Đạo Phật ngoài triết
lý cao siêu vi diệu ra, còn có cả một kho tàng vô giá về mặt nghệ
thuật, văn hóa và đời sống tâm linh, trong đó Nghi lễ Phật giáo đóng
một vai trò rất quan trọng.
Tuy
khác nhau về ngôn ngữ, hình thức nhưng mỗi dân tộc mỗi quốc gia đều
phải học và hiểu như nhau về mặt triết lý cao siêu của Đức Phật . Vì để
tạo nên một nét rất riêng biệt, một tính cách không thể lẫn vào đâu của
văn hóa Phật giáo mỗi nước, chính là nhờ vào nền văn hóa nghệ thuật của
quốc gia đó. Điều này cũng khẳng định rằng, văn hóa luôn giữ một vai
trò quan trọng trong việc phát triển tôn giáo nói chung và Phật giáo
nói riêng.
Phật
Giáo Việt Nam suốt quá trình hội nhập với văn hóa Việt Nam cũng đã
khẳng định được điều đó thông qua các tác phẩm nghệ thuật bao gồm các
công trình mang tính tâm linh Phật giáo, như chùa, tháp, điêu khắc,
nghi lễ và âm nhạc Phật giáo. Hôm nay và mai sau cũng vẫn với bản sắc
như vậy, nhưng Nghi lễ Phật giáo đóng một vai trò rất quan trọng trong
việc hoằng truyền chánh pháp.
HOẰNG PHÁP VỚI NGHI LỄ PHẬT GIÁO
Từ
rất xưa chư vị Tổ Sư đã dùng Nghi lễ vào việc hoằng pháp lợi sanh, mang
triết lý vi diệu đến với con người và kết nối dân tộc Việt Nam chúng ta
thành một khối đại đoàn kết, thông qua việc làm các pháp sự đạo tràng,
lập đàn giải oan bạt độ, lễ cầu an, cầu siêu, chẩn tế v.v. trên tông chỉ
“nhạc dĩ tải đạo” các Ngài đã biết sử dụng âm nhạc để truyền tải chân
lý của Đức Phật đến với mọi người, nhằm hướng họ quay về với chánh
pháp. Ngày xưa những pháp hội đều có nghi tiết thuyết pháp, và thường
thì thính chúng rất đông, hình thức như vậy trong dân gian gọi là “Lễ
hội”
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp thanh”
Trích truyện Kiều
Với
Đạo Phật thì Lễ là “Nghi Lễ” hội là “Pháp Hội”. Nghi lễ Phật giáo hay
nói cách khác là lễ nhạc Phật giáo, nó vừa mang tính nghệ thuật gợi
lên cảm xúc và mang tính tâm linh. Hoằng pháp bằng nghi lễ là một sự
tiếp cận Phật pháp tuyệt vời. Trong bộ môn Nghi Lễ bao hàm cả một hệ
thống triết lý rất thâm uyên, gồm thâu cả Thiền -Tịnh, tánh tướng thì
dung thông quyền, thật, đốn, tiệm, hiển, mật.
Lễ
nhạc từ xưa đã được con người đón nhận bằng sự trân trọng và thành
kính, được phổ biến rộng rãi trong dân gian và mọi lĩnh vực của nhân
loại, vì thế nghi lễ Phật giáo là một thứ ngôn ngữ chung của thế giới
hữu tình.
Nghi
lễ trong đạo Phật là một trong sáu món cúng dường dùng để dâng lên Chư
Phật, với làn điệu thiền vị du dương, thinh âm ấy có một sức mạnh
chuyển hóa nhân tâm, và năng lượng hùng hậu làm cho cuộc sống được bình
an vững chãi.
Khởi
nguyên của Nghi lễ Phật giáo được phát xuất từ Vệ Đà (veda). Một trong
những âm nhạc cổ đại dựa trên nền văn hóa Ấn Độ, Đức Phật của chúng ta
cũng thường dùng Dà Đà (kệ tụng) để làm phương tiện truyền đạo, đồng
thời Ngài cũng khuyến khích các vị đệ tử chuyên chú vào việc đọc tụng
kinh (thanh bái). Trong bộ luật Thập Tụng có đoạn: Thế Tôn khen ngợi
thầy Bạt Đề rằng: “ Cho phép ông được trì tụng kinh văn theo cách Dà Đà”
như vậy thì từ thuở sơ khai Đức Phật đã sử dụng âm nhạc để chuyển tải
giáo pháp, đó là một hình thức hoằng pháp rất thiết thực mà thời đại nào
hay quốc gia nào thông qua đó cũng điều tiếp nhận được.
Phật
Giáo Việt Nam vào buổi sơ khai, được các vị tổ như: Khương Tăng Hội, Tỳ
Ni Đa Lưu Chi .v.v. dung hòa những bài giáo điển của đức Phật thể hiện
qua các làn điệu được gọi chung là “Hát Kể Hạnh” để truyền tải phạm âm
đến với mọi người, như vậy chúng ta biết rằng, quí Ngài đã dùng nghi lễ
làm phương tiện truyền đạo, để rồi trên hai ngàn năm, cũng bằng phương
tiện ấy chúng ta truyền giáo pháp của đức Phật đi khắp năm châu, mang
lại lợi ích cho nhân loại.
Lời
pháp của Đức Phật khi được nghi lễ hóa bằng những làn điệu nhịp nhàng,
tự nó sẽ có một sự truyền tải rất lớn trực tiếp đến người nghe, du dương
như nước chảy, nhẹ nhàng hòa quyện như làn khói hương, thanh thoát như
tràng phan, trầm hùng như tuyết sơn Phật tích, hằng chấn như pháp cổ,
thấu triệt như đại hồng chung. Bởi vậy giá trị của nghi lễ Phật Giáo
không chỉ dừng lại ở nơi tuyệt tác văn chương bác học, mà còn thể hiện
được định lực của người tu hành, sự thanh tịnh hòa hợp của tứ chúng.
NGHI LỄ PHẬT GIÁO ĐI VÀO ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI
Hiện
nay đời sống được nâng cao, tâm linh, văn hóa, giáo dục cũng được các
quốc gia đưa lên hàng đầu. Bởi vậy việc hoằng pháp bằng con đường Nghi
Lễ Phật giáo là hết sức cần thiết và kết quả rất khả quan.
Tuy
nhiên nói như vậy cũng không phải là không có mặt hạn chế của nó, hiện
nay một bộ phận người đến chùa chỉ lo việc cúng bái mà quên đi việc học
hỏi giáo lý để tu tập. Nghi lễ là đưa con người đến với đạo Phật , là
phổ tế quần sanh, nhưng để được giải thoát khỏi sinh tử thì chúng ta cần
phải tu tập.
Nghi
lễ Phật giáo là linh hồn và là sức sống của đạo Phật, là văn hóa phi
vật thể. Xã hội hiện đại hôm nay và thế kỷ 21 là thế kỷ của Tâm Linh,
thì việc đem bộ môn Nghi lễ Phật giáo ứng dụng vào việc hoằng pháp, rất
khế cơ, khế lý và khế thời. Tuy nhiên dù ở bất cứ lĩnh vực nào thì bản
thân của những vị làm công tác hoằng pháp cũng phải an trụ vào nơi
chánh pháp, hình ảnh như vậy chúng ta mới loại trừ được các tệ nạn hiện
nay của một bộ phận “ Hành nghề cúng bái”.
Nói
đến Nghi Lễ là nói đến sự tướng trang nghiêm, hòa âm thiền vị, pháp hội
trang nghiêm, nghi tiết chuẩn mực, ấy mới là đáp ứng được các tiêu
chuẩn và giới thiệu hình ảnh của Đức Phật cùng Chúng Trung tôn đến với
mọi người. Chúng ta cần chế tác giáo lý của đức Phật thành những điều
phù hợp với căn cơ và nhận thức của đại đa số quần chúng thông qua Nghi
lễ Phật giáo. Rồi từ đó mang đạo Phật vào khắp các nẻo đường. Thời đại
Đức Phật và hiện nay, lúc nào công tác hoằng dương chánh pháp là vô
cùng quan trọng mà người con Phật phải luôn hoàn thành một cách tận tâm
và xuất sắc.
Người
hoằng pháp bằng nghi lễ Phật giáo có thể gồm những người thực hành nghi
lễ, người truyền bá nghi lễ, cần nên hội tụ ba tố chất như sau:
1. Thanh văn tướng hảo trang nghiêm.
2. Có chiều sâu về định lực và giới luật và tu tập tâm linh.
3. Có chiều sâu về nghi lễ Phật giáo.
Trong “Khoa Du Già diệm khẩu” có nói rằng; “Chí tâm tín lễ tăng già da, chúng trung tôn, ngũ đức sư, lục hòa lữ, lợi sanh vi sự nghiệp, hoằng pháp thị gia vụ” Nhiệm vụ ấy nói lên khí phách của bậc xuất trần thượng sĩ, hình ảnh của chánh pháp giữa cuộc đời hôm nay và mãi mái về sau.
Trong
thời đại mới, nghi lễ nên đưa vào giảng dạy tại các trường Phật học,
những gì cần việt hóa thì nên việt hóa, cần tính truyền thống thì nên
giữ lại, các nghi tiết, làn điệu tùy theo vùng miền cần được phát huy và
giữ nguyên giá trị, tránh sự pha tạp làm mất đi bản chất vốn có xưa nay
của nghi Lễ Phật Giáo.
KẾT LUẬN:
Nghi
Lễ Phật giáo chính là một chương tuyệt tác trong kho tàng giáo lý thậm
thâm, mà Đức Thế Tôn đã chứng và thể nghiệm, chư vị Tổ Sư tiếp nối. Hôm
nay dùng phương tiện ấy đưa chúng sanh trở về với chánh pháp, xa rời ngũ
trược thế gian, mãi nở đóa hoa sen tuệ giác. Góp một phần quan trọng
vào công cuộc xây dựng và phát triển quê hương Việt Việt nam của chúng
ta ngày một tươi đẹp, làm tròn trách nhiệm hộ quốc an dân của người con
Phật đối với Tổ quốc.
Lời Kinh chánh niệm ngân vang
Chánh tín Tam Bảo thoát đàng tử sanh.
Người
học Phật cần phải biết tùy duyên nhưng bất biến, ứng dụng nghi Lễ vào
cuộc đời nhằm mục đích xương minh Phật pháp, lợi lạc quần sanh. Ấy chính
là tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức.
Kính chúc Pháp hội vô lượng an lạc trong hào quang Chư Phật .