, nhưng không kẹt ở
tại gia; tuy không mặc pháp phục, không thọ trì đầy đủ giới pháp ba la
đề mộc xoa, không dự vào pháp bố tát, nhưng có thể sử dụng pháp tự tứ vô
vi nơi tự tâm mà chứng được thánh quả, không kẹt nhị thừa mà đi vào con
đường bồ tát, sau đó sẽ viên mãn các địa vị Bồ tát và thành tựu Bậc
giác ngộ hoàn toàn”. (Đại chính 9, tr 370b4).
Và huyền thoại, vì
chính khi nghe Phật dạy như vậy, Bồ tát Đại lực thưa: Người như vậy là
người không thể nghĩ bàn, họ không phải là người xuất gia mà cũng không
phải là không xuất gia. Vì sao? Vì họ đã vào nhà Niết bàn, mặc áo Như
lai, ngồi tòa Bồ đề, những người như vậy, cho đến những bậc Sa môn cũng
phải đảnh lễ cúng dường”. (Đại chính 9. tr 370b8).
Như vậy, kinh
Kim cang tam muội đối với đời sống giác ngộ, nó đã hiển thị khả tính
hiện thực trên cả hiện thực và khả tính huyền thoại trên cả huyền thoại
trong cùng một tánh thể giác ngộ mà tính thể ấy là siêu nhiên, bất hoại
và vốn có ngay nơi tất cả chúng sanh.
Vì kinh Kim cang tam muội
là kinh chuyển tải tuệ giác chứng nhập Như lai tạng, và từ Như lai tạng
mà hiện khởi đại nguyện, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, hiển thị cho
họ niềm tin tuyện đối với diệu pháp Nhất thừa là phải thực hành bồ tát
đạo, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh bằng hạnh nguyện vô tướng, vô
sanh từ bản giác.
Và chỉ có lợi hành từ bản giác, tức là từ tự
tánh giác ngộ, mới có khả năng chứng nhập thực tại toàn diện là thực tại
vô biên không có ngằn mé. Và mỗi khi đã hội nhập được với thực tại nầy,
thì có khả năng biện tài vô ngại. Nghĩa là có khả năng diễn đạt một
pháp môn thành vô lượng pháp môn và vô lượng pháp môn thành một pháp
môn; có khả năng thi thiết vô lượng phương tiện thiện xảo để giáo hóa
chúng sanh mà không rời đương xứ cứu cánh là bản giác, không rời thể
tính chân không tịch diệt.
Và chính vì vậy, hạnh nguyện ấy đã trở
thành vầng mây lành phủ khắp mọi không gian và thời gian, mưa những
trận mưa cam lồ làm cho hạt giống bồ đề vốn có nơi tất cả chúng sanh đều
được nứt mầm và trỗi dậy, cùng phát khởi đại nguyện lợi hành và đồng
nhập vào Như lai tạng, cùng thể chứng địa vị toàn giác, tức là Phật quả.
Vì
vậy, những vị đại sĩ sống và lợi hành hết thảy chúng sanh bằng tuệ giác
Kim cang tam muội, thì ngay nơi tướng, họ hành vô tướng, ngay nơi sanh,
họ hành vô sanh, ngay nơi hành, họ hành vô hành,… thì việc bản kinh Kim
cang tam muội nầy không có tên dịch giả là điều hết sức dễ hiểu.
Không
lưu lại tên mình nơi bản dịch, tự nó đã giới thiệu, hành vô tướng hành,
hành vô sanh hành, hành vô hành hành,… của bậc đại sĩ một cách hiện
thực. Nó hiện thực đến nỗi mọi tri thức thế gian, mọi ngôn ngữ học giả,
chỉ ước định được rằng, hoặc nó là thế nầy, hoặc nó là thế kia, đến nỗi
dẫn đến những tranh biện mang đầy những tri kiến của ngã tính, khiến cho
thực tại toàn diện bị họ banh vỡ từng mảnh vụn để kiếm tìm châu báu một
cách vô vọng.
Mỗi khi thực tại toàn diện, bị banh vỡ bởi tri
thức để khám nghiệm và kiếm tìm, thì nó không còn là nó nữa, nó tức khắc
trở thành huyền thoại mà muôn đời tri thức không bao giờ vén mặt tới
được. Nó đã trở thành “huyền chi hựu huyền”. Nghĩa là: Nó vốn “Đã huyền
mà lại thêm huyền” nữa vậy.
Ý Nghĩa Đề Kinh
Kinh
Kim cang tam muội, tiếng Phạn là वज्र्समाधिसूत्र = Vajrasamādhi-sūtra.
वज्र = Vajra là kim cang, một loại khoáng chất kiên cố, bất hoại. Tự
thân của kim cang là bất hoại, không có bất cứ vật gì làm nó hủy hoại,
nhưng nó có khả năng làm hủy hoại đối với tất cả. समाधि = Samādhi, Hán
phiên âm là tam ma địa, tam ma đề, tam ma đế và dịch là đẳng trì. Đẳng,
có nghĩa là lìa tâm hôn trầm và trạo cử; trì nghĩa là duy trì tâm ý vào
một đối tượng duy nhất. Đẳng trì là trạng thái của tâm ngưng tụ vào một
đối tượng duy nhất không tán loại, do đó mà tuệ giác cũng như sự an lạc
sinh khởi. Vì vậy, đẳng trì cũng còn gọi là đẳng dẫn hay đẳng chí. Đẳng
dẫn, nghĩa là từ đẳng trì mà dẫn sinh các công đức của thiền định, trí
tuệ, thần thông và từ bi. Và cũng từ đẳng trì mà có thể dẫn đến những
địa vị giác ngộ thù thắng. Samādhi còn dịch là tam muội, chánh định,
chánh thọ, chánh tâm hành xứ,…
Như vậy, Kim cang tam muội là
thiền định kim cang. Vậy, thiền định nầy là gì? Ma ha bát nhã ba la mật
kinh 3 nói: “Kim cang tam muội giúp cho người tu tập nhanh chóng chứng
được giác ngộ”. (Đại chính 8, tr 237c25 – 238a27). Kinh Đại bát Niết bàn
2, lại nói: “Chứng nhập Kim cang tam muội thì thấy được Phật tính”.
(Đại chính 12, tr 372b12). Bát nhã và Trí độ luận giải thích: - An trú ở
tam muội nầy, thì có khả năng phá thủng các tam muội khác. – Tam muội
nầy đối với các pháp đều thông đạt và khiến cho mỗi loại tam muội ấy đều
có tác dụng. - Tam muội nầy có khả năng phá sạch tất cả pháp, nhập vào
Niết bàn tuyệt đối. (Tham khảo Đại Trí Độ Luận 47, Đại chính 25, tr 396b
– 398c).
Sa môn Nguyên Hiểu, ở trong Kim cang tam muội kinh luận
1, cũng nói rằng: “Vì không có cái gì là không phá trừ, nên gọi là Kim
cang tam muội” (Đại chính 34, tr. 0962a).
Như vậy, Kim cang tam
muội kinh là kinh đức Phật dạy về thiền định Kim cang; dạy về thiền định
của Kim cang; dạy về thiền định như Kim cang; dạy về thiền định ở trong
Kim cang và Kim cang chính là Thiền định.
Nếu nói theo nghĩa của
dụ và pháp, thì ở trong đề kinh nầy nêu lên đủ cả hai nghĩa ấy. Kim
cang là dụ và tam muội là pháp. Pháp thiền định hay tam muội nêu lên
trong đề kinh chuyển tải có bảy nghĩa:
1- Pháp thiền định đức
Phật dạy ở trong kinh nầy ví như Kim cang. Kim cang có khả năng chặt đứt
và phá hoại đối với tất cả những khoáng vật khác, thì Thiền định đức
Phật dạy ở trong kinh nầy cũng vậy, nó có khả năng chặt đứt và phá hoại
hết thảy mọi hình tướng huyễn hóa của ngã và pháp để hiển thị vô tướng
của ngã và pháp hay là hiển thị pháp chân thực vô sanh. Như trong kinh
đức Phật nói: “Này thiện nam tử! Nếu dùng vô sanh mà hóa độ chúng sanh
nơi huyễn hóa, thì không có chúng sanh nào là không hóa độ, nên sự hóa
độ ấy rất lớn, khiến cho những chúng sanh ấy đều xa lìa được ngã và
pháp. Tất cả ngã và pháp xưa nay vốn rỗng lặng. Nếu đạt được tâm rỗng
lặng, thì tâm ấy không phải là huyễn hóa. Không huyễn, không hóa là được
vô sanh. Tâm vô sanh ngay nơi không huyễn hóa”. (Đại chính 9, tr.
366b14).
“Này Bồ tát! Tất cả tướng của tâm xưa nay không có nguồn
gốc, vốn rỗng lặng, vô sanh, không có nguồn gốc xứ sở. Nếu tâm vô sanh
là vào rỗng lặng. Cõi tâm rỗng lặng là đạt tâm không. Nầy thiện nam tử!
Tâm không có hình tướng, không có hình tướng của tâm, không có hình
tướng của ngã. Hình tướng của tất cả pháp cũng đều như vậy”(Đại chính 9,
tr. 366b20).
Như vậy, Kim cang tam muội là vô tướng, có khả năng
chặt đứt và đâm thủng mọi hình tướng của ngã và pháp, khiến cho tất cả
chúng sanh và những vị đang tu học trong giáo pháp nhị thừa đều chứng
nhập nhất vị hay thực tế. Nhất vị hay thực tế là chân lý giải thoát rôt
ráo tối hậu, mà đức Phật muốn chỉ bày cho hết thảy chúng sanh.
2-
Pháp thiền định đức Phật dạy ở trong kinh nầy, ví như Kim cang. Kim
cang có khả năng chặt đứt và phá hoại đối với tất cả những khoáng vật
khác, thì Thiền định đức Phật dạy ở trong kinh nầy cũng vậy, nó có khả
năng chặt đứt mọi vướng mắc đối với tất cả tánh và tướng của tâm, để
hiển thị tướng và tánh vô sanh của tâm. Như trong kinh đức Phật dạy:
“Tâm vô sanh, vô nhẫn là không có hình tướng. Ví như bản tính của lửa,
tuy ở trong gỗ, nhưng vì bản tánh quyết định của nó không có xứ sở, nên
chỉ có danh từ, tánh của nó không thể thủ đắc. Muốn giải thích lý của
nó, chỉ nêu lên danh xưng giả định. Tướng của danh xưng đã không thể thủ
đắc, thì tướng của tâm cũng vậy, không thấy xứ sở, biết tâm như thế là
tâm vô sanh.
Nầy thiện nam tử! Tánh và tướng của tâm ấy, lại như
quả A ma lặc, vốn không phải tự sanh, không sanh từ cái khác, không cọng
sanh, không sanh từ nhân, không phải vô sanh. Vì sao? Vì do duyên thay
đổi, duyên khởi không phải sanh, duyên hết chẳng phải diệt, ẩn hiện đều
vô tướng, lý tánh căn nguyên đều tịch diệt, không có xứ sở, không thấy
chỗ trú, do tính quyết định. Tính quyết định ấy, cũng không phải là đồng
nhất, không phải là dị biệt, không phải là gián đoạn, không phải là
thường hằng, không phải là nhập, không phải là xuất, không phải là sanh,
không phải là diệt, lìa xa bốn luận chứng, dứt bặt mọi ngôn ngữ. Tánh
của tâm vô sanh cũng lại như vậy”. (Đại chính 9, tr. 367c4).
Như
vậy, Kim cang tam muội là tướng và tánh của tâm vô sanh, có khả năng
chặt đứt và xuyên thủng tất cả tánh và tướng do tâm chấp thủ ngã và pháp
phơi bày, để đưa tánh và tướng của ngã và pháp trở lại với tự tướng, tự
tánh rỗng lặng và vốn tịch diệt ở nơi tự tâm vô sanh.
3- Pháp
Thiền định đức Phật dạy ở trong kinh nầy, ví như Kim cang. Kim cang có
khả năng chặt đứt tất cả những khoáng vật khác, thì thiền định đức Phật
dạy ở trong kinh nầy, là nhất giác, có khả năng chặt đứt tất cả vọng
giác của chúng sanh, để đưa họ hội nhập bản giác. Như trong kinh đức
Phật dạy: “Các Đấng Toàn Giác- Như Lai, thường sử dụng nhất giác mà
chuyển hóa các tình thức, nhập vào thức thanh tịnh. Vì sao? Vì bản giác
tất cả chúng sanh đều vốn có, nên thường sử dụng nhất giác, để giác ngộ
đối với các loại chúng sanh, khiến cho tất cả đều nhập được bản giác, để
giác ngộ được rằng, các tình thức đều là rỗng lặng vô sanh. Vì bản tánh
quyết định, vốn không hề có sự biến động”. (Đại chính 9, tr. 368b14).
Như
vậy, Kim cang tam muội là nhất giác có khả năng chặt đứt và xuyên thủng
tất cả các giác của hết thảy hữu tình, cũng như nhị thừa và đưa tất các
giác ấy hội nhập bản giác.
4- Pháp thiền định đức Phật dạy trong
kinh nầy, ví như Kim cang. Kim cang có khả năng chặt đứt tất cả những
khoáng vật khác, thì thiền định không mắc kẹt ở nơi không của kinh nầy
có khả năng chặt đứt mọi mắc kẹt và xuyên suốt các không, để hội nhập
thực tế là chân lý tối hậu của giải thoát và giác ngộ. Như trong kinh
đức Phật dạy: “Không mà không mắc kẹt nơi không; có mà không mắc kẹt nơi
có; không phải không hay không phải có. Pháp chẳng có, tức là không mắc
kẹt nơi không; tướng chẳng không, tức là không mắc kẹt nơi có. Không
thể sử dụng sự hiểu biết đối đãi giữa có và không, mà có thể hiển bày
được như lý.
Nầy Bồ tát! Mọi hình tướng của nghĩa đều không có
tên gọi, không thể nghĩ bàn. Vì tên gọi không phải là tên gọi, mà cũng
không phải không nơi tên gọi; nghĩa lý không phải là nghĩa lý, mà không
phải không nơi nghĩa lý. (Đại chính 9, tr. 369b19).
Như vậy, Kim
cang tam muội là không trú ở nơi không, có khả năng chặt đứt và xuyên
thủng, không những đối với chúng sanh tu tập mắc kẹt nơi hữu, mà còn mắc
kẹt nơi vô và ngay cả mọi danh và mọi nghĩa, để thể nhập thực tại chân
như. Thể nhập thực tại chân như là không mắc kẹt nơi tướng và tánh của
chân như. Người nào tu tập không mắc kẹt vào tướng và tánh ấy, là người
có khả năng hội nhập với bến bờ giác ngộ chân thực.
5- Pháp thiền
định đức Phật dạy ở trong kinh nầy, ví như Kim cang. Kim cang có khả
năng chặt đứt mọi khoáng vật, thì thiền định của kinh nầy là an trú nơi
không-nghĩa để chặt đứt và xuyên suốt các nghĩa, nhằm hiển thị đệ nhất
nghĩa là nghĩa lý như như của vạn hữu. Như trong kinh đức Phật dạy cho
Tôn giả Xá lợi phất rằng: “Ta thuyết pháp là do vì Tôn giả và chúng sanh
ở trong sanh tử mà thuyết. Thuyết pháp mà không thể thuyết, đó mới gọi
là thuyết pháp. Ý nghĩa và lới nói được ta thuyết không phải là văn.
Ngôn ngữ và văn tự chúng sanh nói không phải là nghĩa. Ngôn ngữ không
phải là nghĩa, vì nó đều là hư vô, trống rỗng. Ngôn ngữ của hư vô, trống
rỗng là ngôn ngữ không có nơi nghĩa. Ngôn ngữ không có nơi nghĩa đều là
ngôn ngữ hư dối.
Ngôn ngữ nơi nghĩa chân như là như-thực-không,
chứ không phải trống không. Như-thực-không mà chẳng phải thực, vì nó lìa
hẳn hai tướng đối đãi. Trung đạo mà không phải ở giữa. Pháp không phải
là ở giữa, vì nó lìa hẳn cả ba tướng (bên nầy, bên kia và ở giữa), không
thấy có xứ sở. Nói Như và Như-như, như ấy không phải là hữu hay vô,
không phải là hữu đối đãi với vô. Như không phải là vô hay hữu, hay hữu
không phải là hữu, mà như ấy không ở nơi hữu hay vô gì cả. Vì vậy,
thuyết mà không thuyết gì cả. Ngôn thuyết không ở nơi chân như, chân như
không hiện hữu ở nơi chân như, nên mới gọi là chân như”. (Đại chính 9,
tr. 371a13).
Như vậy, Không-nghĩa là Kim cang tam muội của kinh
nầy, nó có khả năng chặt đứt và xuyên thủng mọi nghĩa được biểu hiện từ
tâm chấp ngã và pháp, để đưa mọi ý nghĩa ấy hội nhập vào đệ nhất nghĩa.
Đệ nhất nghĩa là tánh chân thực của không, là thể tính Niết bàn tịch
tịnh chân thực.
6- Pháp thiền định đức Phật dạy trong kinh nầy,
ví như Kim cang. Kim cang có khả năng chặt đứt và đâm thủng các khoáng
vật, thì Thiền định về ba hành và ba không ở trong kinh nầy có khả năng
chặt đứt và đâm thủng các hành và các không, thâu nhiếp hết thảy pháp
môn vào ở nơi ba hành và ba không nầy, khiến cho tất cả đều hội nhập Như
lai tạng. Như đức Phật dạy cho Trưởng giả Phạm hạnh rằng: “Nầy Trưởng
giả! An trú nơi Phật đạo duy nhất là chứng được ba hành. Ba hành là: 1-
Tùy sự thủ hành: Hành thủ chứng là do tùy thuận sự tướng. 2- Tùy thức
hành: Hành thủ chứng là do tùy thuận các thức. 3- Tùy như thủ hành: Hành
thủ chứng là do tùy thuận chân như”.
Nầy Trưởng giả! Ba hành như
vậy, là thâu nhiếp hết thảy pháp môn. Hết thảy pháp môn đều hội nhập
vào ba hành nầy. Người nào chứng nhập ba hành nầy, người ấy ở nơi tướng
rỗng lặng không sinh khởi. Người nào chứng nhập được như vậy, có thể bảo
rằng người ấy, chứng nhập kho tàng của Như lai. Người nào chứng nhập
kho tàng Như lai, người ấy chứng nhập mà không chứng nhập gì cả (Đại
chính 9, tr. 372a1).
Ngoài ba hành, đức Phật còn dạy cho Trưởng
giả Phạm hạnh về tứ trí và những tác dụng lớn lao của nó, không những về
mặt tu chứng, mà còn về mặt hóa độ chúng sanh nữa (Đại chính 9, tr.
372a9-12). Và, Ngài còn dạy thực hành Tam tam muội là có đại dụng trong
và ngoài không xâm đoạt lẫn nhau. Tam tam muội gồm: - Không tam muội:
Thiền định ở nơi không. – Vô tướng tam muội: Thiền định ở nơi vô tướng. –
Vô tác tam muội: Thiền định ở nơi vô tác (Đại chính 9, tr. 372a14- 21).
Như
vậy, ba hành và tam tam muội là Kim cang tam muội của kinh nầy, nó có
khả năng chặt đứt và xuyên suốt các hành và các tam muội khác, khiến cho
người hành trì có khả năng chặt đứt sự vướng mắc đối với các hành và
các tam muội, mà hội nhập Như lai tạng, nhất vị, nhất thừa hay nhất Phật
đạo.
7- Pháp thiền định đức Phật dạy ở trong kinh Kim cang tam
muội nầy, không đơn thuần chỉ là định mà còn là tuệ. Không đơn thuần là
trí mà còn là cảnh. Chính định ấy là trí và chính trí ấy là cảnh. Cảnh
của trí là tịnh độ. Cảnh và trí không hai.
Trí tuệ tóm lược có
bốn: - Trí quyết định: Nghĩa là trí ấy tùy thuận theo chân như. – Trí
không nhất định: Nghĩa là trí phương tiện, sử dụng để phá trừ các bệnh
cố chấp. – Trí Niết-bàn: Nghĩa là trí tuệ loại trừ cái biết thoáng chốc
đối với lằn mức chân thực. – Trí tuyệt đối: Nghĩa là trí tuệ chứng nhập
Phật đạo toàn vẹn, như thực (Đại chính 9, tr. 372a9).
Trong bốn
trí ấy, trí tuyệt đối là trí Kim cang tam muội, có khả năng chặt đứt và
xuyên suốt các trí để hội nhập nhất trí là Phật trí. Phật trí là do ở
trong Kim cang tam muội quán chiếu mà sinh khởi. Nên, Bồ tát Địa tạng
thưa đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Biết có, nhưng không phải là
thực, vì chúng như sóng nắng. Biết thực, nhưng không phải là không, vì
chúng như tánh lửa sinh. Người nào quán chiếu được như vậy là người có
trí tuệ.
Đức Phật dạy, đúng như vậy. Vì sao? Vì người ấy là người
có sự quán chiếu chân thực. Quán chiếu tướng và không phải tướng, đều
là nhất như, bình đẳng, vắng lặng. Vì rỗng lặng chấp thủ nơi không và do
tu pháp-không, nên thấy được Phật. Do thấy được Phật, nên không chảy
theo ba dòng. Ba con đường giải thoát ở trong Đại thừa, đều nhất thể
không có tự tánh. Vì không có tự tánh, nên không; vì không, nên vô
tướng; vì vô tướng, nên vô tác; vì vô tác, nên vô cầu; vì vô cầu, nên vô
nguyện; vì vô nguyện, nên biết rõ nghiệp, cần phải tịnh tâm; vì tâm
thanh tịnh, nên thấy được Phật; do thấy được Phật, liền sanh tịnh độ”.
(Đại chính 9, tr. 373b19).
Như vậy, tuyệt đối trí là trí của Kim
cang tam muội. Trí ấy do tu tập pháp-không của Kim cang tam muội mà
thành tựu và thành tựu trí ấy là thấy pháp thân của Phật và hội nhập
tịnh độ của các Ngài. Trí ấy là trí xuyên suốt với cảnh. Trí và cảnh
nhất như. Trí và cảnh ấy là trí và cảnh của Kim cang tam muội. Tam muội
là trí, Kim cang là cảnh. Trí và cảnh là một. Trí tịnh nên cảnh tịnh.
Trí và cảnh như vậy là trí cảnh của tịnh độ.
Ý nghĩa trí và cảnh
nhất như, thanh tịnh nầy, ở trong kinh Đại bát nhã, đức Phật đã nói với
Tôn giả Thiện-hiện như sau: “Này Thiện-hiện! Vì tất cả trí ở nơi trí
thanh tịnh, nên thanh tịnh là sự rỗng lặng ở bên trong. Do thanh tịnh là
sự rỗng lặng ở bên trong, nên thanh tịnh ở nơi pháp thiền định, không
còn hai loại phân biệt và vô phân biệt, vì hai loại ấy đã bị đoạn tận.
(Nan tín giải phẩm, Đại bát nhã kinh, cuốn 261, Đại chính 6, tr.
319c12).
Do đó, trí và cảnh thanh tịnh, nhất như là một trong những ý nghĩa rốt ráo của tên kinh Kim cang tam muội nầy.
Và
như vậy, đề kinh Kim cang tam muội tóm lược có bảy nghĩa chính như đã
trình bày ở trên. Kim cang tam muội là vậy, nên ở kinh Đại bát Niết-bàn,
Đức Phật dạy: “Nầy Bồ tát đại sĩ! Người tu tập Đại Niết-bàn được Kim
cang tam muội, an trú ở trong tam muội ấy, thì có thể phá tan tất cả
pháp”. (Niết Bàn Kinh 24, Đại chính 12, tr. 509b).
Kinh Kim cang
tam muội còn có tên là Bất khả tư nghị, quá khứ chư Phật chi sở hộ niệm,
năng nhập Như lai nhất thiết trí hải. Nghĩa là tên gọi của kinh nầy là
Không thể nghĩ bàn, được sự hộ niệm của chư Phật quá khứ, có khả năng
chứng nhập biển trí tuệ toàn giác của Như lai.
Sở dĩ, kinh có tên
như vậy, vì pháp được trình bày ở trong kinh nầy là nắm giữ toàn bộ hết
kinh pháp, là thâu nhiếp tinh yếu của tất cả kinh, là tông chỉ của pháp
ở nơi pháp của các kinh. Vì vậy, tên kinh còn gọi là Nhiếp Đại thừa
kinh, hoặc còn gọi là Vô lượng nghĩa tông. (Đại chính 9, tr. 374a24).
Kinh
nầy gọi là Nhiếp đại thừa kinh, vì từ nơi bản giác mà phát khởi hạnh
nguyện và ngay nơi tục đế cũng như chơn đế mà khới nhập nhất thừa hay
nhất vị. Sa môn Nguyên Hiểu giải thích ở trong Kim cang tam muội kinh
luận 1, rằng: “Không có chỗ nào là không thiết lập, nên gọi là Nhiếp đại
thừa kinh”. (Đại chính 34, tr. 0961a).
Kinh nầy gọi là Vô lượng
nghĩa tông, vì tông chỉ của kinh nầy là Nhất vị vô sở đắc, nhưng không
phải là không đắc. Do từ tông chỉ đó mà các pháp môn được khai triển
thành Nghĩa tông vô lượng. Cũng ở trong Kim cang tam muội kinh luận 1,
Sa môn Nguyên Hiểu đã giải thích “Tất cả tông nghĩa không ra ngoài hai,
nên gọi là Vô lượng nghĩa tông”. (Đại chính 34, tr. 0961a).
- Tông yếu:
Theo Sa môn Nguyên Hiểu, tông yếu của kinh này có hai loại gồm là hợp và khai.
Đối với hợp, kinh này lấy Nhất vị làm chủ yếu để thực hành thiền quán, nên Nhất vị quán hạnh là tông của kinh này.
Đối
với khai, kinh lấy Thập trùng pháp môn làm tông. Trong Thập trùng pháp
môn ấy, mỗi pháp môn đều bao gồm cả chín pháp môn còn lại. Vì vậy, mười
mà một; một mà mười. Một không ra ngoài mười, mười không ra ngoài một.
Nghĩa là mười trùng pháp môn không ra ngoài nhất quán hạnh, vì trong
nhất quán hạnh có chín hạnh quán kia. Vì vậy, Nguyên Hiểu giải thích,
tông yếu của kinh này, khai không thêm một, hợp không giảm mười, nên
“bất tăng bất giảm” là tông yếu của kinh này vậy. (Đại chính 34, tr
0961a22).
Trong Kim cang tam muội kinh tự, được giữ lại ở trong
Khóa hư lục, vua Trần Thái Tông (1218 – 1277), đã viết tông yếu của kinh
này như sau: “Trẫm nghe, bản tánh ngưng huyền, chân tâm trong lặng,
tròn khuyết đều dứt, không phải trí của tánh lấy đâu xét tỏ ngọn nguồn,
hợp tan dứt bặt, chỗ mắt tai đâu thể dự phần ảnh hưởng. Có, không xóa
sạch, đạo tục san bằng. Ngang nhiên một mình tồn tại, nghiễm nhiên siêu
việt không ngoài. Đó là dòng tông yếu của tự tánh kim cang vậy” (Khóa Hư
Lục, Việt Nam Phật Điển Tùng San, 1942).
Theo Viên Trừng – Trạm
Nhiên (1561 – 1626), kinh này lấy “chân không thực tướng” làm tông. (Tục
Tạng Kinh 35, tr 0217a). Và theo Nhân Sơn – Tịch Chấn, đời Thanh (1644 –
1912), kinh này lấy bản giác và thỉ giác làm tông. Thực tướng vô tướng
làm thể. Tông thông và Thuyết làm dụng. Dụng và thể bày phơi hỗ trợ
nhau. (Kim cang tam muội kinh thông tông ký,Tục Tạng Kinh 35, tr
257c13).
- Giáo Học:
Trong cuộc đời hoằng pháp, Đức Phật luôn
luôn căn cứ vào Tứ tất đàn để thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, đúng lý,
đúng cơ và đúng thời, để giúp chúng sanh chuyển hóa khổ đau, sống đời
giải thoát; chuyển hóa mê lầm sống đời giác ngộ, đúng với nghĩa lý rốt
ráo của Đệ nhất nghĩa tất đàn.
Tứ tất đàn gồm: – Thế giới tất đàn. – Các các vị nhân tất đàn. – Đối trị tất đàn. – Đệ nhất nghĩa tất đàn.
-
Thế giới tất đàn: Đức Phật thành tựu đối với thế giới là do Ngài tùy
thuận theo các pháp thế gian để giảng dạy giáo pháp do tự thân Ngài
chứng ngộ. Chẳng hạn, thế gian là vô thường, thì Ngài nói là vô thường
và Ngài đã sử dụng những ngôn ngữ của thế gian để diễn tả về tính chất
vô thường ấy, đối với các pháp thuộc về thế gian như năm uẩn, mười hai
xứ, mười tám giới, khổ đế, tập đế,… Và chính nơi những pháp thế gian ấy,
Đức Phật lại chỉ rõ nhân duyên sinh khởi của chúng và bản thể không
sinh diệt của chúng, khiến cho những người trong thế gian, khi nghe Phật
pháp liền sinh khởi được chánh kiến, chánh trí và sinh ra hỷ lạc giải
thoát.
Như vậy, hoằng pháp bằng phương pháp Thế giới tất đàn, Đức
Phật thuyết pháp không phải chỉ đúng cơ, đúng thời mà còn đúng lý, đem
lại niềm vui chính đáng và hướng thượng cho thế gian nữa. Vì vậy, Thế
giới tất đàn còn gọi là Lạc dục tất đàn.
- Vị nhân tất đàn hay
còn gọi là Các các vị nhân tất đàn: Đức Phật thuyết pháp, giáo hóa thành
tựu là do Ngài trình bày pháp một cách thực tiễn và có thể ứng dụng đối
với từng căn cơ, trình độ và hoàn cảnh của mọi người. Đối với căn cơ
của người nghe như thế nào, thì Ngài trình bày pháp như thế ấy, để cho
người nghe có thể phát khởi niềm tin đối với chánh pháp và thực hành
theo pháp, khiến cho họ khởi sanh được chánh kiến, chánh trí và sinh ra
hỷ lạc.
Như vậy, hoằng pháp bằng phương pháp Vị nhân tất đàn, Đức
Phật thuyết pháp không phải chỉ đúng cơ, đúng thời mà còn đúng lý, có
khả năng phát khởi và nuôi lớn thiện căn nơi người nghe, khiến cho họ có
thể tu tập tiến tới thành tựu các thiện pháp tối hậu nữa. Vì vậy, Vị
nhân tất đàn còn gọi là Sanh thiện tất đàn.
- Đối trị tất đàn:
Đối trị tất đàn có nghĩa là chuyển hóa thành tựu. Pháp Đức Phật dạy,
nhằm nhắm tới chuyển hóa những phiền não nơi tâm chúng sanh. Những chúng
sanh sống nặng về tham dục, thì Ngài dạy quán chiếu về sự bất tịnh của
các dục, hay là những nguy hiểm do các dục đem lại, hoặc Ngài dạy về
những tính chất hư ảo của các dục,… khiến cho người kia hiểu rõ tác nhân
và khổ quả của nó, nhằm hướng tới đời sống ly dục tịch tịnh của Niết
bàn. Nếu đối với những chúng sanh tâm đầy sân hận, thì Đức Phật thuyết
pháp cho họ nghe về những tai hại do lòng sân hận đem lại, hoặc lợi ích
do tâm không sân hận đem lại và hướng dẫn cho họ thực hành quán chiếu từ
bi. Hoặc có những chúng sanh tâm nặng về si mê, tà kiến, thì Đức Phật
dạy cho họ giáo lý duyên khởi và thực tập quán chiếu sâu sắc đối với
giáo lý ấy, khiến họ đoạn trừ tâm ngu si, nhằm sinh khởi chánh kiến và
chánh trí,… Nghĩa là căn cơ của chúng sanh có nhiều loại phiền não trói
buộc, thì Đức Phật sẽ vì họ mà trình bày nhiều phương pháp đối trị và
chuyển hóa, khiến cho họ sinh khởi đời sống của chánh trí và chánh giải
thoát.
Như vậy, hoằng pháp bằng phương pháp Đối trị tất đàn, Đức
Phật đã tùy theo căn cơ của từng người, của từng loại chúng sanh, từng
cấp độ tu tập, để dạy cho họ những phương pháp đối trị và chuyển hóa
phiền não thô hoặc tế, nhằm đạt tới lý chân thực, nên pháp được Đức Phật
dạy có nội dung Đối trị tất đàn, không những chỉ có khế cơ, khế thời mà
còn cả khế lý nữa. Nhờ ở trong Đối trị tất đàn, Đức Phật dạy pháp
chuyển tải đầy đủ cả ba mặt như vậy, khiến cho người biết tu tập có khả
năng đoạn trừ được các lậu hoặc ở trong sanh tử, nên Đối trị tất đàn
cũng còn gọi là Đoạn ác tất đàn.
- Đệ nhất nghĩa tất đàn: Nghĩa
là sự thành tựu tuyết đối. Đức Phật thuyết pháp bằng Thế giới tất đàn,
Vị nhân tất đàn, Đối trị tất đàn với mục tiêu cuối cùng là để hiển thị
Đệ nhất nghĩa tất đàn. Nghĩa là hiển thị chân lý tuyệt đối mà Ngài muốn
giảng dạy cho chúng sanh. Chân lý tuyệt đối mà Đức Phật muốn giảng dạy
cho chúng sanh là gì? Đó là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có
khả năng thành Phật. Muốn thành Phật, thì phải chứng nhập Phật tánh.
Muốn chứng nhập Phật tánh, thì phải từ nơi tâm bồ đề hay từ bản giác mà
phát khởi đại nguyện lợi hành, giáo hóa hết thảy chúng sanh bằng những
hạnh vô tướng,… khiến cho tất cả chúng sanh đều nhập vào lý tánh tuyệt
đối. Nên, Đệ nhất nghĩa tất đàn còn gọi là Nhập lý tất đàn.
Đối
với Tứ tất đàn này, ngài Long Thọ nói: “Trong Tứ tất đàn đã thâu nhiếp
hết thảy mười hai thể loại của kinh và tám vạn bốn ngàn pháp tạng đều là
thực, mà hoàn toàn không có gì mâu thuẫn nhau. Trong phật pháp hết thảy
đều là thực. Có pháp thực, vì theo nghĩa của Thế giới tất đàn; có pháp
thực, vì theo nghĩa của Các các vị nhân tất đàn; có pháp thực, vì theo
nghĩa của Đối trị tất đàn và có pháp thực, vì theo nghĩa của Đệ nhất
nghĩa tất đàn” (Duyên Khởi Luận - Đại Trí Độ Luận 1, Đại chính 25.).
Như
vậy, mỗi thời Đức Phật thuyết pháp, thì ngay trong pháp được thuyết bởi
Ngài đều chuyển tải đủ cả Tứ tất đàn. Ba tất đàn trước là phương tiện
và tất đàn sau cùng là cứu cánh. Cứu cánh không rời phương tiện, cứu
cánh có mặt ngay nơi những phương tiện mà Đức Phật đang sử dụng để
thuyết pháp. Nghĩa là trong khi Đức Phật thuyết pháp, Ngài đang sử dụng
những phương tiện của thế gian để ngôn thuyết, và sử dụng những pháp
đang hiện hữu ở trong thế gian để chỉ bày, thì những phương tiện ấy,
không phải là những phương tiện đơn thuần mà những phương tiện có nội
dung và có tác dụng hiển thị lý tính, tức là hiển thị Đệ nhất nghĩa tất
đàn.
Đặc biệt ở trong giáo học kinh Kim cang tam muội này, mỗi
phần pháp thoại ngắn của Đức Phật dạy cho thính chúng hay cho người hỏi,
đều hàm chứa đầy đủ phương pháp thuyết giáo theo Tứ tất đàn này. Và đặc
biệt hơn nữa, là ngay nơi Thế giới tất đàn, Ngài hiển thị ngay Đệ nhất
nghĩa tất đàn; ngay nơi Vị nhân tất đàn, Ngài hiển thị ngay Đệ nhất
nghĩa tất đàn; ngay nơi Đối trị tất đàn, Ngài hiển thị ngay Đệ nhất
nghĩa tất đàn và ngay nơi Đệ nhất nghĩa tất đàn, Ngài lại hiển thị ngay
nghĩa rốt ráo tột cùng của pháp thoại.
Chẳng hạn, ở phẩm Vô tướng
pháp của kinh này, Bồ tát Giải thoát đã hỏi Đức Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn! Tất cả chúng sanh, nếu cho rằng có tướng của ngã, có tướng của
tâm, thì sử dụng pháp gì để giác ngộ cho họ, khiến cho họ ra khỏi những
sự trói buộc ấy?”.
Đức Phật dạy: “Này thiện nam tử! Nếu có người
nào cho rằng có ngã, thì hãy hướng dẫn cho họ quán chiếu mười nhân
duyên. Mười nhân duyên vốn từ nơi nhân quả. Từ những chủng tử vận hành
nơi tâm mà nhân quả được hưng khởi. Tâm còn không có thực, nữa là thân.
Nếu
có người nào chấp hữu ngã, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi kiến
chấp hữu. Nếu có người nào chấp vô ngã, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng
ngay nơi kiến chấp vô. Nếu có người nào chấp tâm sanh, thì hướng dẫn cho
họ vắng lặng ngay nơi tự tánh tịch diệt. Nếu có người nào chấp sự tịch
diệt của tâm, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi bản tánh sanh.
Vắng lặng là thấy tánh, chính đó là hội nhập thực tế. Vì sao? Vì sanh
vốn không diệt; vì diệt vốn không sanh. Không diệt, không sanh; không
sanh, không diệt, hết thảy pháp cũng đều như vậy” (Đại chính 9, tr
366b23).
Trong bài pháp thoại này, Đức Phật dạy: “Nếu có người
nào cho rằng có ngã, thì hãy hướng dẫn cho họ quán chiếu mười nhân
duyên”. Phần pháp thoại này, Đức Phật dạy chứa đựng gồm: Vị nhân tất đàn
và đối trị tất đàn.
Ngài lại dạy tiếp: “Mười nhân duyên vốn từ
nơi nhân quả. Từ những chủng tử vận hành nơi tâm mà nhân quả được hưng
khởi”. Phần pháp thoại này, Đức Phật đã hiển thị lý tính của các pháp
duyên khởi nhân quả thuộc Thế giới tất đàn. Và chuyển Thế giới tất đàn,
Vị nhân tất đàn và Đối trị tất đàn thành Đệ nhất nghĩa tất đàn, nên Ngài
lại dạy tiếp: “Tâm còn không có thực, huống nữa là thân”. Đây là phần,
Đức Phật chuyển Thế giới tất đàn, Vị nhân tất đàn và Đối trị tất đàn
thành Đệ nhất nghĩa tất đàn.
Và phần pháp thoại tiếp theo, Đức
Phật dạy cho Bồ tát Giải thoát rằng: “Nếu có người nào chấp hữu ngã, thì
hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi kiến chấp hữu. Nếu có người nào
chấp vô ngã, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi kiến chấp vô. Nếu
có người chấp tâm sanh, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi tự tánh
tịch diệt. Nếu có người nào chấp sự tịch diệt của tâm, thì hướng dẫn cho
họ vắng lặng ngay nơi bản tánh sanh. Vắng lặng là thấy tánh, chính đó
là hội nhập thực tế…”.
Qua phần pháp thoại này, ta thấy rằng, Đức
Phật đã hiển thị Đệ nhất nghĩa tất đàn, ngay nơi Thế giới tất đàn, ngay
nơi Vị nhân tất đàn và ngay nơi Đối trị tất đàn. Chính đây là một trong
những điểm đặc biệt của giáo học kinh này.
Tông Thiên Thai của
Phật giáo Trung Hoa ở thế kỷ thứ sáu, đã chia giáo pháp Đức Phật thành
bốn giáo gồm: Tạng giáo, chỉ cho giáo lý Nguyên thủy hay Tiểu thừa;
Thông giáo là giáo lý bao gồm cả Tiểu thừa và Đại thừa; Biệt giáo là
giáo lý thuần Đại thừa và Viên giáo là giáo lý rốt ráo viên mãn mà bản
hoài Đức Phật muốn giảng dạy sau cùng.
Tông này đã phối hợp rằng,
Tứ thánh đế được Đức Phật trình bày ở trong Tạng giáo là Sanh diệt Tứ
đế, và nó thuộc về Thế giới tất đàn. Tứ thánh đế được Đức Phật trình bày
ở trong Thông giáo là Vô sanh Tứ đế, nó thuộc về Vị nhân tất đàn. Tứ
thánh đế được Đức Phật trình bày ở trong Biệt giáo là Vô lượng tứ đế, nó
thuộc về Đối trị tất đàn. Tứ thánh đế Đức Phật trình bày ở trong Viên
giáo là Vô tác tứ đế, nó thuộc về Đệ nhất nghĩa tất đàn (Tham khảo Phật
Quang Đại Từ Điển 2, 1758bc, 1759a).
Tông Thiên Thai đã phân định
giáo pháp của Đức Phật thành bốn loại Tạng, Thông, Biệt, Viên; đã phân
Tứ thánh đế thành bốn loại gồm: Sanh diệt tứ đế; Vô sanh tứ đế; Vô lượng
tứ đế; Vô tác tứ đế và phối hợp với bốn loại tất đàn như vậy, chỉ có
tính cách giáo khoa, chú giải hơn là sự thể nghiệm giáo lý tương tức mà
đức Phật đã dạy ở các kinh Bát nhã, Hoa nghiêm và ngay ở trong giáo học
của kinh Kim cang tam muội này.
Ngài Hiền Thủ (643 – 712), Tổ thứ
3, Tông Hoa Nghiêm của Phật giáo Trung Hoa cũng đã có phán định giáo
pháp Đức Phật thành năm giáo gồm: 1- Tiểu thừa giáo, giáo lý Phật giảng
dạy cho những vị có căn khí Tiểu thừa. 2- Đại thừa Thỉ giáo, còn gọi là
Quyền giáo, giáo lý Phật giảng dạy cho những vị mới phát tâm Đại thừa.
3- Đại thừa Chung giáo, còn gọi là Thực giáo, giáo pháp Phật giảng dạy
cho những vị phát tâm Đại thừa chân thực. 4- Đốn giáo, giáo pháp Phật
dạy thẳng cho những vị có căn khí Đại thừa không cần phải trải qua thứ
lớp. 5- Viên giáo, là giáo pháp Phật dạy rốt ráo viên mãn Phật địa (Hoa
Nghiêm Ngũ Giáo Chương 1. Phật Quang Đại Từ Điển 2, tr 1146a).
Ngài
Khuê Phong - Tông Mật (780 – 841), Tổ thứ 5 của Hoa Nghiêm Tông, cũng
phân giáo pháp Phật dạy thành năm giáo gồm: 1- Nhân thiên giáo, giáo lý
Phật dạy về nhân quả nghiệp báo thiện ác ba đời cho những vị tu tập Tứ
thiền, Bát định.. 2- Tiểu thừa giáo, giáo lý Phật dạy về lý ngã - không,
để thực tập trí quán vô ngã, đoạn trừ các nghiệp liên hệ đến các loại
căn bản phiền não như tham, sân, si…, chứng đắc ngã không - chân như. 3-
Đại thừa Pháp tướng giáo, tương đương với Thỉ giáo, là giáo lý Phật dạy
về lý sở biến của Duy thức. Tu tập các pháp Duy thức quán, Lục độ, Tứ
nhiếp để nhiếp phục, đoạn trừ hai loại chướng ngại do phiền não và sở
tri, chứng nhị không - chân như. 4- Đại thừa Phá tướng giáo, tương đương
với Không ở Thỉ giáo. Phật dạy về lý của hết thảy pháp đều rỗng lặng,
nhằm quán chiếu lý vô nghiệp, vô báo, vô tu, vô chứng, để phá trừ các
chấp cho rằng, các pháp là có tướng nhất định. 5- Nhất thừa hiển tánh
giáo, pháp Phật dạy dựa vào sự ẩn mật của phương tiện để chỉ thẳng tự
tâm, tức là chân tính của bản giác, xa lìa các chấp trước vọng tưởng,
thấy được trí tuệ rộng lớn của Như lai ngay ở trong tự thân (Hoa Nghiêm
Nguyên Nhân luận, quyển trung, Phật Quang Đại Từ Điển 2, tr 1146ab).
Với
sự phán giáo của các Tổ sư Tông Thiên Thai và Hoa Nghiêm như vậy, đã có
ảnh hưởng nhất định trong việc phân loại giáo pháp của Phật, của phần
nhiều các nhà chú giải Phật kinh về sau.
Vì vậy, Sa môn Tịch Chấn
cho rằng, kinh này thuộc giáo lý Nhất thừa Viên Đốn và là Tông chỉ chân
thực của chư Phật ( Tục Tạng 35, tr 254a3).
Lại nữa, trong phần
Huyền Đàm, Sa môn Tịch Chấn còn nói: “Xét rằng, giải thích kinh giáo của
Tông Thiên Thai, diễn giải huyền nghĩa theo năm lớp. Nghĩa do danh mà
hiển thể, do thể mà minh tông, dựa vào tông mà biện dụng, sau đó mới
phát minh giáo tướng. Hiền Thủ sớ giải kinh Hoa Nghiêm, trước hết mở bày
phân biệt mười môn. Những điều này là yếu chỉ của hai nhà lập giáo.
Nay, kinh Kim cang tam muội, nhiếp đủ nghĩa uyên áo của năm địa vị tu
chứng sau, ở trong mười địa vị Bồ tát của kinh Hoa Nghiêm. Nên, sẽ theo
cách phân biệt mười môn, để làm phân diễn tóm lược”. (Huyền Đàm, Kim
cang tam muội kinh thông tông ký 1, tr 255b1).
Và vì vậy, trong
Kim cang tam muội kinh tự, Vua Trần Thái Tông nói: “Từ đời Hán bắt đầu,
mở rộng tới nay: Thiên, Viên, Bán, Mãn, Nhất, không thiếu trong hòm
ngọc; Đốn, Tiệm, Thực, Quyền, Vạn, có thừa trong rương báu. Kinh Kim
cang tam muội, há không phải là loại giáo học Viên, Mãn, Đốn, Thực đó
sao?”. (Khóa Hư Lục, Việt Nam Phật Điển Tùng San, 1941).
Như vậy,
theo Vua Trần Thái Tông, giáo học trong kinh Kim cang tam muội, bao hàm
đủ các giáo học, như các Tông Thiên Thai và Hoa Nghiêm đã phân loại,
chứ không phải chỉ có một giáo loại.
Nghiên cứu kinh Kim cang tam
muội, ta thấy giáo học của kinh này là rút ra từ tinh hoa của các kinh,
và xuyên suốt các tinh hoa ấy thành Nhất thừa, Nhất giác, Nhất vị, Nhất
nhân, Nhất quả, Nhất tâm, Nhất cảnh, Nhất quán, Nhất hạnh, Nhất tướng,
Nhất tánh, Nhất thể, Nhất dụng, Nhất trí, Nhất lý,…
Vì vậy, giáo
học kinh Kim cang tam muội bao gồm hết thảy các giáo học. Nên, Vua Trần
Thái Tông nói: “Kinh Kim cang tam muội, há không phải là giáo lý Viên,
Mãn, Đốn, Thực đó sao?”.
Tuy nhiên, dù các Ngài lập giáo có phân
chia giáo pháp Đức Phật thành Tạng, Thông, Biệt, Viên hay Thỉ, Chung,
Viên, Đốn, hoặc Tiểu thừa, Đại thừa, Quyền giáo, Thực giáo,… thì tất cả
cũng đều mang một ý rất tương đối.
Tương đối là bởi vì tướng của
ngôn ngữ không phải là lý tánh của thực tại. Thực tại là vô hạn, không
có ngằn mé, trong lúc ngôn ngữ của thế gian, bị giới hạn trong những
ngôn âm, ngữ pháp và phương sở, nên nó vừa đủ để diễn tả những gì mang ý
nghĩa quy ước của thế gian, chứ không đủ khả năng để diễn tả thực tại
vô hạn, đúng như ở kinh này, Tôn giả Xá lợi phất đã thưa hỏi Đức Phật
rằng: “Tướng của ngôn ngữ, văn tự, chính nó không phải là nghĩa. Nghĩa
đúng như thực, thì không thể giảng nói. Nay, việc thuyết pháp của Như
lai là thế nào?”
Đức Phật dạy: “Ta thuyết pháp là vì do Tôn giả
và chúng sanh ở trong sanh tử mà thuyết. Thuyết pháp mà không thể
thuyết, đó mới gọi là thuyết pháp. Ý nghĩa và lời nói được ta thuyết
không phải là văn. Ngôn ngữ và văn tự của chúng sanh nói không phải là
nghĩa. Ngôn ngữ không phải là nghĩa, vì nó đều là hư vô, trống rỗng.
Ngôn ngữ của hư vô, trống rỗng là ngôn ngữ đều không có ở nơi nghĩa.
Ngôn ngữ không có nơi nghĩa là ngôn ngữ hư dối”. (Đại chính 9, tr
271a11).
Do đó, việc phán giáo của các Ngài là do dựa vào căn cơ
của người nghe, chứ không phải dựa vào giáo pháp của Phật. Giáo pháp của
Phật dạy chân thực chỉ có tác dụng diệt khổ và chỉ thuần một vị là giác
ngộ và giải thoát. Cũng như biển tuy lớn, nhưng nước biển chỉ thuần một
vị duy nhất là mặn.
Điều này, ở kinh Kim cang tam muội, đức Phật
đã dạy cho Trưởng giả Phạm Hạnh rằng: “Này Trưởng giả! Tất cả pháp vị,
cũng giống như những dòng chảy kia, tên gọi, số lượng, tuy có khác nhau,
nhưng nước của chúng thì không khác. Nếu an trú ở nơi biển lớn, thì bao
quát hết thảy sông ngòi. Cũng vậy, an trú nơi đệ nhất vị là thâu nhiếp
hết thảy các vị”. (Đại chính 9, tr 371c23).
Vì vậy, khi nghiên
cứu hay chú giải, ta xếp loại các kinh vào giáo học này hoặc giáo học
kia, nó chỉ có giá trị rất tương đối về mặt nghiên cứu, giáo trình, học
thuật mà hoàn toàn không nằm ở trong ý nghĩa đoạn trừ phiền não, đạt ngộ
hay giải thoát.
- Pháp Hành:
Nếu đọc kỹ kinh Kim cang tam
muội, ta thấy kinh đã đưa ra rất nhiều pháp hành để chứng nhập giác
tính. Kinh có tám phẩm và mỗi phẩm đều đưa ra nhiều pháp hành cho các
hành giả.
Ở phẩm tựa, Đức Phật đã nêu lên một pháp hành tổng quát
như sau: “Nếu người nào nghe kinh này, cho đến chỉ thọ trì một bài kệ
bốn câu, thì người ấy sẽ đi vào địa vị trí tuệ của bậc Toàn giác, có thể
sử dụng phương tiện để giáo hóa chúng sanh, vì tất cả chúng sanh mà làm
vị Đại tri thức”. (Đại chính 9, tr 366a8).
Thọ trì một bài kệ
bốn câu, bằng cách đọc, tụng, tư duy, quán chiếu để thâm nhập nghĩa lý
sâu xa của bài kệ và trú tâm vào nơi nghĩa lý ấy, khiến cho tâm thuần
nhất bất động, chứng nhập bản giác, không sinh, không diệt và từ bàn
giác rỗng lặng, không sinh, không diệt ấy mà phát khởi hạnh nguyện, vận
dụng vô số phương tiện thiện xảo để hóa độ chúng sanh và làm bậc Đại tri
thức cho tất cả chúng sanh.
Ở phẩm Vô tướng pháp, Đức Phật dạy
pháp quán vô tướng. Nghĩa là quán chiếu vô tướng của tâm để thể nhập tâm
không; quán chiếu vô tướng của ngã, để thể nhập ngã không; quán chiếu
vô tướng của pháp để thể nhập pháp không.
Như Đức Phật dạy: “Này
Bồ tát! Tất cả tướng của tâm, xưa nay không có nguồn gốc, vốn rỗng lặng,
vô sanh, không có nguồn gốc xứ sở. Nếu tâm vô sanh là rỗng lặng. Cõi
tâm rỗng lặng là chứng đạt tâm không.
Này thiện nam tử! Tâm không
có hình tướng. Không có hình tướng của tâm. Không có hình tướng của
ngã. Hình tướng của tất cả pháp cũng đều như vậy”. (Đại chính 9, tr
366b20).
Và nếu khởi hạnh nguyện hóa độ chúng sanh, thì cũng phải
quán chiếu hết thảy chúng sanh tướng đều là vô tướng, đều là tướng tịch
diệt, thì mới có thể giáo hóa khiến cho những chúng sanh kia xa lìa tâm
chấp ngã và pháp. Tất cả ngã và pháp xưa nay đều rỗng lặng. Như kinh
Đức Phật dạy: “Này thiện nam tử! Nếu hóa độ chúng sanh mà không thấy có
chúng sanh để hóa độ và không có chúng sanh nào là không hóa độ, thì sự
hóa độ ấy rất là lớn, khiến cho những chúng sanh ấy đều xa lìa ngã và
pháp. Tất cả ngã và pháp xưa nay đều rỗng lặng”. (Đại chính 9, tr
366b14).
Như vậy, pháp hành ở phẩm này, Đức Phật dạy bốn pháp
quán chiếu then chốt gồm: - Quán chiếu tướng của tâm là vô tướng. – Quán
chiếu tướng của ngã là rỗng lặng. Quán chiếu tướng của tất cả pháp là
tịch diệt. Quán chiếu tướng của hết thảy chúng sanh là vô tướng để khởi
hạnh nguyện giáo hóa.
Ở Phẩm Vô sanh hành, Đức Phật dạy pháp hành
vô sanh, ngay ở nơi Vô sanh pháp nhẫn. Quán chiếu để thấy rõ tánh vô
sanh ở nơi pháp và phi pháp; tánh vô sanh ở nơi tâm; tánh vô sanh ở nơi
tánh và tướng của tâm; tánh vô sanh ngay nơi các pháp duyên khởi; tánh
vô sanh ở nơi các tâm hành; tánh vô sanh ở nơi giác tánh; tánh vô sanh ở
nơi công dụng và vô công dụng; tánh vô sanh ở nơi chứng đắc và không
chứng đắc; tánh vô sanh ở nơi trú và vô trú; tánh vô sanh ở nơi thiền
định và trí tuệ,… Nghĩa là quán chiếu để thấy rõ bản thể của tất cả pháp
hiện hữu do đối đãi hay không đối đãi, tự tánh của nó đều vốn tịch
lặng, vô sanh. Vô sanh là Niết bàn. Niết bàn là sự tịch lặng ngay nơi tự
tánh của vạn hữu.
Ta hãy tịch lặng nơi tâm ta, thì giác tánh thanh tịnh và vô sanh nơi tâm tự hiển lộ. Đó là pháp hành chủ yếu của phẩm này.
Phẩm Bản giác lợi, Đức Phật dạy pháp lợi hành từ bản giác, với những pháp hành như sau:
-
Quán chiếu để thấy rõ bản giác và thỉ giác bất nhị. Nghĩa là thỉ giác
là từ nơi bản giác mà hiện khởi, nên ngoài bản giác không có thỉ giác.
Điều này, kinh đã nêu lên ví dụ, ví như người có mê muội, tay nắm tiền
vàng mà không có biết, chạy khắp mười phương trải qua năm mươi năm, bần
cùng khốn khổ, tìm cầu công việc để nuôi thân mà vẫn không đủ. Người cha
thấy con của mình cớ sự như vậy, liền bảo rằng: “Con nắm đồng tiền
vàng, sao không sử dụng? hãy nên tùy ý sử dụng, đều sẽ được đầy đủ.”.
Người
con tỉnh ra, biết được mình có tiền vàng, tâm rất vui mừng, liền bảo
rằng mình được tiền. Người cha liền bảo rằng: “Này con chớ có vui mừng,
tiền vàng mà con đang được đó, vốn là của con, không phải do con kiếm
được sao lại vui mừng?”.
Đức Phật dạy: “Tâm thức thanh tịnh cũng
lại như vậy, xưa không có tướng xuất, nay không có tướng nhập. Do xưa mê
mờ, chứ không phải không có; nay do giác ngộ, chứ không phải ngoài
vào”. (Đại chính 9, tr 369a1).
Như vậy, thực hành pháp quán chiếu này là phải thấy thỉ giác là từ bản giác. Nghĩa là thỉ giác và bản giác là bất nhị.
-
Quán chiếu để thấy rõ Tánh giác và Niết bàn là bất nhị: Tánh giác hay
Niết bàn không phải là đối tượng sở đắc, vì sao? Vì nó Như như bất động,
nó vốn hiện hữu như vậy là như vậy, không tăng, không giảm, không sanh,
không diệt, không khứ, không lai, không đồng nhất, không dị biệt, không
được, không mất,… Điều này, Đức Phật dạy như sau: “Tánh giác không
sanh, Niết bàn cũng không sanh; Tánh giác không diệt, Niết bàn cũng
không diệt, nên Niết bàn và Tánh giác không có khác nhau. Niết bàn không
thể chứng đắc, không thể chứng đắc Niết bàn. Vậy, lấy gì mà an trú Niết
bàn?”. (Đại chính 9, tr 368c24).
Như vậy, thực hành pháp quán
chiếu này, để thấy rõ Tánh giác hay tánh Niết bàn nơi mỗi chúng sanh
hay nơi các tình thức, nó có mặt một cách như nhiên và siêu việt.
-
Quán chiếu để chuyển hóa các tình thức vào thanh tịnh thức: Như Đức
Phật dạy: “Các Đấng Toàn giác thường sử dụng Nhất giác mà chuyển hóa các
tình thức nhập vào thức thanh tịnh”. (Đại chính 9, tr 368b14).
Quán
chiếu rằng: “Tính của các tình thức đều là rỗng lặng, vô sanh; tính của
các đối tượng cũng vốn rỗng lặng, vô sanh, như vậy các tình thức lấy
điều kiện nào mà sanh?”. (Đại chính 9, tr 368b19).
Vì vậy, Đức
Phật dạy: “Các Thức vốn thanh tịnh, không có xứ sở, không có biến động,
không có riêng biệt các duyên, tánh vốn rỗng lặng, tánh vốn không có
giác. Giác chính là giác”. (Đại chính 9, tr 368c6).
Như vậy, quán
chiếu sự rỗng lặng ở nơi các tình thức, để thể nhập bản giác và do thể
nhập bản giác, nên các thức uẩn hoàn toàn không sanh khởi.
Thức
thanh tịnh hay còn gọi là Yêm ma la thức trong pháp quán này, nó đồng
nghĩa với bản giác, tức là bản tánh giác ngộ thanh tịnh vốn có nơi tất
cả chúng sanh mà các thức uẩn chỉ là những vọng niệm, hay là những khách
trần bám víu bên ngoài, nó chỉ hiện hữu như huyễn, như mộng. Và, những
huyễn mộng ấy chỉ có thể bị quét sạch, khi mặt trời trí tuệ từ bản giác
xuất hiện.
Đó là những pháp hành chủ yếu của phẩm kinh này.
Phẩm nhập thực tế, Đức Phật dạy các pháp hành như sau:
-
Quán ngũ không: Quán chiếu ngũ không là quán chiếu đối với năm sự rỗng
lặng. Quán chiếu để thấy rõ, chúng rỗng lặng không mắc kẹt ở nơi sự rỗng
lặng và sự rỗng lặng không phải là tướng rỗng lặng; quán chiếu để thấy
rõ pháp là vô tướng, nhằm buông bỏ những ý niệm thủ và xả nơi tâm và nơi
pháp. Năm pháp quán chiếu ấy là:
1 – Tam hữu thị không: Nghĩa là quán chiếu để thấy tự tánh của ba cõi là rỗng lặng.
2 - Lục đạo ảnh thị không: Nghĩa là quán chiếu để thấy rõ ảnh tượng của chúng sanh trong sáu đường là rỗng lặng.
3 - Pháp tướng thị không: Nghĩa là quán chiếu để thấy rõ hành tướng của các pháp đều là rỗng lặng.
4 - Danh tướng thị không: Nghĩa là quán chiếu để thấy rõ, mọi hình tướng của tên gọi đều là rỗng lặng.
5 - Tâm thức nghĩa thị không: Nghĩa là quán chiếu để thấy rõ, ý nghĩa của tâm thức là rỗng lặng.
Do quán chiếu năm sự rỗng lặng ấy mà chứng nhập ba không như sau:
1 - Không tướng diệc không: Do quán chiếu năm sự rỗng lặng mà chứng nhập được tướng rỗng lặng cũng rỗng lặng.
2 - Không không diệc không: Do quán chiếu năm sự rỗng lặng mà chứng nhập được sự rỗng lặng ở nơi rỗng lặng cũng rỗng lặng.
3 - Sở không diệc không: Do quán chiếu năm sự rỗng lặng mà chứng nhập được sự rỗng lặng ở nơi đối tượng cũng rỗng lặng.
Do
quán chiếu năm sự rỗng lặng mà chứng nhập ba sự rỗng lặng này. Sự chứng
nhập này, gọi là chứng nhập địa vị không thủ xả. (Tham khảo Đại chính
9, tr 369b11).
Lại nữa, ở phẩm này, Đức Phật dạy pháp quán chân như duyên khởi như sau:
“Tất
cả tướng của pháp không sanh khởi từ nơi duyên mà tướng và tánh sanh
khởi từ chân như, nhưng chân như không bị động. Tánh và tướng từ nhân
duyên, tướng ấy vốn không có và rỗng lặng. Duyên thì ở nơi duyên; rỗng
lặng thì ở nơi rỗng lặng, không có sanh khởi theo duyên.
Tất cả
pháp do duyên là do tâm mê lầm mà vọng thấy, chứ hiện thực vốn không
phải sanh, vì duyên vốn không thực có. Lý của pháp chân như nơi tâm, tự
thể rỗng lặng, không có xứ sở”. (Đại chính 9, tr 370a3).
Như ở
phẩm này, Đức Phật nói: “Pháp thuộc chân như là vô tướng, rộng lớn như
hư không, hàng nhị thừa không thể nhận biết được. Cảnh giới hư không
trong và ngoài không thể đo lường. Bậc Đại sĩ sáu hạnh mới có thể nhận
biết.
Đức Phật dạy sáu hạnh gồm: 1 – Mười tín hạnh. 2 – Mười trú
hạnh. 3 – Mười hạnh hạnh. 4 – Mười hồi hướng hạnh. 5 – Mười địa hạnh. 6 –
Đẳng giác. Những vị ở trong các hạnh như vậy mới có thể nhận biết”.
(Đại chính 9, tr 370a10).
Lại nữa, ở phẩm này, Đức Phật dạy nhập thực tế bằng pháp hành “Tồn tam thủ nhất nhập Như lai thiền”.
Tồn tam là còn ba; thủ nhất là giữ một; nhập Như lai thiền là chứng nhập thiền định của Như lai.
Đức
Phật dạy, còn ba là còn ba giải thoát. Giữ một là giữ nhất tâm chân
như. Chứng nhập thiền định của Như lai là quán chiếu lý tính của tâm
chân như thanh tịnh. Chứng nhập cõi tâm như vậy là chứng nhập thực tế.
Ba
giải thoát gồm: – Hư không giải thoát. – Kim cang giải thoát. – Bát nhã
giải thoát. Quán chiếu lý tính là quán chiếu lý thanh tịnh chân như của
tâm, đều không thể không có tâm. (Đại chính 9, tr 370a25).
Lại nữa, đối với giới hành, Đức Phật dạy ở trong phẩm này cũng rất đặc biệt.
Ngài
dạy, đối với tồn dụng, thì tâm tánh và sự tướng không phải hai. Đối với
quán sát, thì nội hành và ngoại hành, xuất và nhập không phải hai.
Không vướng mắc một tướng, tâm không có được mất, một không phải một
địa, lưu nhập tâm thanh tịnh, đó gọi là quán sát.
Người quán sát
như vậy, không kẹt nơi hai tướng, tuy không xuất gia, nhưng không kẹt ở
tại gia; tuy không mặc pháp phục, không thọ trì đầy đủ giới ba la đề mộc
xoa, không dự vào pháp bố tát, nhưng có thể sử dụng pháp tự tứ vô vi ở
nơi tự tâm, mà chứng được thánh quả, không kẹt nhị thừa mà đi vào con
đường bồ tát, sau đó viên mãn các địa vị của bồ tát và thành tựu bậc
Giác ngộ hoàn toàn. (Đại chính 9, tr 370b2).
Việc thọ giới và đắc
giới ở nơi phẩm này cũng đặc biệt. Đức Phật dạy: “Này Bồ tát! Những bậc
nhân giả ấy, không mắc kẹt vào những pháp biến động hay không biến động
của thế gian, tâm của họ nhập vào ba tụ giới thanh tịnh rỗng lặng, diệt
trừ hết sạch pháp hữu lậu liên hệ ba cõi”.
Bồ tát Đại lực, thưa
với Đức Phật rằng: “Bậc nhân giả ấy, đối với Phật, quả đức đầy đủ; đối
với Phật ở nơi Như lai tạng; đối với Phật ở nơi các hình tượng, ở nơi
những chỗ của Phật như vậy, mà phát tâm bồ đề, chứng nhập ba tụ giới
thanh tịnh, không mắc kẹt nơi những hình thức của giới, tâm vắng bặt các
pháp hữu lậu liên hệ ba cõi”. (Đại chính 9, tr 370b27).
Những
pháp hành như vậy, là những pháp hành đưa hành giả từ thế giới của nhận
thức đối đãi hư vọng, quay về với nhất tâm chân như và chứng nhập hoàn
toàn với thực tại không có ngằn mé.
Phẩm Chân tánh không, Đức Phật dạy quán hạnh thuận với chân như để đầy đủ vạn hạnh qua các pháp hành như sau:
1-
Giới hành từ chân như: Đức Phật dạy: “An trú đúng ở nơi lý chân như,
ngăn cửa ngõ của sáu đường, tùy thuận với chân như ở nơi bốn duyên là
đầy đủ cả ba tụ tịnh giới”. (Đại chính 9, tr 370c23).
Tôn giả Xá lợi phất hỏi Đức Phật rằng: “Thế nào là thuận chân như ở nơi bốn duyên, đầy đủ cả ba tụ tịnh giới?”
Đức Phật dạy:
1.1– Tác trạch diệt lực thủ duyên: Duyên thủ đắc đối với giới là do năng lực tác pháp có chọn lựa. Đó là Nhiếp luật nghi giới.
1.2
– Bản lợi tịnh căn lực sở tập khởi duyên: Duyên được tập khởi do căn
lực thanh tịnh của lợi hành từ bản giác. Đó là Nhiếp thiện pháp giới.
1.3 – Bản tuệ đại bi lực duyên: Duyên vào năng lực đại bi của trí tuệ từ bản giác. Đó là Nhiếp chúng sanh giới.
1/4
– Nhất giác thông trí lực duyên: Duyên vào năng lực của trí thông với
nhất giác. Đó là an trú thuận theo chân như. Ấy là bốn duyên.
Này
thiện nam tử! Năng lực của bốn đại duyên như vậy, không mắc kẹt ở nơi
sự tướng, nhưng không phải là không có công dụng, lìa khỏi một xứ thì
không thể mong cầu.
Này thiện nam tử! Một việc như vậy, bao gồm thông cả sáu hạnh, nó là biển cả tuệ giác của Phật”. (Đại chính 9, tr 370c24).
Ý
nghĩa đắc Bồ tát Đại thừa giới của kinh Kim cang tam muội là dựa trên
nền tảng chân như và từ chân như mà đắc giới và khởi hạnh nguyện, có đủ
năm mươi hạnh địa của bồ tát và một hạnh địa của Đẳng giác.
Vậy,
chân như là gì? Kinh trả lời: “Tướng chân như là tướng của các tướng đã
vắng lặng. Vắng lặng chính là ý nghĩa của chân như”. (Đại chính 9, tr
371b24).
Do đó, giới hành không phải chỉ là vắng lặng ở nơi cảnh,
mà vắng lặng ở nơi tâm, mới khế với bản tánh thanh tịnh của giới là
giới thể chân như.
2- Quán chiếu lý chân như:
Quán chiếu
lý chân như là sự quán chiếu không mắc kẹt ở nơi sự tướng; không mắc kẹt
nơi ngã và pháp; không mắc kẹt nơi nghĩa, ngữ, danh số,… để thấy lý của
như là như như, trong lý ấy đầy đủ hết thảy pháp.
Phật dạy: “Người nào sống với lý chân như, người ấy vượt qua ba khổ hải”. (Đại chính 9, tr 371a10).
3- Năm vị trí an trụ:
Tôn
giả Xá lợi phất hỏi, Đức Phật rằng: “Tất cả chúng sanh từ hạng Nhất
xiển đề và tâm của hạng Nhất xiển đề, nên an trú vào những vị trí nào để
đạt đến Như lai và thực tướng của Như lai”.
Đức Phật dạy: “Từ nơi tâm của hạng Nhất xiển đề cho đến Như lai và thực tướng của Như lai, nên an trú vào năm vị trí:
-
Tín vị: Tin tưởng rằng, chủng tử chân như ở trong thân này, bị vọng
tưởng che lấp, buông bỏ tâm vọng tưởng là liền có tâm an tịnh, thanh
bạch, nhận biết rõ ràng, các thế giới chỉ là ngôn ngữ của tâm ý.
-
Tư vị: Tư là thẩm sát các cảnh giới, chỉ là ngôn ngữ của tâm ý. Các
ngôn ngữ phân biệt của ý là tùy nơi tâm ý mà hiển bày. Các cảnh giới
được thấy không phải là thức căn bản của tự ngã. Biết rõ thức căn bản
này, không phải là pháp, không phải là nghĩa, không phải là chủ thể nắm
giữ, không phải là đối tượng được nắm giữ.
- Tu vị: Tu là thường
phát khởi và có khả năng phát khởi, phát khởi và tu tập đồng thời. Trước
tiên là sử dụng trí tuệ để chỉ đạo, bãi trừ các chướng nạn, vượt ra
khỏi mọi sự trói buộc và che lấp.
- Hành vị: Hành là xa lìa phạm
vi các chủng tử tâm hành. Tâm không còn thủ hay xả. Lợi căn cực tịnh,
tâm chân như bất động, bản tánh chân thực quyết định, Đại bát Niết bàn
là tánh rỗng lặng rộng lớn.
- Xả vị: Xả là không mắc kẹt ở nơi
tánh rỗng lặng. Chánh trí linh hoạt lưu chuyển, ở nơi tướng chân như của
đại bi, tướng không kẹt mắc nơi chân như. Đối với tuệ giác vô thượng,
tâm rỗng rang, không thấy có chứng đắc, không thấy có xứ sở và ngằn mé
của biên giới là đạt đến Như lai”. (Đại chính 9, tr 371a21).
Như
vậy, hành giả muốn thể nhập thể tánh rỗng lặng chân thực, khởi đầu bằng
niềm tin. Phải tin tưởng ở trong thân này có Phật tánh thường trú, có
chủng tử của Phật thân không sanh diệt, đó là chủng tử chân như. Bằng
niềm tin ấy mà thực hành tất cả những pháp môn tu tập trải qua trong các
địa vị, dẫn đến sự thành tựu viên mãn trí tuệ của một bậc Toàn giác.
Tuy
nói năm vị, nhưng năm vị ấy không ra ngoài giác ngộ nhất tâm. Giác ngộ
nhất tâm là sống tùy thuận với chân như. Chân như là chủng tử của bản
giác mà bản giác thì tất cả chúng sanh đều có. Tu tập năm vị, nghĩa là
thông qua năm vị mà thể nhập bản giác, sống với đời sống ở nơi tự tánh
thanh tịnh.
4- Quán chiếu một thi kệ:
Tôn giả Xá lợi phất
thưa, Đức Phật rằng: “Thật không thể nghĩ bàn! Như lai thường dùng pháp
như thực để giáo hóa chúng sanh, nghĩa như thực như vậy là nghĩa rộng,
văn nhiều, những chúng sanh có lợi căn mới có thể tu tập. Đối với những
chúng sanh độn căn, khó dùng tâm ý để thực hành. Phải dùng phương tiện
nào để giúp đỡ những hạng độn căn hội nhập được sự thực này?”
Đức
Phật dạy: “Nên giúp đỡ những hạng độn căn, thọ trì một bài kệ bốn câu
là nhập được nghĩa lý chân thực này. Tất cả phật pháp, đều được tóm thâu
trong một bài kệ bốn câu”.
Ngài liền nói bài kệ ấy rằng:
“Nhân duyên sở sanh nghĩa
Thị nghĩa diệt phi sanh
Diệt chư sanh diệt nghĩa
Thị nghĩa sanh phi diệt”. (Đại chính 9 tr 371b28/c7).
Nghĩa là:
“Nghĩa do nhân duyên sanh
Nghĩa ấy diệt, không sanh
Diệt các nghĩa sanh diệt
Là nghĩa sanh, không diệt”.
Như vậy, quán chiếu theo một bài kệ với tâm nhất như, tuệ sẽ sinh khởi và thâm nhập được toàn thể nghĩa lý của Phật pháp.
Với
ý nghĩa của bài kệ này, giúp cho ta thấy rằng, bất cứ nghĩa nào được
sanh khởi từ nhân duyên, thì nghĩa ấy là nghĩa của sanh diệt mà không
phải thực nghĩa từ chân như.
Do đó, bài kệ đã giúp cho ta đi vào
được hai cửa ngõ của thiền quán là sanh diệt và chân như. Cửa ngõ sanh
diệt là cửa ngõ của các pháp quan hệ nhân duyên sanh khởi. Và cửa ngõ
chân như là cửa ngõ của tánh không.
Các pháp thuộc về nhân duyên,
chúng luôn luôn tồn tại trong ý nghĩa đối đãi của sanh diệt. Và các
pháp hoạt dụng từ chân như, chúng không hoạt dụng và tồn tại trong ý
nghĩa sanh diệt mà chúng hoạt dụng và tồn tại trong nghĩa rỗng lặng,
không sanh diệt.
Vì sao như vậy? Vì Đức Phật dạy: “Tất cả tướng
của pháp không sanh khởi từ nhân duyên mà tướng và tánh sanh khởi từ
chân như, nhưng chân như không bị biến động. Tướng và tánh từ nhân
duyên, tướng ấy vốn không có và rỗng lặng (Đại chính 9, tr 370a3).
Do
đó, thực tập và quán chiếu bài kệ một cách sâu sắc, sẽ giúp ta trực
diện và thiệp nhập được tính sanh diệt và không sanh diệt ngay nơi mọi
sự hiện hữu.
Tuy mọi hiện hữu đang trùng trùng duyên khởi mà tính thể của mọi sự hiện hữu ấy luôn luôn ở trong sự rỗng lặng, không sanh diệt.
Tóm
lại, pháp hành trong phẩm này, là quán chiếu tâm chân như để hội nhập
toàn phần với tâm ấy, và từ tâm ấy mà hiện khởi hạnh nguyện giáo hóa lợi
hành cho chúng sanh.
Phẩm Như lai tạng, Đức Phật dạy những pháp hành như sau:
1- An trú nhất vị:
An
trú nhất vị là an trú nhất tánh chân thực, tức là an trú vào tự tánh
chân như của Như lai tạng. Bản thể của Như lai tạng là Như. Như là tự
tánh của Như lai tạng. Tác dụng của Như lai tạng là Lai. Tạng là kho
tàng ẩn chứa chủng tử bồ đề của Như lai. Tất cả những gì biểu hiện từ
kho tàng ấy đều gọi là Như lai.
Như lai tạng tất cả chúng sanh
đều có. Nó có ngay nơi tâm tánh của chúng sanh. Nhưng chúng sanh do sống
theo thức và bị các thức khuấy động làm ô nhiễm tâm tánh, biến Như lai
tạng trở thành tạng thức, để cất giữ tất cả chủng tử ô nhiễm mà chúng
sanh đã và đang huân tập.
Các bậc Thánh giả, quán chiếu biết rõ
các tướng do bảy thức khuấy động tàng thức mà biểu hiện, chúng đều như
huyễn hóa không thực. Vì vậy, các bậc Thánh giả không chạy theo và dựa
theo thức để nhận thức thực tại mà chuyển thức thành trí để hội nhập với
thực tại. Khi các thức đã chuyển thành trí, thì tàng thức tự nó là Như
lai tạng tánh thanh tịnh.
Do đó, an trú nhất vị, chính là an trú
vào tự tánh thanh tịnh ở Như lại tạng. Bản thân Như lai tạng là tịch
diệt, bất động là nhất tâm chân như.
Từ Nhất tâm chân như mà Bồ
tát hoạt khởi đại bi, làm lợi ích hết thảy chúng sanh bởi vô số hạnh
nguyện, biểu hiện dưới vô số hình tướng, sử dụng vô số phương tiện thiện
xảo để làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh mà không rời tự tánh thanh
tịnh, vẫn an trú ở nơi nhất vị là Phật đạo.
Vì vậy, Đức Phật đã
nói với Trưởng giả Phạm hạnh rằng: “Này Trưởng giả! Các pháp do ta giảng
dạy là không thể nghĩ bàn. Vì do những người mê lầm, nên mới có những
phương tiện dìu dắt. Tất cả tướng của pháp là đều từ nơi trí tuệ đệ nhất
nghĩa chân thực”.
Trưởng giả Phạm hạnh thưa: “Pháp nếu như vậy,
thì con an trú nơi đệ nhất vị, để thâu nhiếp hết thảy các vị”. (Đại
chính 9, tr 371c16).
Do đó, an trú nhất vị là an trú nơi Nhất Phật đạo và mọi hành đạo đều từ nơi Nhất Phật đạo mà hành.
2- Ba pháp hành:
Đức Phật dạy, ba hành gồm:
-
Tùy sự thủ hành: Nghĩa là bậc Thánh giả tu tập, ở tâm kim cang, quán
chiếu thấy những sự tướng hiện tiền, mỗi mỗi sự tướng đều tuân thủ và
tùy thuận đối với giác tánh.
- Tùy thức thủ hành: Nghĩa là bậc
Thánh giả tu tập, quán chiếu thấy rõ, hết thảy chúng sanh do bảy thức
chuyển khởi, khiến Như lai tạng chuyển thành tạng thức ô nhiễm. Vì vậy,
hết thảy chúng sanh đều bị điên đảo vọng tưởng đối với ngã và pháp. Bậc
Thánh giả do tu tập, an trú vào tâm kim cang, chứng đắc trí tuệ không do
phân biệt, biện biệt được tướng vi tế của các thức, khiến cho chúng
hoàn toàn tịch lặng. Biết rõ ba cõi chỉ là duy tâm; vạn pháp chỉ là duy
thức, khiến cho mọi tâm thức thế gian đều tuân thủ, thuận hành theo giác
tánh.
- Tùy như thủ hành: Vọng tưởng của chúng sanh sanh diệt
trong từng sát na, niệm trước diệt, niệm sau sanh, tương tục khởi hiện
không dừng nghỉ. Bậc Thánh giả an trú tâm kim cang, mỗi niệm đều thanh
tịnh. Nơi tất cả hành, động tịnh đều ly. Mặc dù do nhân duyên mà khởi,
nhưng đều tuân thủ và thuận hành giác tánh.
Ba hành này không
ngoài đời sống thường nhật của hết thảy chúng sanh. Chúng sanh hành theo
vọng thức, vọng niệm, khiến dẫn sinh tám vạn bốn ngàn trần lao phiền
não. Chư Phật hành ba hành này thuận theo giác tánh, nên thành tựu tám
vạn bốn ngàn pháp môn tam muội. (Ba hành - Tham khảo Kim cang tam muội
kinh thông tông 10, Tục Tạng Kinh 35, tr 313b23/c1).
Ba hành với ý
nghĩa như vậy, nên Đức Phật dạy Trưởng giả Phạm hạnh rằng: “Này Trưởng
giả! Ba hành như vậy, là thâu nhiếp hết thảy pháp môn. Hết thảy pháp môn
đều thâu nhiếp vào ba hành này. Người nào chứng nhập ba hành này, người
ấy ở nơi tướng rỗng lặng không sanh khởi. Người nào chứng nhập được như
vậy, có thể bảo rằng người ấy, chứng nhập kho tàng của Như lai, người
ấy chứng nhập mà không chứng nhập gì cả”. (Đại chính 9, tr 372a3).
3- Quán chiếu thường pháp:
Quán
chiếu thường pháp là quán chiếu sự vắng lặng ở nơi tâm và pháp. Người
nào chỉ thấy pháp vắng lặng mà các thức nơi tâm còn hoạt khởi, thì chưa
phải là vắng lặng. Phải vắng lặng ngay các tướng hoạt khởi của thức nơi
tâm, đó mới gọi là pháp thường vắng lặng. Vắng lặng không phải vắng lặng
của tâm đối với pháp mà chính là vắng lặng của tâm đối với tâm. Tướng
của các thức thường biểu hiện ở trong sanh diệt mà tánh của nó thường
vắng lặng. Tánh của thức thường vắng lặng, đó là thường pháp. Tánh của
thức thường vắng lặng ấy là vô cấu thức, là bạch tịnh thức hay chính là
Như lai tạng tính.
Vì vậy, Đức Phật dạy cho Trưởng giả Phạm hạnh
rằng: “Pháp thường là pháp phi thường, không ngôn thuyết, không chữ
nghĩa, không sự thực, không giải thoát, không phải là không, không phải
là cảnh giới, lìa hẳn các lằn mức hư vọng, đoạn diệt. Pháp phi thường ấy
là thường, vì nó xa lìa các kiến chấp đoạn và thường. Thấy rõ thức là
thường, vì thức thường vắng lặng. Vắng lặng ngay cả sự vắng lặng”. (Đại
chính 9, tr 372b19).
Như vậy, hành pháp quán này, là quán chiếu
sự vắng lặng các tướng của thức nơi tâm, để thấy rõ tự tánh của thức là
thường, không sanh diệt. Danh và sắc hư vọng, vô thường, bất thực là vì
do chúng được biểu hiện từ các tướng của những thức tâm biến động mà
không phải từ nơi tự tánh của thức không biến động. Tự tánh của thức là
thường, là tịch diệt. Nó không phải chỉ tịch diệt ở nơi những đối tượng
mà nó tịch diệt và rỗng lặng ngay ở nơi tự thể của chính nó.
Nên,
trong kinh Phật dạy: “Biết rõ các pháp như vậy, nên không chạy theo
ngôn ngữ, văn tự. Nghĩa của tâm là ở nơi tâm không phân biệt ngã. Biết
ngã chỉ là tên gọi giả định là chứng đắc Niết bàn. Chứng đắc Niết bàn là
chứng đắc Tuệ giác vô thượng”. (Đại chính 9, tr 372b25).
Đó là
pháp quán chiếu về thường pháp, để siêu việt các kiến chấp đối đãi giữa
thường và vô thường, giữa sanh và diệt, giữa ngã và phi ngã, giữa pháp
và phi pháp,… để thể nhập sự vắng lặng ngay cả sự vắng lặng.
Phẩm Tổng trì, là phẩm nắm giữ và duy trì hết thảy những pháp trọng yếu xuyên suốt các phẩm của kinh Kim cang tam muội này.
Ở
phẩm này, Bồ tát Địa tạng đóng vai trò chủ chốt trong việc giải nghi
cho đại chúng trong suốt quá trình nghe pháp thoại và tu học. Với danh
nghĩa Địa tạng, vị Bồ tát này xuất hiện ở phẩm này có hai nghĩa.
Một,
Địa là đất. Đất có khả năng duy trì tất cả các hạt giống và làm cho các
hạt giống sanh trưởng và không có bất cứ sự kỳ thị nào đối với các
chủng loại. Hai, Tạng có khả năng cất giữ mọi hạt giống không để bị hư
mất.
Cũng vậy, Bồ tát Địa tạng có mặt ở trong phẩm này là tiêu
biểu cho vị Bồ tát đã từng thực hành và nắm giữ toàn bộ nhân và quả của
các pháp hành mà Đức Phật đã dạy ở trong kinh này, từ phẩm Vô tướng pháp
đến phẩm Như lai tạng và đã thực hành đến chỗ viên mãn các hạnh địa Bồ
tát, lại tiếp tục tu học đoạn trừ các vi tế hoặc, hành bồ tát đạo để
nhập vào địa vị Đẳng giác và Diệu giác.
Đẳng giác là địa vị mà Bồ
tát Địa tạng đã hội nhập, dù đã hội nhập với địa vị này, vị thì đồng
với địa vị giác ngộ, nhưng quả thì chưa đồng, nên có những nghi ngờ nhỏ
nhặt đối với pháp học và pháp hành, mà tự thân chưa thể giác liễu hoàn
toàn, nên cần tiếp tục tu tập và học hỏi đối với Bậc toàn giác. Và chính
lời thưa hỏi ấy, của Bồ tát Địa tạng cũng đã hiển thị hạnh giác tha của
Ngài đối với đại chúng trong hiện tại và cả tương lai.
Vì vậy,
Bồ tát Địa tạng ở phẩm này, với phẩm hạnh của một vị Bồ tát ở vào địa vị
Đẳng giác về pháp học và pháp hành đã thưa hỏi Đức Phật. Nhân đó, Đức
Phật dạy, các pháp hành ở trong phẩm này mà ta có thể tóm lược những
pháp hành chủ yếu như sau:
1- Quán chiếu chân như vô trú:
Ở phẩm Như lai tạng, Trưởng giả Phạm hạnh thưa với Đức Phật rằng:
“Pháp được Như lai dạy
Đều ở nơi vô trú
Con từ chỗ vô trú
Chốn ấy lễ Như lai.
Kính lễ tướng Như lai
Trí như không, bất động
Không kẹt, không xứ sở
Kính lễ thân vô trú”. (Đại chính 9 tr 372b11).
Ở
phẩm này, Bồ tát Địa tạng đã bạch với Đức Phật rằng: “Như Đức Thế Tôn
dạy: Nghĩa và pháp đều rỗng lặng, chứng nhập vô hành nơi rỗng lặng, các
nghiệp không mất, không có ngã và liên hệ ngã. Thân kiến gồm cả chủ thể
và đối tượng, các phiền não trong ngoài đều vắng lặng, các ước muốn đều
dứt, quán chiếu lý tính như vậy, định và tuệ đều ở nơi chân như. Đức Thế
Tôn thường dạy, pháp như thực, rỗng lặng là lương dược. (Đại chính 9,
tr 373b11).
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Vì sao? Vì pháp tánh
rỗng lặng. Tánh rỗng lặng không sanh, nên tâm thường không sanh. Tánh
rỗng lặng không diệt, nên tâm thường không diệt. Tánh rỗng lặng vô trú,
nên tâm cũng vô trú. Tánh rỗng lặng vô vi, nên tâm cũng vô vi. Rỗng
lặng, nên không có ra hay vào, lìa hẳn các thứ được, mất. Các uẩn, nhập
và giới, … cũng đều là không, tâm không kẹt ở nơi chân như cũng lại như
vậy.
Này Bồ tát! Tôi nói pháp là vì để phá trừ các loại chấp hữu”. (Đại chính 9, tr 373b14).
Quán
chiếu để thấy rõ các pháp từ chân như mà biểu hiện. Chân như là đối
tượng quán chiếu và hành giả là chủ thể thường quán chiếu. Bản tánh của
chủ thể thường quán chiếu và đối tượng được quán chiếu cả hai đều nhất
thể rỗng lặng và xuyên suốt vô trú, đó là pháp quán đặc biệt ở phẩm này.
2- Quán chiếu ba sự:
Ở trong phẩm này, Đức Phật dạy cho Bồ tát Địa tạng quán chiếu ba sự để tự soi xét tâm mình như sau:
“Ba
sự gồm: – Nhân. – Quả. – Thức. Ba sự kiện lớn như vậy, vốn tự rỗng
lặng, không thực thể, không phải là ngã hay chân ngã, tại sao đối với
chúng lại sanh tâm ái nhiễm? Quán chiếu ba sự kiện ấy đều do phiền não
trói buộc, khiến luân chuyển ở trong biển khổ. Vì sự kiện như vậy, nên
phải thường tự soi xét tâm mình”. (Đại chính 9, tr 373c5).
Tất cả
chúng sanh bị luân chuyển liên tục trong ba cõi là do bị ràng buộc bởi
nhân quả và nghiệp thức. Từ nơi nghiệp thức mà nhân quả của chúng sanh
biểu hiện luân hồi và trôi lăn trong lục đạo. Bảy thức khuấy động tàng
thức làm khởi sanh ái nhiễm đối với ngã và pháp. Nhân của sanh tử từ đó
duyên với vô minh mà tập khởi và các khổ quả cũng từ đó mà hình thành.
Như vậy, nhân và quả không rời thức, chúng duyên vào thức mà biểu hiện.
Pháp
quán chiếu Nhân – Quả – Thức này là quán chiếu để thấy rõ hai mặt nhiễm
ô và thanh tịnh của một tâm. Nếu tâm không bị các thức khuấy động và
tác động, thì nhân quả sanh tử không thể hình thành. Và tâm chính là sự
thanh tịnh, rỗng lặng, vô trú và vô sự.
Như vậy, mọi hiện sự nhân
quả sanh tử ở trong thế gian, đều là hiện sự của thức. Do đó, muốn
thoát ly sanh tử, người tu tập phải chuyển hóa mọi thức tâm thành trí
tánh. Đó là điểm đặc biệt của pháp quán này.
3- Quán chiếu ba đại đế:
Bồ tát Địa tạng thưa Đức Phật rằng, thế nào là ba đại đế và một hạnh chứng nhập?
Đức
Phật dạy: “Ba đại đế gồm: - Một, Bồ đề chi đạo: đạo bồ đề, đó là sự
thực bình đẳng, chứ không phải là không bình đẳng. Hai, Đại giác chánh
trí đắc đế: sự thực được chứng đắc do chánh trí của bậc Đại giác. Nghĩa
là không phải tà trí có thể chứng đắc được sự thực. Ba, Tuệ định vô dị
hành nhập đế: chứng nhập sự thực là do thực hành định và tuệ thuần nhất.
Nghĩa là chứng nhập sự thực không phải là tạp hạnh.
Người nào
dùng ba sự thực này mà tu tập Phật đạo, người ấy ngay nơi pháp này đều
được Chánh giác, được trí tuệ của bậc Chánh giác, tâm từ bi cùng tột lưu
chảy, mình người đều lợi lạc, thành tựu tuệ giác của Phật”. (Đại chính
9, tr 373c9).
Quán chiếu sự thực thứ nhất ở trong pháp hành này,
để thấy rõ sự thực là phật tính giữa Phật và chúng sanh đều bình đẳng.
Nó bình đẳng ngay nơi tự tính. Nhưng, tự tướng thì sai thù. Vì sao? Vì
Phật thì thường trú với giác tính và từ giác tính mà khởi hạnh, nên
không có hạnh nào của phật là không Phật. Trái lại, chúng sanh cũng đồng
có và ở trong bản thể đó, nhưng không tỉnh giác để cho các chuyển thức
khuấy động, biến Như lai tạng tánh thành tướng của thức tạng và từ thức
tạng ấy mà các thức hiện khởi ái trước, vọng tưởng đối với ngã và pháp,
khiến cho mọi hành hoạt của chúng sanh không gì là không chúng sanh.
Nên, hiện tiền chỉ cần buông bỏ và rỗng lặng các thức niệm và vọng niệm,
thì giác niệm và chánh niệm hiện tiền. Bấy giờ chúng sanh là Phật.
Quán
chiếu sự thực thứ hai để thấy rằng, thực tướng không hay thực tánh
không của vạn hữu, bằng chánh trí hay bằng chân trí là có thể chứng nhập
ngay trong từng giác niệm hiện tiền. Nếu thiếu giác niệm hiện tiền, thì
không thể trực nhận và thiếu tuệ giác hiện tiền, thì không thể hội nhập
để sống cùng và sống với. Và thiếu chân như trí thì không thể hội nhập
chân như lý. Mỗi khi chân như trí hội nhập với chân như lý, thì ngay đó
trí và lý bất nhị.
Quán chiếu sự thực thứ ba để thấy rằng, thâm
nhập sự thực, không có con đường nào khác, không có phương pháp nào
khác, ngoài thực hành giới định và tuệ. Giới thể thanh tịnh ở đây phát
sanh do định và tuệ thuần nhất. Định thuần nhất làm phát sinh giới, gọi
là là Tịnh lự sanh luật nghi. Nghĩa là luật nghi sanh khởi từ thiền
định. Nó có khả năng phòng hộ các quan năng nhận thức, khiến cho các
niệm luôn luôn hoạt khởi ở trong sự thanh tịnh. Tuệ thuần nhất làm phát
sanh giới, gọi là Đạo sanh luật nghi. Nghĩa là tuệ có khả năng quét sạch
các phiền não nơi tâm, sau khi các phiền não đã bị định nhiếp phục, để
sinh khởi và hội nhập với thánh đạo vô lậu, khiến giới vô lậu sinh khởi
làm tươi nhuận các chủng tử vô lậu và giải thoát, khiến cho các oai nghi
như đi đứng nằm ngồi, sinh hoạt của bậc Thánh giả đều luôn luôn được an
hành ở trong chánh niệm, tỉnh giác.
Do đó, hội nhập với tự thân
thực tại, không có con đường nào khác ngoài con đường giới định tuệ.
Giới định tuệ ở mặt pháp học, ta thấy tuy là ba, nhưng ở mặt pháp hành,
nó chỉ là một. Đó là nét đặc biệt của pháp hành này.
Và đối với
ba sự thực rộng lớn như vậy, chúng liên hệ và hỗ dụng cho nhau một cách
chặc chẽ, nên ta chỉ cần nhất hạnh là có thể hội nhập. Vì sao? Vì ba sự
thực ấy không ra ngoài một sự thực, đó là nhất phật đạo, đó là đạo bồ đề
và đó là giác tánh giữa phật và chúng sanh đều bình đẳng. Tánh giác ấy
là nhất tánh, nhất đạo, nên hội nhập nhất tánh, nhất đạo thì chỉ có nhất
hạnh tam muội.
Vì vậy, ở phẩm này, Đức Phật dạy, Bồ tát Địa tạng
rằng: “Này Bồ tát! Đối với ba việc lớn, thì hãy tự soi xét tâm mình và
đối với ba sự thực rộng lớn, thì nên nhất hạnh mà chứng nhập”. (Đại
chính 9, tr 373c3).
Nếu ta đọc kỹ kinh Kim cang tam muội, thì mỗi
chữ, mỗi câu, mỗi đoạn văn, mỗi bài kệ thưa hỏi và giải đáp giữa Đức
Phật và đại diện của các thính chúng đều là mỗi pháp học, mỗi pháp môn
và đều là mỗi pháp hành cho chúng ta tu học. Nhưng, ở đây tôi chỉ có thể
rút ra một số pháp hành do tự thân đọc tụng và cảm nhận mà thôi.
- Quả Vị:
Ở
trong kinh Kim cang tam muội, giáo lý hàm chứa đầy đủ cả bản giác và
thỉ giác, quả vị hàm chứa đầy đủ cả Tam hiền, Thập thánh và quả vị cao
nhất là Nhất vị, hay Phật vị, ấy là quả vị Vô thượng bồ đề.
Như
vậy, tông yếu, giáo học, hạnh và quả của kinh Kim cang tam muội đã cho
ta thấy sự xuyên suốt và những đặc điểm của kinh này, là lý tính chân
như bình đẳng, nhất giáo, nhất hạnh và nhất vị.
Những vị nào muốn nghiên cứu và chiêm nghiệm sâu rộng kinh này, xin hãy đọc thẳng vào Đại Chính 9, kinh số 1730, tr 365.
THÍCH THÁI HÒA