Bà Gotami cúng dường y.
Bạn
từng nghe câu chuyện về di mẫu của Đức Phật là bà Pajāpati Gotami dâng
cúng y đến Đức Phật. Kinh kể lại rằng chính bà đã tự xe chỉ và dệt vải
rồi tự mình may y để dâng cúng đến Đức Phật. Sau khi may y xong, bà
dâng đến Đức Phật. Bà bạch với Đức Phật rằng:
.
- Tôi tự xe chỉ, tự dệt rồi tự mình may bộ y này, xin Đức Thế Tôn nhận lãnh.
Đức Phật từ chối, nói:
- Hãy dâng cúng y này đến Chư Tăng. Nếu dì cúng đến Chư Tăng, thì chính Như Lai cũng được dâng cúng.
Bà thỉnh cầu Đức Phật lần thứ hai, Đức Phật lại cũng từ chối. Bà thỉnh cầu lần thứ ba, Đức Phật cũng từ chối.
Ananda thấy thế không cầm lòng được bèn thưa:
- Bạch Ngài, xin Ngài nhận lãnh y do dì mẫu Gotami dâng cúng. Dì mẫu Gotami có rất nhiều ân đức với Ngài. Khi Phật Mẫu mất, lúc bấy giờ Ngài chỉ mới được sinh ra bảy ngày. Di mẫu đã dùng sữa của mình để nuôi dưỡng Ngài, và giao con mình cho người khác chăm sóc. Di mẫu đã có nhiều công đức với Ngài. Xin Ngài hãy nhận y do di mẫu dâng cúng. Thêm vào đó cũng do nhờ Ngài thuyết pháp mà dì mẫu đã đắc quả Tu Đà Hườn.
Nhưng Đức Phật vẫn không chấp nhận. Cuối cùng bà dâng y đến Chư Tăng.
Tại sao Đức Phật bảo bà Gotami đừng dâng y cho Ngài mà hãy dâng cúng đến Chư Tăng. Câu trả lời là Đức Phật muốn bà Gotami được phước báu nhiều hơn. Nếu bà dâng cúng đến Đức Phật thì bà chỉ được một ít phước báu. Nhưng dâng y đến Chư Tăng trong đó có cả Đức Phật bà được phước báu nhiều hơn. Để di mẫu Gotami gặt hái được nhiều phước báu, Đức Phật dạy bà dâng cúng y đến Chư Tăng. Đức Phật nói: "Hãy dâng cúng y đến Chư Tăng. Nếu dì mẫu dâng cúng y đến Chư Tăng thì Như Lai cũng được dâng cúng."
Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa câu này. Phải chăng Đức Phật cũng được bao gồm trong Tăng hay Đức Phật khác với Tăng. Ta có thể xem Đức Phật như là một vị Tăng hay không?
Khi xin tam quy ngũ giới các bạn đọc:
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng
Nếu nói Đức Phật bao gồm trong Tăng thì chúng ta chỉ cần đọc hai câu sau thôi và chỉ có nhị bảo thôi. Như vậy, Phật phải khác với Tăng hay tách rời khỏi Tăng.
Nhưng như thế thì tại sao Đức Phật lại bảo bà Gotami cúng dường đến Chư Tăng? Và dạy rằng khi cúng dường đến Tăng thì cũng là cúng dường đến Đức Phật vì Phật cũng bao gồm trong Tăng. Hai điều này có mâu thuẫn nhau chăng?
Một lần nọ, khi Đức Phật dạy Ananda về các loại cúng dường Đức Phật nói: Chẳng khi nào ta nói rằng cúng dường cá nhân đem lại nhiều phước báu hơn cúng dường đến Chư Tăng.
Nếu xem xét câu này một cách nghiêm túc thì chúng ta hiểu rằng: "Cúng dường cho Chư Tăng phước báu nhiều hơn cúng dường cho Đức Phật." Bởi vì, nếu chúng ta cúng dường cho Đức Phật thì Đức Phật cũng chỉ là một cá nhân để cúng dường. Nhưng trong chú giải lại nói Đức Phật là người xứng đáng nhất, phước báu nhất để nhận lãnh sự cúng dường. Như vậy, theo chú giải thì cúng dường Đức Phật phước báu lớn hơn, nhưng theo câu nói Đức Phật thì lại mâu thuẫn. Tôi nghĩ rằng cúng dường Chư Tăng đem lại lợi ích lớn lao.
Trong nhiều đoạn kinh, trong nhiều trường hợp, nhiều nơi Đức Phật dạy rằng: Cúng dường Chư Tăng đem lại nhiều kết quả. Bất kỳ lúc nào, nếu có dịp thuận tiện, chúng ta nên cúng dường đến Chư Tăng. Bởi vì, khi chúng ta cúng dường đến cá nhân vị Tăng (cá nhân tuyển thí) thì chúng ta nghĩ đến, hay kỳ vọng một điều gì đó nơi vị Tăng như đức hạnh chẳng hạn vì nghĩ rằng cúng đến vị sư có đức hạnh sẽ có quả báu lớn. Giống như trường hợp chúng ta trồng cây vào nơi đất màu mỡ. Bởi vì, ở đất có nhiều màu mỡ thì cây sẽ phát triển tốt đẹp v.v... Trồng cây vào nơi đất không có nhiều tạp chất, có hại cho cây thì cây mới đơm hoa kết trái tốt đẹp. Thật vậy, muốn cây có trái tốt bạn phải chọn đất tốt để trồng cây. Cũng vậy, khi bố thí cúng dường bạn cũng phải chọn người nhận lãnh cúng dường có giới luật trong sạch thì kết quả sẽ được dồi dào hơn, và bạn sẽ gặt được nhiều lợi ích hơn nếu cúng dường cho những người này.
Nhưng làm sao biết được tâm của người khác. Bạn có thể kính trọng vị nào đó, hài lòng với một cá nhân nào đó, nhưng bạn làm thế nào để đi vào tâm vị đó để biết vị đó thật sự như thế nào? Cũng có thể sự nhận xét của các bạn về một vị nào đó bị sai lầm, vị đó thật sự không trong sạch như sự đánh giá của bạn. Nhưng khi cúng dường cho Chư Tăng có nghĩa là toàn thể cộng đồng Tăng chúng, trong đó có thể có những vị không có giới đức trong sạch, nhưng không thể nào có việc là toàn thể Chư Tăng vị nào cũng đều không trong sạch. Chúng ta không thể nói cộng đồng Tăng chúng không trong sạch. Có rất nhiều vị Tăng trong cộng đồng Tăng chúng; một số có giới luật trong sạch, một số không trong sạch, nhưng chúng ta không thể nói toàn thể Chư Tăng đều không trong sạch. Đó là lý do tại sao cúng dường đến Chư Tăng mang lại phước báu nhiều hơn cúng dường cho cá nhân.
Khi các bạn dâng cúng y Kathina đến Chư Tăng, các bạn hãy chú tâm chánh niệm và ý thức sáng suốt khi dâng cúng y. Các bạn dâng cúng đến Tăng chúng, Tăng chúng có nghĩa là Tăng chúng trong sạch. Tăng chúng ở đây bao gồm cả cộng đồng Tăng chúng, bao gồm Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên và tất cả các vị thánh Tăng từ trước đến nay. Không có chuyện Tăng chúng không trong sạch, Tăng chúng không có giới hạnh; chỉ có cá nhân không trong sạch, cá nhân không có giới hạnh. Như vậy, dâng cúng đến Tăng chúng thuần tịnh thì sẽ đem lại nhiều phước báu lớn lao. Bởi vậy, trong lễ dâng y, điều chính yếu và quan trọng là được dâng cúng y đến Chư Tăng và Chư Tăng sẽ chọn một vị đại diện để thực hiện lễ cúng dường y Kathina.
Như vậy, khi dâng cúng y Kathina đến Chư Tăng, các bạn phải hiểu rằng, việc dâng cúng này đem lại nhiều lợi ích hơn việc cúng dường cá nhân đến các vị Tăng. Khi cúng dường phải hiểu rõ ràng trong tâm, hướng tâm đến việc cúng dường, đồng thời ý thức rõ rằng sự cúng dường này đem lại kết quả lớn lao. vì Chư Tăng nhận lãnh y Kathina gặt hái được năm lợi ích.
Tôi nghĩ rằng, các bạn cũng chưa hài lòng về việc cúng dường Chư Tăng đem lại phước báu nhiều hơn cúng dường đến cá nhân. Chẳng hạn, ngôi chùa của các bạn làm lễ cúng dường y Kathina chỉ có một vị sư, nhưng khi dâng y Kathina các bạn muốn cúng dường đến cộng đồng Chư Tăng. Bạn phải làm thế nào đây? Bạn có thể nghĩ rằng ngôi chùa không có cộng đồng Tăng chúng, nhưng bạn vẫn có thể cúng dường đến toàn thể Chư Tăng xuyên qua vị sư này. Khi cúng dường bạn phải hướng đến, nghĩ đến toàn thể Chư Tăng chứ không phải hướng đến cá nhân của vị Tăng ấy. Bạn có thể mang bộ y đến cúng dường tận tay cho cá nhân của một vị sư, nhưng trong tâm bạn phải hướng đến, nghĩ đến toàn thể Tăng chúng, phải nghĩ rằng bạn đang cúng dường đến toàn thể Chư Tăng bao gồm cả các vị thánh Tăng. Và cá nhân vị sư này chỉ là người đại diện cho toàn thể cộng đồng Tăng chúng. Làm như thế, mặc dầu cúng dường đến một vị sư, bạn đã cúng dường cho toàn thể Tăng chúng. Mặc dầu cá nhân vị sư được nhận lãnh, nhưng vị sư này đại diện cho toàn thể Chư Tăng. Chọn vị Sư làm đại diện là ý định của Chư Tăng chứ không phải là ý định của bạn. Ý định của bạn là cúng dường đến Chư Tăng và bạn đạt được phước báu của sự cúng dường đến Chư Tăng chứ không phải cúng dường đế cá nhân vị Sư.
Như vậy, mặc dầu trong chùa chỉ có một, hai, ba vị Tăng bạn vẫn cúng dường đến toàn thể Tăng chúng. Bởi thế, khi cúng dường chúng ta luôn luôn phải nghĩ đến cúng dường đến cộng đồng Tăng chúng. Chẳng hạn, khi bạn cúng dường thực phẩm đến Chư Tăng, bạn có thể nói: "Con xin cúng dường thực phẩm đến Chư Tăng", hay một câu tương tự như vậy. Với sự hiểu biết, với sự hướng tâm như vậy bạn cúng dường y Kathina đến Chư Tăng.
Cầu mong phước báu của sự cúng dường này là duyên lành hỗ trợ mạnh mẽ, giúp cho các bạn đạt đạo quả.
.Hạnh Cúng Dường Của Bà Gotami.
Xem ảnh với kích cỡ đầy đủ
...Lúc nọ, đức Thế Tôn lại ngự về thành Ca Tỳ La Vệ lần thứ nhì. Ngài ngự tại chùa Nigrodha, có vị Tỳ kheo mới xuất gia là tiền thân của đức Di Lặc cùng nhiều vị thánh và phàm Tăng đồng theo hầu Phật.
Lịnh bà Gotami là di mẫu của đức Thế Tôn hay tin đức Thế Tôn đã ngự về thành Ca Tỳ La Vệ, bà lấy làm thỏa thích vui mừng và nghĩ rằng: "Kể từ ngày đức Thế Tôn ngự về thành lần thứ nhất, đến nay là lần thứ nhì ta chưa hề được dâng cúng vật gì chính tay ta tạo ra. Nếu nói về sự cúng dường vật thực thì gia đình nào cũng có thể cúng dường được, nhất là đối với gia đình của hoàng gia thì càng dễ, vật thực càng quí giá. Vậy ta nên tạo ra bộ cà sa chính tay ta làm để cúng dường đến Phật. Sự thật hàng vải, lụa là, nhung gấm trong hoàng cung không thiếu, toàn là vật đắc giá, nhưng vẫn không xứng đáng với đức tin của ta muốn tạo ra vật quí. Ta muốn tự tay ta tạo ra một khổ vải để cúng dường đến Ngài, như vậy phước báu ấy mới hoàn toàn của ta".
Sau khi nghĩ xong, bà truyền gọi thợ bạc đến lấy vàng làm ra bảy chậu to lớn, lấy những lá cây thơm quí giá, ủ mục làm phân để vào những chậu vàng lớn trồng bông vải, tưới bằng sữa tươi và để hoa thơm vào. Chính tay bà vun phân tưới nước; khi có bông tự bà hái, bông vải ấy có màu vàng óng ánh như vàng thoi. Bà cho mời những người thợ chuyên môn giỏi nhất trong nước đến, truyền cất một tòa nhà to lớn đủ tiện nghi cho những người thợ dệt chuyên môn ở, trần nhà làm bằng những thứ hàng quí. Những người thợ ấy phải luôn luôn tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch nhất và phải có ngũ giới hay bát quan trai giới cho trong sạch. Bà lo kéo chỉ, sau khi thợ dệt đã dệt xong hai khổ vải, mỗi khổ mười bốn hắc tay, bà trả giá cho những người ấy rất hậu. Hai tấm vải ấy thật đẹp và rất quí giá, xứng đáng là vật cúng dường đến Phật bảo. Bà xem đi xem lại rất hài lòng việc làm của bà. Bà để hai tấm vải ấy trên mâm vàng rồi đội lên đầu đem vào chùa. Có rất nhiều phi tần và tín đồ nghe tin bà tạo hai tấm vải quí đem vào chùa dâng cúng Phật.
Khi đến chánh điện là nơi Phật đang ngự thuyết pháp giữa hàng ngàn Tăng chúng, thật là một nơi tôn nghiêm yên tịnh, hình như những người đang ngồi nghe pháp là những vị bằng hình tượng. Lịnh bà đảnh lễ đức Thế Tôn, ngó quanh thấy chư Tăng ngồi lặng yên thu thúc lục căn thật đáng lễ bái cúng dường, lòng kính thành và trong sạch của bà càng phát sanh mãnh liệt.
Lịnh bà bạch Phật rằng: "Bạch hóa đức Thế Tôn! đây là hai tấm vải vàng, tự tay tôi trông nom vun phân tưới nước, hái bông và quay chỉ. Sự cố gắng tạo nên hai tấm vải này do nơi đức tin lòng thành kính, ý nhất định làm để cúng dường ngay đến đức Thế Tôn. Xin Ngài thâu nhận để tôi được nhiều sự lợi ích an vui và hạnh phúc lâu dài".
Ðức Thế Tôn đáp: "Thưa nương nương, xin nương nương hãy dâng cúng hai tấm vải ấy cho chư Tăng, quả ấy còn cao thượng và quí báu hơn cúng dường riêng cho cá nhân của Như Lai. Khi nương nương cúng dường cho Tăng là nương nương cúng dường cho Như Lai và Tăng chúng.
Lịnh bà Gotami yêu cầu đức Thế Tôn lần thứ nhì, lần thứ ba nhưng đức Thế Tôn vẫn từ chối không thọ lãnh và cũng dạy nên đem cúng dường cho Tăng cao thượng hơn.
Nơi đây, trong chú giải có để câu: "Tại sao lịnh bà Gotami là di mẫu của Phật dâng cúng đến Ngài mà Ngài không thọ lãnh. Trái lại, dạy đem cúng dường cho Tăng có phước báu cao thượng hơn? Vậy có phải ân đức Tăng bảo cao thượng hơn Phật bảo chăng?"
Ðáp: "Sở dĩ đức Thế Tôn không thọ lãnh vì Ngài muốn làm cho quả bố thí của lịnh bà Gotami cao thượng hơn. Vì khi lòng bà trong sạch muốn cúng dường cho đức Thế Tôn, đây gọi là PUGGALIDÀNA nghĩa là cá nhân tuyển thí, là bố thí còn chọn người mình kính mến thương yêu riêng.
Hơn nữa, lòng trong sạch của bà thật cao thượng; lòng trong sạch ấy đủ ba nguyên nhân trong ba giai đoạn mà người thí chủ nào muốn được phước đầy đủ phải có là:
1.- PUBBACETANÀ: Tâm trong sạch vui vẻ trước khi làm phước như bố thí v.v...
2.- MUNCANACETANÀ: Tâm trong sạch vui vẻ trong khi đang làm phước.
3.- APARAPARACETANÀ: Và tâm trong sạch vui vẻ sau khi đã làm phước xong.
Vì nguyên nhân kể trên, đức Thế Tôn muốn cho bà cúng dường đến Tăng chúng, không lựa chọn một cá nhân nào tự bà kính mến cúng dường. Khi người còn chọn đối tượng để đem của ra bố thí, chính người ấy còn bị phiền não lẫn vào làm cho tâm không được hoàn toàn trong sạch, vì người bố thí còn lẫn trong sự lựa chọn bởi thương mến riêng của một cá nhân. Người ấy bố thí với phiền não chớ không phải bố thí do nơi trí huệ quan sát thấy vô thường, khổ nảo, vô ngã để mau giải thoát khỏi phiền não.
Cao thượng hơn, đức Thế Tôn muốn cho tín đồ hiểu rõ rằng: sự cúng dường đến Tăng bảo có quả báu cao thượng. Hơn nữa, đức Thế Tôn biết rằng: Ngài sẽ nhập diệt, chỉ còn Pháp và Tăng tồn tại đến năm ngàn năm. Nếu người chỉ biết cúng dường đến Phật bảo, sau khi Phật nhập diệt thì tín đồ không cúng dường đến chư Tăng thì làm sao chư Tăng sống được? Phật giáo làm sao tồn tại đến năm ngàn năm? Vì lý do kể trên nên Ngài không thọ lãnh vật cúng dường của bà Gotami. Còn nói về phước đức nhiều hay ít, không có vật gì có thể đo lường hai công đức của Phật và Tăng được.
Khi đức Thế Tôn không thọ lãnh vật cúng dường của bà, bà thất vọng và rất buồn tủi không biết giải bày nỗi khổ ấy cùng ai, chỉ biết khóc mà thôi. Bà liền nhớ đến Ðại đức Ananda, bà vội đến tư thất của ngài và bạch rằng: "Bạch Ðại đức! Không biết tôi có lỗi gì, đức Thế Tôn không vui lòng thọ lãnh hai tấm vải của tôi cúng dường. Tôi cầu xin Ngài vui lòng giúp tôi đến bạch xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi thọ lãnh hai tấm vải cho tôi được sự lợi ích bình an lâu dài".
Ðức Ananda nhận lời vào hầu Phật và bạch với đức Thế Tôn rằng: "Bạch hóa đức Thế Tôn! xin ngài mở lượng đại từ đại bi thọ lãnh hai tấm vải của bà Gotami, chính bà là di mẫu của Ngài. Khi Ngài vừa sanh được bảy ngày Phật mẫu thăng hà, lịnh bà Gotami giao con đẻ của mình là Nanda cho phi tần trông coi, còn chính lịnh bà săn sóc ngài. Ngài đã bú sữa của bà từ ngày ấy cho đến khi trưởng thành, vậy ơn ấy là dường nào. Hơn nữa hiện nay, lịnh bà là tín nữ đã thọ Tam qui, trì ngũ giới, và đắc quả Tu đà hườn, người thấy Tứ Diệu Ðế bằng tuệ nhãn, không còn nghi ngờ về Tam bảo thật là người đáng cho đức Thế Tôn tế độ".
Ðức Thế Tôn phán rằng: "Người như bà Gotami rất đáng cho người đời kính nể. Nhưng sự cúng dường tứ vật dụng đến các bực giáo chủ như Như Lai bằng phương pháp trả ơn thật là việc không nên làm. (Ý đức Thế Tôn dạy rằng không nên làm phước thuộc về cá nhân tuyển thí, vì bà nhọc công làm để cúng dường cho một người, mà người ấy là cháu bà).
Rồi đức Thế Tôn thuyết bài pháp gọi là PATIPUGGALIDAKKINÀDÀNÀ (nghĩa là cúng dường chân chánh, còn chọn người để cúng dường). Trong đoạn Dakkhinàvibhanga như vầy: "Này Ananda! Cá nhân tuyển thí có mười bốn hạng là:
1.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay đức Chánh đẳng chánh giác làm đối tượng (là người thọ) cúng dường.
2.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay đức Phật Ðộc giác làm đối tượng cúng dường.
3- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị đại A la hán, đệ tử của Phật làm đối tượng cúng dường.
4.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để chứng quả A la hán làm đối tượng cúng dường.
5.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị A na hàm, đệ tử của Phật làm đối tượng cúng dường.
6.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang hành đạo để đắc quả A na hàm, làm đối tượng cúng dường.
7.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị Tư đà hàm, đệ tử Phật làm đối tượng cúng dường.
8.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để đắc Tư đà hàm, làm đối tượng cúng dường.
9.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị Tu đà hườn, đệ tử Phật làm đối tượng cúng dường.
10.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để đắc quả Tu đà hườn, làm đối tượng cúng dường.
11.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị đạo sĩ ngoài Phật pháp đã đắc Ngũ thông, làm đối tượng cúng dường.
12.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay người tại gia cư sĩ có giới đức, làm đối tượng cúng dường.
13.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay người người cư sĩ không có giới đức, làm đối tượng cúng dường.
14.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay một loại thú nào làm đối tượng cúng dường.
Này Ananda, sự bố thí cho loài thú có ơn với người (gia súc như trâu bò v.v...), hoặc bố thí cho những con thú khác không có ân với người, sự bố thí của người thí chủ ấy chỉ mong diệt phiền não, hay bố thí cho người nghèo một bữa ăn no lòng mà có lòng diệt phiền não chứ không mong phước nhiều ít, người ấy sẽ được hưởng phước năm trăm kiếp; sẽ được năm điều quả báo: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh và nói năng hoạt bát.
Nếu người thí chủ bố thí cho người không có giới đức sẽ được năm điều quả báo như trên một ngàn kiếp. Nếu người thí chủ bố thí cho người phàm nhơn nhưng có giới đức trong sạch sẽ được hưởng quả báo kể trên muôn kiếp. Bố thí đến vị thiện nam hay tín nữ có giới đức trong sạch, hay vị Sa di hoặc thầy Tỳ kheo mới xuất gia lo hành thiền định, phước người được hưởng tùy theo sự trong sạch của người thọ thí mà trả quả cho người thí chủ. Bố thí đến vị tu hành hầu đoạt quả Tu đà hườn trở lên, mà tâm người thí chủ trong sạch cố diệt phiền não chứ không chọn người tùy thích để bố thí, phước ấy vô lượng vô biên.
Ananda này, sự cúng dường đúng theo lẽ chánh cũng gọi là trai Tăng, hay cúng dường đến Tăng có bảy điều là:
1.- Cúng dường có đủ hai phái Tăng (Tỳ kheo Tăng và Tỳ kheo Ni), có đức Thế Tôn chủ tọa.
2.- Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt người chỉ cúng dường hai phái Tăng.
3.- Hoặc cúng dường cho một phái Tỳ kheo Tăng.
4.- Hay cúng dường đến Tỳ kheo Ni.
5.- Hoặc thí chủ đến nơi vị Ðại đức (Tỳ kheo) người có phận sự chia cho chư vị Tỳ kheo khác đi thọ thực các nơi khi thí chủ đến thỉnh đi trai Tăng, xin ngài chia cho bao nhiêu vị Tỳ kheo tùy theo sức của mình về nhà cúng dường.
6.- Người thí chủ đi đến nơi của Tỳ kheo Ni, chỗ vị có phận sự chia Tỳ kheo Ni đi thọ lễ cúng dường của thí chủ, thỉnh bao nhiêu vị tùy theo khả năng của mình về nhà cúng dường.
7.- Hoặc đến nơi của Tỳ kheo Tăng hay Ni xin thỉnh một vị về nhà làm lễ trai Tăng. Khi ấy các vị có phận sự cho vị Tỳ kheo nào đến nhà cũng được.
Bảy điều Như Lai đã giải trên, về sau có một vị Tỳ kheo phá giới tạm gọi là Tăng (vì không còn có giới đức), bọn ấy chỉ mặc một cái choàng vàng nhỏ, hoặc một miếng vải vàng ở cổ mà tự xưng là vị Tỳ kheo.
Thí chủ trong sạch cúng dường đến hạng Tỳ kheo phá giới ấy, nhưng trong thâm tâm nghĩ rằng: đây là bố thí đến Tăng. Phước ấy có nhiều đến A tăng kỳ kiếp. Như Lai không hề vì một lẽ nào dạy rằng; cá nhân tuyển thí có phước hơn cúng dường đến Tăng. Sự thật cúng dường đến Tăng phước báu nhiều hơn cá nhân tuyển thí.
Ananda này, cúng dường cao thượng ấy có bốn điều là:
1.- Sự cúng dường cao thượng ấy là phần thí chủ trong sạch.
2.- Sự cúng dường cao thượng ấy là phần vị thọ thực trong sạch.
3.- Sự cúng dường cao thượng ấy trong sạch cả hai bên.
4.- Sư cúng dường ấy cả hai bên không bên nào trong sạch (nghĩa là người thí chủ cũng như người thọ thí không ai trong sạch) toàn là hạng phá giới.
Rồi đức Thế Tôn tự vấn rằng: "Ananda này, thế nào gọi là trong sạch một bên?"
Ngài tự đáp: "Nghĩa là người thí chủ có giới đức nhưng vị thọ thí không có giới. Như thế này Như Lai gọi là bố thí cao thượng trong sạch một bên là thí chủ, còn người thọ thí không trong sạch.
Sự cúng dường cao thượng mà người thí chủ không trong sạch là thế nào? Nghĩa là người thọ thí là người có giới đức hành phạm hạnh, còn người thí chủ không có giới đức. Ðây gọi là sự cúng dường cao thượng trong sạch do nơi người thọ thí có gới đức.
Thế nào là trong sạch cả hai? Thí chủ và người thọ thí đều cùng trong sạch. Nghĩa là thí chủ cũng như người thọ thí đều có giới đức trong sạch hành phạm hạnh, như thế gọi là sự cúng dường cao thượng trong sạch cả hai bên.
Thế nào là sự cúng dường không trong sạch cả hai bên? Nghĩa là người thí chủ cũng như người thọ thí cả hai đều không có giới đức, không bên nào có hành phạm hạnh".
Trong chú giải có đặt ra câu hỏi rằng: "Tại sao đức Thế Tôn đem sự cúng dường cao thượng có bốn điều dạy trong trường hợp này?"
Ðáp: Vì trong cách bố thí có bốn điều khác nhau là:
1- Người thí chủ có phạm hạnh trong sạch.
2.- Người thọ thí có phạm hạnh trong sạch.
3- Người bố thí lẫn người thọ thí đều có phạm hạnh trong sạch.
4- Người bố thí lẫn người thọ thí không có phạm hạnh trong sạch.
Nơi đây ý nói rằng: Theo cá nhân của một vị Tỳ kheo phá giới nghĩa là không có giới đức chi cả. Nhưng nếu nói chung là Tăng thì Tăng không bao giờ phá giới. Tăng đây là chỉ chung một số các vị Tỳ kheo đã đắc Thánh quả. Vì người cúng dường có tâm trong sạch hướng về Tăng, nên sự cúng dường của thí chủ được quả cao thượng, tâm không hướng vào cá nhân cúng dường.
Ðức Thế Tôn liền thuyết thời pháp gọi là DAKKHINADÀNA, nghĩa là bố thí đúng theo lễ chánh, làm cho tín đồ đượm nhuần lý thuyết cao siêu mầu nhiệm của pháp bảo, nên diệt bỏ lòng trong sạch riêng với một cá nhân.
Có hai hạng thí chủ là:
1.- Có người trong sạch riêng với cá nhân nên khi bố thí chọn ngay vị hay người chính mình trong sạch cúng dường. Ðây là nhân làm cho tâm người thí chủ chồng chất thêm nhiều phiền não, chứ không có ích gì đến sự tu tập, đã bỏ việc thương yêu thân thuộc đi tìm thêm kẻ thân thuộc bên ngoài.
2- Có hạng thí chủ tâm hướng về các bậc xuất gia, vị nào hay người nào cũng được cần đến của cải mình đã có và sẵn lòng mang ra cho không hối tiếc, không cần biết người ấy là ai.
Thời pháp đức Thế Tôn dạy về cúng dường làm cho lòng người mát mẻ và hiểu rõ chân lý của Phật. Có thể ví như trời mưa to trong mùa hạn hán, làm cho đất được rút lấy nước thấm nhuần cho cây cỏ xinh tươi. Cũng có nghĩa là tâm người thiếu trí tuệ chỉ biết trong sạch cá nhân, sau khi nghe lời Phật dạy làm cho tâm sáng suốt không còn tối mê để rước thêm phiền não vào tâm mà không hay biết.
Khi lịnh bà Gotami được nghe thời pháp ấy làm cho tâm bà mát mẻ vì hiểu tại sao đức Thế Tôn không thọ lãnh vật cúng dường của bà, vì muốn phước báu bà cao thượng xứng đáng với tâm trong sạch và công khó của bà đã cố tạo...
Lược trích trong cuốn: LỊCH SỬ ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM, thiên thứ tám, trang 230
. Tác giả: Maha Thong Kham Medhi Vongs.