Nhưng đời thực của ni cô Huyền Trang thì còn tiếp tục đến ngày hôm nay.
Bà là Phạm Thị Bạch Liên - nữ chiến sĩ dũng cảm của lực lượng biệt động
Sài Gòn với cái tên ni cô Diệu Thông. Ở tuổi 81, bà đang sống trong
những ngày khó khăn của định mệnh…
Nỗi cô đơn thăm thẳm
Bà Bạch Liên đang điều trị tại bệnh viện Nguyễn Trãi, TP. HCM. Ở tuổi
81, bà gần như phải đối chọi với bệnh tật một mình. Đứa cháu ruột
thỉnh thoảng đưa đồ ăn đến và một phật tử tình nguyện lâu lâu ghé chăm
sóc một lần. Khi chúng tôi đến, bà vui cười ra mặt. Nhưng đụng vào
chuyện đời, thì những tiếng khóc buồn tủi, xót xa xen lẫn vào những câu
chuyện bà kể. Như thể lâu lắm mới có người nghe những tâm tư, cảm xúc
trong lòng bà. Bật khóc rồi cười, hệt như những nét đứt đoạn trong cuộc
đời đầy gian nan "đạo - đời" của ni cô Diệu Thông.
Có thể nói, đoạn sau đời bà không hề bị ngược đãi. Nhà nước từng tặng
bà căn nhà tình nghĩa ở quận Gò Vấp. Đã có lúc trường phổ thông cấp
2-3 Nguyễn Thị Diệu ở quận 3 tặng bà căn nhà ở phường Hiệp Thành, quận
12. Nhưng số phận buộc bà phải dính với đường tu, nên ở căn nhà này
được một thời gian bà để lại cho đứa cháu, rồi quay lại chùa Trúc Lâm,
quận Gò Vấp tụng niệm thờ Phật. Tháng Chạp năm trước, bà về chùa Thất
Bửu ở Long Xuyên (An Giang) xuống tóc xuất gia trở lại. Ngày ngày bà ở
một mình ngay cạnh chùa để tiện cho việc tu hành.
Nhưng, bệnh tật không buông tha cho người già, dù cả đời bà ăn chay
thanh khiết. Những năm tháng dài khó khăn thời chiến, thêm tuổi ngày
càng cao nên những căn bệnh cứ rủ nhau tìm đến. Bà mang đủ chứng bệnh
như đau, loét bao tử, áp huyết cao, tiểu đường… Sức bà yếu như ngọn nến
trong gió. Nhưng có lẽ đau bệnh chưa phải là điều khiến bà đau buồn
nhất…
"Cuộc đời tôi là một trang sách đã được lật qua rồi nên chắc ít ai
còn nhớ! Tôi xuất gia từ nhỏ, tham gia cách mạng. Sau giải phóng, ngoài
làm việc ở Bộ Tư lệnh thành thì tôi vẫn phải lận đận mưu sinh, phải
bươn chải biết bao nghề như xe nhang, làm trà, nước tương… để kiếm
sống, vậy mà cái số lận đận vẫn hoài lận đận. Tôi không trách, vì cái
gì theo chính sách thì mình đã nhận rồi. Chỉ thấy buồn, thấy tủi vì
mình hẩm phận, đơn côi", những giọt nước mắt bật ra, chảy tràn trên
gương mặt già nua của người đàn bà một thời nhan sắc.
Trước khi lên Sài Gòn chữa trị ở bệnh viện Nguyễn Trãi, mấy tuần
trước đó trong một lần đi xe đò từ Long Xuyên về Sài Gòn, đi được nửa
đường tới Sa Đéc (Đồng Tháp) thì bà bị gần như ngất xỉu trên xe. Người
nhà xe chẳng đoái hoài gì tới mà còn dừng xe lại cho bà xuống nằm ở một
băng đá trên vỉa hè. Sau một hồi nằm nghỉ, bà lấy điện thoại gọi cho
một phật tử nhờ đưa tới bệnh viện…
Nằm viện ở Sa Đéc gần cả tháng trời chẳng ai ngó ngàng. Mãi sau, một
nữ dược sĩ biết chuyện nên viết thư tay cho giám đốc bệnh viện "trình
bày hoàn cảnh" giúp bà, từ đó bà mới được đưa lên điều trị ở phòng dịch
vụ có điều kiện tốt hơn.
Bà nhớ lại, sau khi về hưu, bà vẫn cùng các tăng ni đi khẩn hoang ở
Đồng Tháp Mười, tham gia công tác đoàn thể ở địa phương… Từ đó đến nay,
mong ước xây dựng lại ngôi chùa Tam Bảo như ngày xưa của bà luôn cháy
bỏng, nhưng vì nhiều lý do không thể nào thực hiện được. Để giúp bà đỡ
khó khăn trong cuộc sống, Nhà nước đã cấp cho bà một căn nhà tình nghĩa
ở TPHCM.
Bà tu tại gia và tiếp tục mở lò bánh mì, làm trà, xà bông… lao động
vất vả để lo cho cậu con nuôi mà bà đã nhận nuôi từ tấm bé những mong
về già sẽ có người
chăm
sóc, hủ hỉ. Vậy nhưng, chính vì nó mà bà phải đành bán đi căn nhà để
trả nợ thay và sống lay lắt một mình… Đến cuối năm 2000, trường PT cấp
2-3 Nguyễn Thị Diệu thương cảm đã xây cho bà một căn nhà tình nghĩa ở
quận 12, từ đó bà có chỗ ở ổn định hơn.
Tập tài liệu do bà sắp xếp và biên soạn ->
"Tôi nhận nuôi nó từ nhỏ có giấy tờ đàng hoàng, tôi thương nó như con
mình đẻ ra, nhưng có lẽ được nuông chiều quá nhiều nên nó hư… Nhưng
giờ thì mọi chuyện đã qua hết rồi, giờ nó có gia đình con cái và đang
mở quán cơm chay ở Gò Vấp… Bao nhiêu đó cũng đã báo hiếu cho tôi đủ
rồi" - giọng bà như lạc hẳn đi. Bà nói vậy nhưng dường như không phải
vậy. Dường như bà mong một điều gì đó gần gũi, tình cảm hơn trong tình
mẹ con. Bà nói, dù con nuôi không đủ thảo, nhưng con gái của nó luôn tỏ
ra thân thiện, hiếu thảo với bà, nên bà bỏ qua mọi chuyện, coi như đó
là một phần của số phận mình.
Trời cho gì nhận nấy!
"Niềm vui lớn nhất của tôi lúc này là đạo pháp, hàng ngày được gần
Phật, được nghe tiếng chuông, tiếng mõ để cầu mong tự giải thoát cho
mình và giải thoát cho những vong linh mà một thời mình đã làm cho
người ta đau khổ. Vậy thôi, bởi dù sao tôi thấy mình cũng đã không chọn
sai đường. Chuyện gì cũng qua hết rồi, số phần của mình có thế nào thì
mình chịu vậy chứ sao giờ", bà nói mà như tự nhủ với lòng mình.
Dù là người nhà Phật từ năm lên 7 tuổi - xuất gia tại một ngôi chùa ở
Đồng Tháp, sau đó được cử đi học trường tu hành ở Huế, nhưng với tấm
lòng yêu nước nhiệt huyết, nên khi về Sài Gòn năm 1959, bà đã nhanh
chóng móc nối ngay với các tổ chức cách mạng, rồi trở thành thành viên
nòng cốt trong các cuộc đấu tranh chống Diệm của tăng ni phật tử.
Bà quyết định cùng người cháu là Thích Viên Hảo xây dựng ngôi chùa
đặt tên là Bổn Nguyện tọa lạc tại số 82B Trần Quốc Toản (nay là đường
3/2, P.12, Q.11). Chính tại ngôi chùa này đã trở thành nơi may cờ, in
ấn tài liệu, truyền đơn cho cách mạng. Không may sau đó giặc phát hiện
nên chùa đã bị đốt trụi.
Một lần nữa, bà cùng các tăng ni xây dựng lại, lấy tên là chùa Tam
Bảo. Không lâu sau, bà được gặp đồng chí Tư Chu (Anh hùng, Đại tá
Nguyễn Đức Hùng) - chỉ huy trưởng lực lượng biệt động Sài Gòn - Chợ
Lớn, từ đây bà chính thức trở thành chiến sĩ biệt động thành với bí
danh Chín Tô.
Đầu năm 1969, trước nhiệm vụ được cấp trên giao phó là bằng mọi giá
phải gây tiếng nổ ở những nơi làm địch bất ngờ nhất, sau khi điều
nghiên, bà và cả tổ công tác đã bàn bạc nhắm mục tiêu đầu tiên là
thượng viện Sài Gòn. Trận này có năm người gồm: bà, chị Tám A, Tuyết
Điểu, Mai và Thanh.
Sau
khi chạy ngang qua hội trường để xem xét tình hình, bà đã làm ám hiệu
để cả nhóm chia làm ba mũi lao đến ném thủ pháo vào các cửa rồi nhanh
chóng rút lui… Trận đánh cư xá sĩ quan hải quân độc thân Mỹ của bà cùng
bốn đồng đội vào tháng 7/1969 làm chết và bị thương trên 30 tên địch
đã gây tiếng vang lớn. Sau trận này, bà đã được cấp trên tặng thưởng
Huân chương Chiến công hạng 3…
<- Lá thư tay kêu gọi sự giúp đỡ.
Vui mừng trước sự công nhận các chiến công nhưng có lẽ suốt cuộc đời
này bà không thể nào quên được các đồng đội đã sát cánh cùng mình và
nhất là những hy sinh mất mát của họ như: hai đồng đội của bà là Tám A
và Rỷ đã hy sinh ngay trước mắt bà khi họ đưa quả mìn tới gần để phá
hủy chiếc xe ca chở quân Mỹ vào một ngày tháng 5/1969.
Hay ngày Sáu Thu bị bắt gần chùa khi chạy chiếc Mobilette của bà chở
truyền đơn, dù bị địch tra tấn dã man nhưng chị nhất quyết không khai
ra bà và các đồng đội, đã khiến bà quặn lòng. Rồi đến lượt Tuyết Điểu,
Liên cũng bị sa vào tay giặc, bị đánh đập tàn nhẫn nhưng vẫn một lòng
một dạ sắt son... Cuối năm 1969, chùa Tam Bảo bị giặc phát hiện, sau đó
bị san bằng, chúng bắt đi nhiều cán bộ và chiến sĩ của ta, bà và đại
đức Thích Viên Hảo cũng bị bắt và tra tấn dã man…
Thời gian sau, khi đã được tự do, bà tiếp tục được cấp trên là Anh
hùng Tư Tăng (Nguyễn Văn Tăng) - Cụm trưởng Cụm Biệt động 345 chỉ đạo
củng cố và xây dựng lực lượng tại chỗ chờ thời cơ. Đến tháng 4/1974
được sự móc nối của Anh hùng Tư Tăng, bà tiếp tục hoạt động ở Lữ đoàn
biệt động 316 (phiên hiệu là Z32) thuộc Bộ chỉ huy miền B2 và tiếp đó
hoạt động phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đại thắng mùa xuân
1975… Với những chiến công vang dội như vậy, bà và nhiều đồng đội của
bà đã được ghi vào lịch sử truyền thống TP.HCM.
Vừa kể vừa với tay lục tìm tập tài liệu do bà tự mình sắp xếp, biên
soạn - trong đó là những bài bút ký, cảm nhận và cả những bài thơ "nghĩ
sao viết vậy" do bà sáng tác. Lật giở từng trang, có thể thấy bà đã
cẩn thận sắp xếp theo trình tự cuộc đời mình, có hỷ nộ ái ố, có tâm tư
tình cảm, có mong muốn sẻ chia và có cả "lời di chúc" khi bà qua đời…
Tôi chợt nhận ra rằng, với ni cô Diệu Thông, dường như chuyện đạo -
đời không khi nào rành rọt, bởi vậy nó cứ như một sự mâu thuẫn, ràng
buộc khiến cho bà coi như là định mệnh "trớ trêu" của mình. "Tôi ước
cho bệnh tật mau lành để về làm việc - hiện tôi đang vận động mở một
hội từ thiện ở Sa Đéc nên còn nhiều việc phải làm" - bà nói.
"Trang sách đã xếp lại nên cần ai đó mở ra"!
Điều mong muốn của ni cô Diệu Thông là
tặng lại chiếc xe máy, là kỷ vật của Bí thư Thành ủy TP.HCM khi đó là
đồng chí Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng Bí thư Đảng CSVN) tặng bà
năm xưa cho bảo tàng truyền thống. Hiện chiếc xe máy này bà để cho
một người cháu ở Ba Thê - An Giang gìn giữ. Bà muốn nó như một kỷ
niệm giá trị của một thời kỳ lịch sử đáng nhớ cho các thế hệ mai sau.
"Trang sách đã xếp lại nên cần ai đó mở
ra, mai này mỗi khi nhìn thấy chiếc xe, hay những kỷ vật khác của
tôi (chiếc áo nhà chùa và khăn đội đầu của bà hiện đang được trưng
bày tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ), người ta sẽ nhớ đến một vị ni cô yêu
nước" - bà nói.
|
Theo Phú Lữ - CAND