Về thời điểm đạo Tin Lành truyền giáo ở Tây Nguyên, chúng tôi theo TS Nguyễn Khắc Đức: “Đặc điểm của đạo Tin Lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc ở nước ta hiện nay”, tạp chí Công tác tôn giáo, tháng 10 – 2013, trang 13 – 15. Đây là bài nghiên cứu mới nhất về đạo Tin Lành ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Theo đó, “ở
Tây Nguyên, từ năm 1926, CMA (Christian and Missionary Alliance - Hội
Truyền giáo Ki tô) đã bắt đầu có các hoạt động truyền giáo Tin Lành vào
các tộc người thiểu số”. Do vậy, nên trong bài viết của tôi có ghi chú cụ thể năm 1926.
Với
thời điểm này, có thể nói đạo Tin Lành sớm bắt đầu việc truyền đạo ở
miền núi, chỉ 15 năm sau ngày có mặt tại Đà Nẵng (1911), được coi là
thời điểm đạo Tin Lành bắt đầu truyền vào Việt Nam. Thời điểm này là sớm
hơn rất nhiều so với Phật giáo, đã được truyền đến Việt Nam gần 20 thế
kỷ.
Nhưng dù là theo lịch trình truyền đạo Tin Lành mà bạn đọc đưa ra (“Tin lành đến Tây Nguyên từ những năm 1940”),
thì kết luận của chúng tôi về những lần chậm trễ của Phật giáo trong
hoạt động hoằng pháp ở miền núi và cao nguyên đối với đồng bào dân tộc
ít người vẫn đúng. Lần chậm trễ lần thứ hai của Phật giáo ứng với lần
chậm trễ đối với đạo Tin Lành, trong khi lần chậm trễ thứ nhất là so
với đạo Ca tô La Mã, lần chậm trễ thứ ba là so với chính Phật giáo.
Đánh
dấu những lần chậm trễ tiếp theo sau nữa sẽ được trình bày tiếp đây
được đưa ra chủ yếu bằng việc so sánh hoạt động của Phật giáo Việt Nam
với sinh hoạt tôn giáo và bối cảnh chung về chính trị, kinh tế, xã hội
văn hóa.
SAU NĂM 1975, CŨNG NHƯ Ở MỌI VÙNG KHÁC TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM, VIỆC TRUYỀN ĐẠO Ở TÂY NGUYÊN TẠM GIÁN ĐOẠN,
ít ra là ở hoạt động bề mặt. Còn trong bí mật, hoạt động này vẫn tiếp
tục. Ở Tây Bắc, tình trạng này bắt đầu từ năm 1954. Ở cả Tây Bắc và Tây
Nguyên, tình trạng này kéo dài đến khoảng nửa sau thập niên 1980.
Nhìn
chung, bước phát triển của Tin Lành ở Tây Nguyên và Tây Bắc có chững
lại trong thời gian được nói tới ở trên. Ở miền núi phía Bắc, theo TS
Nguyễn Khắc Đức (bài viết đã dẫn), thì mãi tới những năm 80 thế kỷ XX,
chỉ có một bộ phận người Dao ở huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn) theo đạo Tin
lành từ trước.
LẦN CHẬM TRỄ THỨ TƯ
của Phật giáo Việt Nam đối với việc hoằng pháp cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở miền núi và cao nguyên đã diễn ra trong bối cảnh như vậy.
Thời điểm bắt đầu lần chậm trễ thứ 4 này là từ cuối năm 1981, thời điểm
thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Sẽ
có ý kiến cho rằng đánh dấu lần chậm trễ thứ 4 của Phật giáo Việt Nam
bằng thời điểm từ ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một yêu
cầu quá cao, do đó quá sớm, không thể phù hợp. Từ đó, xin có một số bàn
luận dưới đây như sau:
Không
nên quan niệm hoạt động hoằng pháp đặc biệt như đưa ánh sáng Phật pháp
đến đồng bào dân tộc thiểu số miền núi và cao nguyên là việc hễ nói là
bắt đầu ngay, hễ bắt đầu là có kết quả ngay. Sự phức tạp và khó khăn của
hoạt động hoằng pháp đặc biệt này đòi hỏi nhiều năm, thậm chí nhiều
chục năm nghiên cứu, chuẩn bị. Đặt vấn đề ngay sau sự kiện thống nhất
Phật giáo Việt Nam năm 1981 là không sớm.
Xét
bối cảnh lịch sử thời điểm đầu thập niên 1980, chúng ta sẽ thấy những
nét chính, hình thành môi trường cho Phật sự quan trọng này.
Đến
năm 1975, cục diện tôn giáo mới ở Tây Nguyên, với những hệ quả chính
trị xã hội của nó sau gần 50 năm truyền đạo Tin Lành ở đây đã hình thành
với những vấn đề rất rõ ràng. Sự bất ổn ở Tây Nguyên sau 1975 với hoạt
động FULRO mang trong nó cả những vấn đề tôn giáo. Những nhà hoạch định
chính sách đã thấy tác dụng của nước cờ tôn giáo ở Tây Nguyên và không
khó để tiên lượng những khả năng di động tiếp theo của các quân cờ. Đạo
Tin Lành phát triển trong đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên làm
khoảng cách văn hóa với người Kinh, đa số theo đạo Phật ngày càng rộng
lớn. Vấn đề tôn giáo Tây Nguyên hiện nguyên hình một cố gắng chia rẽ dân
tộc.
Trong
bối cảnh đó, từ năm 1981, với bước thống nhất Phật giáo trong Giáo hội
Phật giáo Việt Nam, Phật giáo là tôn giáo đầu tiên trên toàn lãnh thổ
Việt Nam hợp tác đầy đủ toàn diện với nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong mục tiêu phấn đấu đoàn kết dân tộc. Phật giáo có thể phát huy vai
trò là tôn giáo truyền thống dân tộc, là nhân tố góp phần vào sự nghiệp
đoàn kết dân tộc, đoàn kết xã hội, nhất là trong bối cảnh thống nhất,
quan hệ với chính quyền chuyển sang một giai đoạn mới tốt đẹp.
Tuy
nhiên, các nhà lãnh đạo Phật giáo thời bấy giờ không thấy hết được vấn
đề, không thấy được những thuận lợi Phật giáo có được trong giai đoạn
mới, khả năng Phật giáo có thể góp phần nhiều hơn vào sự nghiệp đoàn kết
dân tộc và từ đó đưa hoạt động hoằng pháp của Phật giáo Việt Nam lên
một bước phát triển mới.
Quan
điểm giới hạn trong một tổ chức chỉ Phật giáo người Kinh có ở miền Nam
cho tới năm 1981, từ sau năm 1981 đã phát triển lên một tầm nhìn mới,
Phật giáo Việt Nam còn bao gồm các dân tộc Khmer, Hoa. Tuy nhiên, lại
chỉ dừng ở giới hạn đó, không đi đến tầm nhìn Phật giáo Việt Nam là Phật
giáo của các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, có thể góp phần vào
sự nghiệp đoàn kết các dân tộc. Không có được quan điểm này Phật giáo
Việt Nam sau thành tựu thống nhất không thấy viễn cảnh Phật giáo Việt
Nam phát triển trên toàn lãnh thổ Việt Nam, có mặt trong các dân tộc
sống trên lãnh thổ Việt Nam và trở thành nhân tố đoàn kết các dân tộc.
Nếu
chưa thể triển khai trong thực tiễn, thì ít ra, về mặt lý luận, thời cơ
để xác định vai trò mới của Phật giáo Việt Nam đã có ngay từ năm 1981,
từ đó tạo ra tình thế mới thuận lợi cho sự phát triển Phật giáo Việt
Nam.Tiếc rằng cơ hội đó đã bị bỏ qua. Phật giáo, tôn giáo đã là nhân tố
đoàn kết dân tộc Kinh vẫn bị đặt ngoài các sinh hoạt tôn giáo ở Tây
Nguyên. Cũng không đi tới một thành quả nào trong nghiên cứu lý luận,
cũng như đã không có một sự chuẩn bị nào hết, dù là nhỏ nhoi, khiêm
nhường, đơn giản.
Trong
khi đó, Tin Lành ở Tây Nguyên chuyển sang giai đoạn cầm cự. Họ không có
được những thuận lợi về hoàn cảnh để truyền đạo như trước năm 1975,
nhưng vẫn có thể tìm cách duy trì hoạt động tôn giáo như đã có được để
chờ đợi thời cơ mới. Tin Lành đã cắm rễ được trong các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên. Điều đó có thể thấy rất rõ qua việc người dân tộc thiểu số
Tây Nguyên giữ đạo Tin Lành trong những năm 1975-1986. Tôn giáo mới vẫn
hiện diện ở Tây Nguyên trong những năm khó khăn kinh tế, tạo nền tảng
vững chắc cho sự phát triển sau đó.
Thời
gian Phật giáo Việt Nam bỏ lỡ trong lần chậm trễ là khoảng gần 10 năm,
từ 1981 đến cuối thập niên 1980. Nhưng tại sao Phật giáo Việt Nam lại
chậm trễ?
Thành
quả thống nhất năm 1981 tuy là thành quả lớn, nhưng không toàn diện,
vững chắc. Đây cũng không phải là thành quả của chỉ nội lực Phật giáo,
mà vai trò tác động từ bên ngoài rất lớn. Những nhà lãnh đạo Phật giáo
đã không có được tầm vóc, nhìn xa trông rộng, khai thác lợi thế đã có
trong bối cảnh mới. Quý vị đã không thể đi xa hơn so với giới hạn đã có
trước đây từ những tổ chức Phật giáo có trước năm 1981, ít ra là về mặt
lý luận, để có thể đề ra thiết kế hoạt động hoằng pháp cho đồng bào dân
tộc thiểu số, xúc tiến các bước chuẩn bị cần thiết.
So
với hoạt động của các tổ chức Tin Lành, phía Phật giáo tỏ ra yếu kém về
tầm nhìn, thụ động trong tổ chức hoạt động, hạn chế về kỹ năng. Những
cái đó tích tụ lại khiến phía Phật giáo ngay từ khâu nhận thức đã có vấn
đề, nói chi đến việc triển khai các hoạt động cụ thể và đạt được kết
quả từ những hoạt động đó.
Sau
4 lần chậm trễ, mà thực ra từ những năm 1970, Phật giáo đã bị mất chỗ
đứng ở Tây Nguyên, không đợi đến những thập niên sau đó. Đây là một
nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiểu số hóa Phật giáo có cùng một nhịp
độ diễn biến. Nó biểu hiện tình thế Phật giáo bị giới hạn, bị loại trừ,
mà ở đây là đối với nhiều dân tộc ở một vùng rộng lớn của Tổ quốc, chẳng
những ở các tỉnh cao nguyên, mà còn ở vùng miền núi tiếp giáp ở nhiều
tỉnh đồng bằng.
Trên
đây chúng ta chỉ mới đề cập đến việc hoằng pháp đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ở miền núi phía Bắc, chủ yếu là vùng Tây
Bắc, giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986, Tin Lành chưa phát triển. Phật
giáo phía Bắc còn đang trong giai đoạn hồi phục, sinh hoạt ở nhiều nơi
còn chưa đạt trở lại mức trước chiến tranh, nên không thể làm gì đối với
hoạt động hoằng pháp ở miền núi và cao nguyên cho đồng bào dân tộc
thiểu số. Do đó, tình hình lại rơi vào trạng thái là hoạt động truyền bá
tôn giáo ở miền núi và cao nguyên phía Bắc chủ yếu là hoạt động truyền
bá đạo Tin Lành thông qua phương tiện truyền thông là đài phát thanh
sóng ngắn từ nước ngoài. Trong những năm 1980, kết quả của hoạt động này
đã không được nhận thức một cách đầy đủ, với những tiên lượng, dự báo
cần thiết. Thiếu sót này cũng là một nguyên nhân của sự chậm trễ của
Phật giáo ở thời gian sau. Mà thực ra, chính là chậm trễ ngay trong thời
gian này.
Như
thế trong những năm 1980, Tin Lành vẫn âm thầm cắm rễ vào vùng Tây Bắc,
dù đi sau vùng Tây Nguyên, có chậm hơn so với Tây Nguyên (vì không có
20 năm được Mỹ hậu thuẫn như ở Tây Nguyên), nhưng vẫn tiến triển. Tình
thế này luôn đặt Phật giáo trong tình thế bị lùi lại phía sau, bị chậm
trễ, muộn màng.
MT