Kinh Anattalakkhana-sutta
và Kinh Samyuktagamasutra
Vô ngã là một khái niệm chủ yếu của Phật
giáo và cũng là một trong những khái niệm khó nắm bắt nhất. Đức Phật không hề chủ
trương và cũng không tham gia tranh biện về các vấn đề siêu hình, thế nhưng ngay
sau bài thuyết giảng đầu tiên làm nòng cốt cho toàn bộ Đạo Pháp là Tứ Diệu Đế, Ngài
đã không do dự chút nào khi nêu lên khái niệm về Vô Ngã.
Thật vậy, lúc đó ngoài năm người đệ
tử đầu tiên vừa được nghe giảng về Tứ Diệu Đế thì chưa có ai biết đến Đạo Pháp
của Đức Phật là gì. Trong bối cảnh tín ngưỡng thời bấy giờ hầu hết mọi người đều
tin vào một thứ linh hồn trường tồn và bất biến (jiva, atman...) hiện hữu bên trong mỗi cá thể và một thứ đại linh hồn
hay cái Ngã Tối Thượng (Paramatman,
Brahma...) bên ngoài nhân dạng con người và thuộc một nơi nào đó trong vũ
trụ.
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện
tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không
hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào. Đức Phật chỉ chấp nhận một
cái tôi như là một ảo giác do tâm thức tạo dựng, cái tôi đó chỉ có giá trị trên
phương diện quy ước. Ngài giảng rằng sự nắm bắt một cái tôi hay cái ngã chỉ là
cách đồng hóa những cấu hợp (ngũ uẩn) tạm thời tạo ra một cá thể, như là một
"cái tôi" vững bền để bám víu vào đấy. Sự bám víu đó chính là nguyên
nhân mang lại khổ đau và buộc chặt chúng ta trong cõi luân hồi.
Đức Phật thuyết giảng về vô ngã
trong rất nhiều bản kinh khác nhau. Thế nhưng tựu trung thì có hai cách giảng
chính : cách thứ nhất là đả phá các ý nghĩ sai lầm cho rằng "cái ấy của Tôi",
"Tôi là cái ấy", "cái ấy là cái Ngã của Tôi"..., cách thứ
hai là bác bỏ ý nghĩ cho rằng một cấu hợp hay một tổng thể gồm nhiều cấu hợp là
cái Ngã. Đối với cách giảng thứ nhất Đức Phật liên kết vô ngã với khái niệm về năm
thứ cấu hợp tạo ra cá thể con người gọi là ngũ uẩn ; khi thuyết giảng theo cách
thứ hai thì Đức Phật liên kết vô ngã với khái niệm về mười hai mối dây kết nối gọi
là thập nhị nhân duyên.
Một cách tổng quát, khi muốn tìm hiểu
một khái niệm nào đó thì nên đặt nó vào bối cảnh toàn bộ của Đạo Pháp, đấy là cách
giúp chúng ta nhìn thấy chính xác hơn vị trí và vai trò của khái niệm ấy liên hệ
với các khái niệm khác trong giáo lý như thế nào. Hơn nữa một tầm nhìn bao quát
sẽ giúp chúng ta quán nhận được toàn bộ các khái niệm trong Đạo Pháp một cách mạch
lạc hơn, và khi đã quen với cách quán nhận ấy thì sự hiểu biết cũng sẽ trở nên trực
tiếp hơn, không cần mỗi lần phải nhờ đến lý luận và sự phân tích. Thật vậy một
sự hiểu biết rời rạc có thể mang lại sự hoang mang, hời hợt hoặc gượng ép.
Sau đây là hai bản Kinh ngắn ghi lại
những lời thuyết giảng của Đức Phật tiêu biểu cho hai cách thuyết giảng trên đây.
I- Kinh Anattalakkhana-sutta
(Kinh Vô Ngã Tướng)
(Bản Việt dịch dưới đây dựa vào bản tiếng Pháp do Môhan Wijayaratna dịch
từ tiếng Pali (Sermons du Bouddha,
Cerf, 1988, tr.123-126). Bản gốc trong Tương Ưng Bộ Kinh - Samyutta-nikaya,
ed. PTS, 1888-1902, III, 66-67 ; Vinayapitaka, ed. PTS, 1879-1883, I, 13-14). Bản
kinh này được xem là bản Kinh thứ hai sau Tứ Diệu Đế, được Đức Phật thuyết giảng
cho những đệ tử đầu tiên là năm anh em Kiều Trần Như.
"Tôi từng được
nghe như thế này.
Một lần Đấng Thế Tôn ngụ
tại vườn Lộc Uyển (Mrgadava), trong khu rừng Tiên Uyển (Isipatana), gần thành
Ba-la-nại (Benares) [...]. Đấng Thế Tôn cất lời và nói với năm vị tỳ kheo như
sau :
"Này các tỳ kheo, hình tướng (thân
xác) không phải là cái Ngã (theo định nghĩa thông thường thì cái ngã hay atman
có thể hiểu như là 'linh hồn'). Nếu như hình tướng đúng thật là cái Ngã, này các tỳ
kheo, thì hình tướng đâu phải gánh chịu bệnh tật (cái ngã được định nghĩa như một
thứ gì bất biến và trường tồn, thế nhưng thân xác phải gánh chịu bệnh tật, thân
xác vì thế không phải là cái ngã), và đối với thân xác thì người ta có thể bảo rằng : "Đối với tôi
thì thân xác của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được"
(nếu thân xác đúng là cái ngã thì nó không thể biến đổi để trở thành khác
hơn). Trong
khi đó, bởi vì thân xác không phải là cái Ngã [cho nên] thân xác phải gánh chịu
bệnh tật (vô thường) và
người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thân xác của tôi
[chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
"Này
các tỳ kheo, giác cảm không phải là cái Ngã. Nếu như giác cảm đúng là cái Ngã, này
các tỳ kheo, thì giác cảm đâu có phải gánh chịu bệnh tật (tức là các
giác cảm làm phát sinh sự đau đớn, thích thú hay trung hòa),
và [như thế]
đối với giác cảm người ta sẽ có thể bảo rằng
: "Đối với tôi thì giác cảm của tôi [chỉ có thể] như thế này mà
không thể như là thế khác được". Trong khi đó, bởi vì giác cảm không phải
là cái Ngã [cho nên] giác cảm phải gánh chịu bệnh tật và người ta
sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì giác cảm của tôi [chỉ
có thể] như thế này mà không thể là
như thế khác được".
"Này
các tỳ kheo, sự nhận thức không phải là cái Ngã. Nếu như sự nhận thức, này các
tỳ kheo, đúng là cái Ngã thì sự nhận thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật (sự lầm lẫn),
và [như thế]
đối với sự nhận thức người ta sẽ có thể bảo
rằng : "Đối với tôi thì sự nhận
thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được".
Trong khi đó, bởi vì sự nhận thức không
phải là cái Ngã [cho nên] sự nhận thức phải gánh chịu bệnh tật và đối
với sự nhận thức thì người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì sự nhận thức của tôi [chỉ
có thể] như thế này mà không thể là
như thế khác được".
"Này
các tỳ kheo, thói quen thường nhật không phải là cái Ngã. Nếu như thói quen thường nhật, này các tỳ
kheo, đúng là cái Ngã thì thói quen thường nhật đâu phải gánh chịu mọi thứ bệnh
tật (tức
là sự bám víu biểu hiện của vô minh và sai lầm),
và [như thế]
đối với thói quen thường nhật người ta sẽ
có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thói quen thường nhật của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì thói quen thường nhật
không phải là cái Ngã [cho nên] thói quen thường nhật phải gánh chịu bệnh tật,
và đối với thói quen thường nhật thì người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng
: "Đối với tôi thì thói quen thường
nhật của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
"Này
các tỳ kheo, tri thức (consciousness) không phải là cái Ngã.
Nếu như tri thức đúng là cái Ngã, này các
tỳ kheo, thì tri thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật (những sự diễn
đạt sai lầm), và [như thế]
đối với tri thức người ta sẽ có thể bảo rằng
: "Đối với tôi thì tri thức của
tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được".
Trong khi đó, bởi vì tri thức không phải
là cái Ngã [cho nên] tri thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với
tri thức người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì tri
thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".
-
Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Hình tướng
trường tồn hay vô thường?
-
Bạch Thế tôn, hình tướng là vô thường.
-
Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những
gì khổ đau hay hạnh phúc?
-
Bạch Thế tôn, là những gì khổ đau.
-
Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ
đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng
: "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay
không ?
-
Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
-
Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Giác cảm
trường tồn hay vô thường?
-
Bạch Thế Tôn, giác cảm là vô thường.
-
Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những
gì khổ đau hay hạnh phúc?
-
Bạch Thế Tôn, là những gì khổ đau.
-
Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ
đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng
: "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay
không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Sự nhận thức trường
tồn hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, sự nhận thức là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay
hạnh phúc?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
-
Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ
đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng
: "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay
không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Thói quen thường nhật
trường tồn hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, thói quen thường nhật là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay
hạnh phúc ?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh
chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : "Đấy
là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Tri thức trường tồn
hay vô thường ?
- Bạch Thế Tôn, tri thức là vô thường.
- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay
hạnh phúc ?
- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.
- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh
chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : "Đấy
là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay không ?
- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.
"Tóm
lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là thân xác, dù thuộc vào quá khứ,
tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, tầm
thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự
nhủ rằng : "Đấy không phải là của
tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
"Tóm
lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là giác cảm, dù thuộc vào quá khứ,
tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm
thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng
cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi
không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
"Tóm
lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ gì thuộc vào sự nhận thức, dù thuộc vào
quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế,
tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như
thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của
tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
"Tóm
lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là thói quen thường nhật, dù thuộc vào
quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế,
tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như
thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của
tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
"Tóm
lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là tri thức, dù thuộc vào quá khứ, tương
lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay
tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí
tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không
phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".
"Này
các tỳ kheo, nếu biết nhìn mọi sự vật bằng cách như thế thì một người đệ tử hiểu
biết sẽ không còn bám víu vào thân xác, không con bám víu vào giác cảm, không còn
bám víu vào sự nhận thức, không còn bám víu vào thói quen thường nhật, không còn
bám víu vào tri thức. Khi loại bỏ được chúng thì sẽ không còn thèm khát nữa.
Khi nào không còn bám víu nữa thì người đệ tử ấy cũng sẽ tự giải thoát cho mình
khỏi mọi dục vọng. Khi đã tự giải thoát khỏi mọi dục vọng thì người đệ tử ấy cũng
sẽ chợt nhận ra rằng : "[Thế ra]
sự giải thoát cũng chính là như thế đấy !",
và người đệ tử ấy cũng sẽ hiểu được
là : "Tất cả mọi sự tái sinh đã bị hủy diệt, chỉ có Con đường Đạo hạnh tinh
khiết là tồn tại, những gì phải chấm dứt đã chấm dứt, không còn bất cứ gì lưu lại
để chờ đợi được thực hiện, không còn lại gì nữa để mà hình thành".
Đấng Thế Tôn thuyết giảng như trên
đây. Năm vị tỳ kheo đều thỏa dạ và hân hoan đón nhận những lời giáo huấn của
Ngài. Hơn thế nữa ngay trong khi mà họ còn đang nghe giảng thì mọi ô nhiễm
trong tâm thức đã lần lượt được tẩy uế. Vào thời điểm ấy hiển hiện lên trong thế
gian này sáu vị A-la-hán.
II- Trích trong Samyuktagamasutra
(Tương Ưng Bộ kinh)
(Bản
Việt dịch dưới đây dựa vào bản tiếng Pháp do Jean Eracle dịch từ tiếng Hán (Paroles du Bouddha, tirées de la tradition
primitive, Ed. du Seuil, coll. Sagesse, 1991, tr. 142-144). Bản kinh gốc
trong Đại Tạng kinh Nhật Bản (Taishô shinshu daizôkyô, ấn bản Taishô Issaikyô Kankô Kai, Tokyô,
1924-1932, II, 100,195, tr. 444c)
"Tôi
từng được nghe như thế này.
Một
lần Đức Phật ngụ tại thành Vương Xá (Râjagriha), trên đỉnh Linh Thứu (Grdhrakuta)
trong khu vườn tre Ka-lan-đà (Karanda)
Có
một người tu tập Bà-la-môn tên là Bạt-sa (Vasta) tìm đến nơi Đức Phật đang nghỉ
ngơi. Sau khi thốt lên những lời thăm hỏi Đức Phật [theo nghi thức lễ phép] liền
ngồi sang một bên.
Anh
ta cất lời hỏi Đức Phật như sau :
-
"Thưa Ngài Cồ-đàm ! Trong tất cả chúng sinh có cái ngã hay không ?"
Đức
Phật giữ yên lặng và không trả lời.
Bạt-sa
lại hỏi :
-
"Vậy thì không có cái ngã ?"
Thêm
một lần nữa Đức Phật không trả lời gì cả.
Và
rồi Bạt-sa tự nghĩ thầm như thế này :
-
"Ta đã hỏi nhà tu hành Cồ-đàm nhiều lần về chủ đề này, thế nhưng Vị ấy vẫn
giữ yên lặng và không biết phải trả lời thế nào".
Đang
lúc ấy, người hầu cận là A-nan-đà đang bên cạnh đấng Như Lai để quạt hầu.
A-nan-đà nghe được những lời ấy bèn nói với Đức Phật như sau :
-
"Thưa Đấng Thế Tôn ! Vì sao Đấng Thế Tôn lại không trả lời câu hỏi của
Vatsa ? Nếu Thế Tôn không trả lời thì hắn sẽ nói rằng : "Ta hỏi Đấng Như
Lai, thế nhưng Đấng Như Lai không biết phải trả lời thế nào ?", và như thế
chỉ làm cho hắn vững tin hơn vào những quan điểm sai lầm của hắn mà thôi ?
Đức
Phật nói với A-nan-đà như thế này :
-
"Trước đây hắn đã từng nêu lên câu hỏi như thế này : "Tất cả mọi hiện
tượng có cái ngã hay không ?", và [hỏi] như thế không phải [là cách] làm
cho hắn vững tin vào những quan điểm sai lầm của hắn hay sao ?
Bởi
vì không có cái ngã, [cho nên] nếu Ta trả lời câu hỏi của hắn, Ta sẽ đi ngược lại
với nguyên tắc của Con Đường.
Tại
sao lại như thế ?
Bởi
vì không có cái ngã trong tất cả mọi hiện tượng, vậy còn có cái ngã nào để mà
Ta có thể trả lời cho hắn ? Nếu làm như thế, Ta chỉ củng cố thêm sự hoang mang
của hắn từ trước đến nay.
Thêm
một lần nữa, này A-nan-đà, nếu Ta bảo rằng có cái ngã, ta sẽ rơi vào khái niệm
trường tồn ; và nếu như Ta bảo rằng không có cái ngã, Ta sẽ rơi vào khái niệm
hư vô.
Khi
Như Lai thuyết giảng Đạo Pháp, thì Như Lai gạt bỏ cả hai thái cực ấy và giữ
đúng theo con đường ở giữa. Bởi vì tất cả mọi hiện tượng đều biến mất, chúng
không lâu bền, thế nhưng lại có sự tiếp nối, [cho nên] chúng không bị hủy diệt.
[Vậy
thì] chúng không lâu bền, [thế nhưng] cũng không bị hủy diệt. Chẳng qua chính là
do nguyên nhân mà từ cái này có cái kia, chính bởi vì cái này sinh ra mà cái
kia sinh ra ; và chính vì cái này không sinh ra mà cái kia cũng không sinh ra.
Do
đó, chính vì vô minh mà có sự tạo tác [của nghiệp], vì nguyên nhân của sự tạo
tác [của nghiệp] mà có tri thức, vì nguyên nhân tri thức nên có tổng thể
thân-xác-tâm-thần, vì nguyên nhân thân-xác-tâm-thần mà có sáu cơ sở [của sáu chức
năng] (gồm năm chức năng giác cảm và chức năng tâm thần),
vì nguyên nhân sáu cơ sở [của sáu chức năng] nên có sự tiếp xúc ; vì nguyên
nhân tiếp xúc nên có giác cảm ; vì nguyên nhân giác cảm nên có sự thèm khát ;
vì nguyên nhân thèm khát nên có sự bám víu ; vì nguyên nhân vám víu nên có sự
hình thành ; vì nguyên nhân hình thành nên có sự sinh ; vì nguyên nhân của sự
sinh nên có già nua và cái chết, và cả sự lo buồn, khổ nhọc, đớn đau, hối tiếc
và cả một khối lớn khổ đau.
[Do
đó] khi nguyên nhân chấm dứt, hậu quả chấm dứt, [có nghĩa là] khi vô minh chấm
dứt, sự tạo tác [của nghiệp] chấm dứt ; khi sự tạo tác [của nghiệp] chấm dứt,
tri thức chấm dứt ; khi tri thức chấm dứt, tổng thể thân-xác-tâm-thần chấm dứt
; khi tổng thể thân-xác-tâm-thần chấm dứt, sáu cơ sở [của sáu chức năng] chấm dứt
; khi sáu cơ sở [của sáu chức năng] chấm dứt, sự tiếp xúc chấm dứt ; khi sự tiếp
xúc chấm dứt, giác cảm chấm dứt ; khi giác cảm chấm dứt, sự thèm khát chấm dứt
; khi sự thèm khát chấm dứt, sự bám víu chấm dứt ; khi sự bám víu chấm dứt, sự
hình thành chấm dứt ; khi sự hình thành chấm dứt, sự sinh chấm dứt ; khi sự
sinh chấm dứt, già nua và cái chết chấm dứt kể cả những lo buồn, khổ nhọc, đớn
đau, hối tiếc, và cả một khối lớn khổ đau".
Sau khi Đức Phật thuyết giảng những
điều ấy, các tỳ kheo được nghe đều tiếp nhận những lời giảng ấy với sự hân hoan
và cùng nhau mang ra thực hành".
Bures-Sur-Yvette, 11.06.11
Hoang Phong