Tôi
sẽ không đi sâu vào 12 khâu nhân duyên mà tất cả quý vị đã biết. Tôi sẽ
cố gắng nêu lên một cách giải thích theo khoa học kiểu Tây phương. Tôi
sẽ cố minh họa bằng những từ hóa học vật lý luật Nhân duyên sinh cổ điển
được Ðức Phật giảng cách đây 2500 năm.
Ðức Phật khởi đầu bằng câu nói: “Mọi hiện hữu đều bất nguồn từ Vô minh”.
Chúng
ta hãy phân tích toàn thể vũ trụ một cách khoa học, chúng ta tìm thấy
gì: Thế giới bao gồm nhiều phân tử, phân tử bao gồm nhiều nguyên tử.
Nguyên tử có điện tử và Proton. Ðiện tử và Proton là phần nhỏ của điện
lực. Ðiện lực là gì? Ðó là năng lượng. Năng lượng đến từ đâu? Từ sự
chuyển động. Nếu mọi vật đều đứng im sẽ không có năng lượng. Vậy chuyển
động từ đâu mà đến. Chuyển động đến từ lực hút và lực đẩy, tức là đến và
đi. Lực hút và đẩy đến do đâu?
Do
từ ái dục. Bởi vì bậc Alahán không có ái dục nên các Ngài không bị lực
hút và đẩy. Ái dục đến từ Vô minh. Vô minh là gì? Vô minh là không có
trí tuệ. Trí tuệ là gì? Trí tuệ là có. Không có cái có là gì? Không có
cái có là không. Chẳng phải kỳ diệu sao! Bằng phương tiện hóa lý, chúng
ta đã đi đến vô minh như là cội nguồn của thế giới một cách chính xác,
tương tự như đường lối của Ðức Thế Tôn cách đây 2500 năm.
Ngài
cũng bắt đầu bằng vô minh và trói buộc với thế giới trần gian trong đau
khổ. Trong khoa học cũng vậy, chúng ta khởi đầu từ vô minh. Vô minh
sinh khởi ái dục. Ái dục phát sinh sức hút và đẩy. Sức hút và đẩy phát
sinh lực chuyển động. Chuyển động sinh khởi điện lực. Ðiện lực bao gồm
điện tử và Proton. Ðiện tử và Proton tạo thành nguyên tử. Nguyên tử tạo
thành phân tử và phân tử tạo thành thế giới. Có kỳ lạ không! bằng cách
nào mà khoa học hiện đại lại đồng ý với Phật Giáo cổ xưa.
Ðức
Phật thuyết giảng sự không hiện hữu của linh hồn. Không có linh hồn đối
với Phật Giáo. Bởi vì Đức Phật nói: mọi trạng thái tâm thức đều vô ngã.
Không có cái Ta thường hằng bất tử. Chỉ có một ý thức hằng chuyển,
không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục. Con người là
ngọn lửa đang cháy, nó có nhiều nhân tố cũng đang bừng cháy.
Nhân
tố nào? Thân xác, cảm giác, cảm nhận, rung động và ý thức. Chúng không
bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khác liên tiếp, bởi vì sự sống là
động chứ không phải tịnh. Tất cả đều trôi chảy. Hãy nhớ, các nhà tâm lý
học người Mỹ đồng ý rằng con người chỉ là một ý thức hằng biến. Không có
gì bất biến cả.
Vì
vậy khi qua Mỹ, điều đó sẽ không khó cho tôi để hóa đạo cho người Mỹ.
Bởi vì các nhà khoa học và tâm lý học đã nhất trí rằng không có gì
thường hằng nơi con người. Các yếu tố thân xác, cảm giác, tri giác, tư
duy và ý thức đều luôn luôn trôi chảy, chúng chẳng bao giờ giống nhau
trong hai khoảnh khắc liên tục, không có gì mà không thay đổi.
Bởi
vậy khi tôi nói với các nhà tâm lý học bên Mỹ rằng không có gì bất diệt
nơi con người và rằng tất cả yếu tố đó đang trôi chảy liên tục. Những
nhà tâm lý đó sẽ nắm được vấn đề ngay lập tức. Ðiều làm cho các nhà khoa
học mất 2500 năm mới đạt được và đi đến cùng quan điểm với Ðức Phật đã
đạt được cách đây 2500 năm trong ánh sáng Giác Ngộ độc đáo.
Trên
thế giới có vô số tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều dạy học thuyết linh hồn
bất diệt. Phật Giáo là tôn giáo duy nhất dạy Giáo Pháp vô ngã–không có
linh hồn. Không có gì bất diệt nơi con người, bởi vì mọi vật đều chịu
quy luật vô thường. Từ đó, Phật Giáo là một tôn giáo độc đáo trong số
các tôn giáo trên thế giới. Bởi vì nó là tôn giáo duy nhất đồng ý với
khoa học hiện đại. Nghĩa là con người chỉ là một ý thức luôn luôn biến
đổi, không bao giờ giống nhau trong hai niệm tưởng liên tục.
Thế
nên khoa học hiện đại đã trải đường cho công cuộc hoằng Pháp của tôi.
Thật dễ dàng cho tôi làm sao! Khi sang Mỹ, tôi sẽ nói với các nhà tâm lý
học Mỹ: những gì mà quý vị đã đạt được hôm nay thì Ðức Phật đã đạt được
cách đây 2500 năm. Bạn không tin vào một linh hồn bất diệt. Phật tử
chúng tôi cũng không tin vào linh hồn bất diệt. Vì vậy nếu bạn muốn một
điều gì đó có tính khoa học thì hãy trở thành Phật tử. Bởi vì Phật Giáo
là tôn giáo khoa học dành cho những đầu óc khoa học.
Thế
còn vấn đề Niết Bàn? Niết Bàn là gì? Trong Phật Giáo Niết Bàn là điều
tối quan trọng. Người ta thường ngộ nhận về ý niệm Niết Bàn. Họ không
biết Niết Bàn là gì. Tối hôm nay tôi sẽ cố nêu lên cho quý vị một cái
nhìn khái quát về ý nghĩa Niết Bàn. Tôi đã nói với quý vị ngay từ đầu
rằng thế giới bắt nguồn từ vô minh. Tôi đã nói vô minh là không có trí
tuệ. Trí tuệ là có. Vắng mặt cái có là không. Vậy thế giới này là
không.
Không
có gì trong bàn tay tôi cả. Tôi muốn hủy diệt cái không trong bàn tay.
Làm thế nào đây? Chỉ có một cách có thể chấp nhận được. Ðó là chúng ta
hủy diệt cái không trong bàn tay không phải bằng các phương tiện không,
bởi vì không thì không thể trừ cái không được. Chúng ta diệt trừ cái
không chỉ bằng cái có. Ðó, các vị thấy! Tôi đã đặt vật có trong tay tôi
và cái có này giờ đây đã diệt trừ (làm mất) cái không trong tay tôi
trước đó. Bởi vì cái có (tương đối) là vắng mặt cái không.
Thế
gian là không, Niết Bàn là có thực. Thế gian là giấc mơ, Niết Bàn là
trạng thái thức tỉnh. Thế gian là bóng tối, Niết Bàn là ánh sáng. Vì vậy
nếu tất cả từ bỏ cõi đời này thì trần gian bị hủy diệt, tức là vô minh
bị hủy diệt. Sự hủy diệt này gọi là thiện Pháp. Hủy diệt vô minh là trí
tuệ. Hủy diệt cái hư ảo là thực.
Lúc
thế gian bị diệt trừ, lúc tất cả người ta trở trành những nhà tu thì
quả lợi lạc vô cùng. Bởi vì diệt trừ được cái không thực là đạt được
Niết Bàn đích thực. Ðó là một sự chuyển hóa hạnh phúc. Chúng ta hân hoan
diệt trừ bóng tối để được ánh sáng. Chúng ta vui mừng đoạn diệt cơn mơ
để tận hưởng trạng thái tỉnh thức của Niết Bàn tối thượng. Chúng ta phấn
khởi loại bỏ được trần gian trống rỗng để đạt Niết Bàn chân thực. Ðó là
sự chuyển đổi thuận lợi. Mong rằng ngày đó sẽ đến khi mà tất cả chúng
ta đều là những nhà Sư và trần gian bi thảm này sẽ nhường bước cho Niết
Bàn an vui. Niết Bàn là hạnh phúc thù thắng. Nguyện cầu tất cả quý vị
sớm hưởng được hạnh phúc tối thượng!
Tôi
vừa trình bày phần giới thiệu ngắn có tính khoa học để vài nhà khoa học
trong số thính chúng hôm nay có thể mãn nguyện những ưu tư mà quý vị đó
mang đến đây. Nhưng nếu cứ tiếp tục giảng giải như thế này suốt một giờ
chỉ nói về những đề tài khoa học trừu tượng, tôi e ngại đa số sẽ không
nắm bắt được những ý nghĩa của khoa học.
Tôi
còn nhớ một vị Cao Tăng nọ ở Tích Lan tên là Thượng Tọa Vajiranyana,
một hôm Ngài thuyết bài Pháp rất sâu về tâm lý Phật Giáo, sau khi giảng
xong, các bà lớn tuổi vừa rời phòng giảng vừa cằn nhằn: “Ối! Học thức gì
vị Cao Tăng đó, chúng tôi không hiểu một chút gì trong bài giảng của
ông ta cả”.
Giờ
đây, tôi không muốn đưa ra một ấn tượng tương tự đối với thính chúng
như vị thượng Tọa Cao Tăng đó. Tôi không muốn có người bỏ ra về và nói:
“Ối? Tài ba, uyên bác gì nhà Sư đó. Chúng tôi không hiểu lấy gì một lời
nói bài Pháp của ông ta”. Nhớ rằng Ðức Phật thuyết Pháp cho số đông quần
chúng chứ không phải chỉ dành cho một số ít trí giả. Thế nên, vì lòng
từ bi tôi phải làm hoan hỷ mọi người. Tôi đã tặng thức ăn khoa học cho
bậc trí giả và giờ đây tôi bắt đầu tặng cho quần chúng bình dân.
DIỆT TRỪ THAM ÁI
Tham ái là mối nguy hại của thời đại. Làm sao diệt trừ được?
Người
ta diệt trừ tham ái bằng cách ăn ít, ngủ ít, sống chay lạt, đạm bạc,
đọc Kinh sách Phật, sống trong môi trường thanh thoát, thân cận bậc Chân
Tăng cao thượng, thiền quán về sự ghê tớm của thân xác lúc sống và khi
chết. Quan sát trong chánh niệm (thiểu dục, tri túc–ít muốn, biết đủ).
Tham
ái sanh khởi vì nghĩ rằng thân này đáng yêu. Khi chúng ta nhận ra rằng
thân này chỉ là phân thối, tham ái tan biến ngay. Thân thể chúng ta đây
bao gồm 32 phần bẩn thỉu như sau: tóc trên đầu, lông trên thân, móng,
răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, bầy nhầy, lá lách,
phổi, ruột non, ruột già, bao tử, phân, óc, não, mật, đờm, máu mũi, mồ
hôi, chất béo, nước mắt, mỡ, nước miếng, nước mũi, nhớt, nước tiểu...
Nếu
tóc trên đầu rơi vào cơm, canh, nhất định cơm, canh sẽ bị đổ đi vì ghê
tởm. Vì vậy những bộ phận của cơ thể mà rơi vào đều làm cho ta chán
ghét. Vậy mà những bộ phận còn dính trên thân thể thì có vẻ xinh đẹp là
do tham ái làm mờ mắt.
Tôi
phải nêu lên câu hỏi. Bởi vì có đặt câu hỏi chúng ta mới kích động ý
tưởng. Quý vị giải thích thế nào về sự kiện tóc ở trên đầu có vẻ đáng
yêu. Trong khi thực sự cũng loại tóc đó rơi vào dĩa súp, cơm, canh làm
ta ghê tởm, chán ghét? Theo quan điểm khoa học cả hai loại tóc đều là
giống nhau, dù rằng nó còn dính trên đầu hay rơi vào thức ăn, tóc vẫn là
tóc.
Làm
thế nào người ta ngưỡng mộ tóc trên đầu nhưng lại ghê sợ tóc trong thức
ăn? Khác nhau điều gì? Xét về phương diện hóa chất, chúng rõ ràng giống
nhau. Nhưng tại sao chúng ta lại yêu thích cái này nhưng lại ghét bỏ
cái kia? Tôi không hiểu là có nhà khoa học nào trong số thính chúng tại
đây có thể nói lên một sự giải thích khoa học nói về hiện tượng kỳ lạ
này.
Bởi
vì đề tài thuyết giảng hôm nay là “Phật Giáo là tôn giáo của biện chứng
khoa học”. Vì vậy tôi hy vọng các nhà khoa học trong số thính chúng đây
nêu lên câu giải thích cho hiện tượng kỳ lạ này. Vị nào có thể giải
thích được tại sao? Không ai trả lời cả. Dù sao đây là câu trả lời vì đó
là phận sự của tôi phải giải thích. Ðây nhé! Nếu bạn dùng một nồi nấu
nước, khi nước bắt đầu sôi, bạn khó mà thấy rõ được cái bọt của nước.
Chừng nào nước nguội, lặng ta mới có thể thấv rõ các bọt nước bên
dưới.
Tương
tự khi tóc đang sôi sục khắp nơi vì tham ái, khó mà nhận rõ chúng đúng
như thật tướng. Do vì con mắt đang bừng cháy cuồng nhiệt với lòng tham
ái, bám chặt vào tóc uế nhiễm ghê tởm trên đầu con người, tóc có vẻ xinh
đẹp. Trái lại khi người ta tìm thấy trong đĩa súp, tóc có vẻ uế nhiễm
ghê tởm. Vì tâm lúc đó nguội lạnh không có tham ái chen vào thế nên dĩa
súp ghê tởm phải đổ đi. Chính sự đam rnê đã che mờ con mắt, khiến mắt
không thấy rõ.Vì vậy khì ta nhìn tóc trên đầu với con mắt bị che mờ. Nên
không nhìn rõ các sự vật uế nhiễm đúng như thực tướng của chúng.
Khi
tóc thực sự ghê tởm, nó lại có vẻ xinh đẹp, nhưng khi tóc nằm trong
thức ăn–không có tham dục trong mắt–lúc mở mắt ra ta thấy rõ tóc như
thực trong canh nhờ diệt bỏ đam mê cảm xúc, và nhờ vậy ta thấy rõ tính
chất ghê tởm của tóc–do khi ăn ta không khởi tham ái. Từ đây trở đi,
chúng ta thấy tóc là phát khiếp, rồi lập tức hoặc là đổ bỏ thức ăn, hoặc
là vớt tóc ra nếu muốn tiết kiệm.
Nhưng
chưa hết bất hạnh, ngay khi ta vớt tóc ra rồi ta vẫn còn cảm giác ghê
sợ dù rằng lúc đó không còn tóc trong thức ăn. Bởi vì ta vẫn còn ấn
tượng rằng tóc vẫn còn ở đó trước kia. Quý vị có thấy không, khi ta mở
mắt, viễn ly tham ái khiến ta thấy rõ các sự vật đúng như thực tướng của
chúng. Mặt khác, khi bị tham ái che khuất mất. Ta ngưỡng mộ mái tóc
trên đầu. Nhưng nhớ rằng tóc vẫn là tóc dù nó ở trên đầu hay trong thức
ăn. Nó thực sự có cùng bản chất uế nhiễm như nhau.
Ðiều
tương tự không phải chỉ cho tóc trên đầu mà còn áp dụng cho lông trên
thân, răng, móng, da. Khi răng còn nằm trên những lỗ chân lông (nướu
răng) của một cô gái đẹp chẳng hạn, các thi sĩ sẽ đánh bóng lên đầy vẻ
đam mê ngưỡng mộ. Lúc đó thi sĩ sẽ diễn tả: Nàng có hàm răng tuyệt đẹp
như vòng ngọc trai. Vậy mà khi chiếc răng rơi vào tô canh, bạn sẽ phải
đổ đi vì cảm giác ghê rợn.
Hãy
nhớ răng thực sự đều giống nhau dù nằm trên nướu răng ở miệng hay khi
nó rơi ra. Trong một trường hợp là do có sự đam mê, trường hợp kia không
có đam mê chen vào. Vì vậy, chúng ta nên nhìn sự vật theo đúng thật
tướng của chúng. Có vậy sau đó bạn mới ghê tởm 32 phần còn lại trong
thân thể dù là chúng đang còn trên thân thể hay rơi ra ngoài, chúng đều
như nhau. Vậy thì nhờ xả bỏ chứ không phải chấp thủ thân của người khác
không chấp thủ thân mình.
Chúng
ta trở nên ly dục hoàn toàn. Dục vọng khi bị tiêu trừ, chúng tà sẽ đạt
được niềm an vui an sung mãn, đó là Niết Bàn tối thượng.
Một
xác chết được phơi bày ra ngoài trời vài ngày là một đề tài tham thiền
tuyệt diệu. Cái xác chết chướng phồng lên, tím đen với những bầy côn
trùng nhun nhúc từ 9 lỗ bò ra làm cho ta ghê tởm bản chất ô nhiễm của
thân xác. Chúng ta nên ngồi xuống và tự đồng hóa mình với thi thể khiếp
đảm, quán chiếu như sau:
Như
ta nay còn đây, vị kia đã có lần như ta. Như vị ấy bây giờ, ta cũng lại
như thế! Do quán chiếu cách này, niệm tưởng sau cùng sẽ bừng dạy trong
ta rằng thân này là cái xác buộc vào cổ chúng ta, chúng ta chán ghét cái
thân này và thân người khác. Ðây là cách diệt trừ tham ái vĩnh viễn.
Cái
thân còn sống này được nung nấu bằng chất đốt và tiến trình trao đổi
chất. Nhờ vậy tránh được sự phân hủy làm mục rữa. Nhưng thật ra cái thân
còn sống hay thân chết đều có như nhau, tính chất ghê tởm đáng được
ghét bỏ. Hãy nhìn những thân thể người cùi hủi. Họ nhơ nhớp làm sao.
Khi mọi tham ái được diệt trừ hoàn toàn, người ta chứng đạt Niết Bàn, có nghĩa là không còn tham ái.
Niết
Bàn là trạng thái tươi mát tối thượng. Tham ái là ngọn lửa dữ dội trong
các ngọn lửa. Khi tham ái chấm dứt, ta đạt được trạng thái tối thượng.
Trong Phật Giáo có 40 đề mục thiền quán được gọi là Quán về thân. Trong
số 40 đề mục thiền quán, không dưới 10% hay 25% được ngưỡng mộ là tham
thiền nơi nghĩa địa. Ngày xưa, xác chết được ném ra bãi tha ma, nghĩa
địa.
Các
nhà Sư có được cơ may tuyệt vời để thực hành tu tập quán tử thi hay là
thiền định về xác chết uế nhiễm, hôi tanh trong tất cả 10 giai đoạn phân
hủy thi hài. Nhưng ngày hôm nay do những luật lệ vệ sinh, xác chết
không được quăng ra ngoài nữa. Họ phải chôn hay hỏa táng. Và do vậy mà
các nhà Sư mất đi cơ hội tuyệt vời thiền quán trên xác chết ghê tởm trải
qua 10 giai đoạn phân hủy, tan rã thân xác. Từ đó trở đi, ta thấy rằng
các vị Alahán ngày nay rất ít, bởi vì họ đã bị tướt đoạt cơ hội thực
hành quán tử thi.
Tuy
nhiên, lúc tôi còn ở Rangoon, tôi quyết định thực hành pháp Quán tử
thi. Tôi nghĩ, nếu một sinh viên y khoa bình thường được có một xác chết
trong phòng thí nghiệm giải phẫu để thí nghiệm cơ thể con người thì tại
sao những Bác sĩ tinh thần, tức là những nhà Sư lại không được có những
cơ hội tương tự để nghiên cứu những xác chết trong khi đang còn trong
tình trạng phân hủy.
Tôi
cố gắng hết sức mình để xin nhà cầm quyền Miến Ðiện thiết lập một nghĩa
địa tại nghĩa trang, nơi đó có nhiều xác chết có thể được phép phân hủy
một cách tự nhiên để cho các nhà Sư diệt trừ tham ái nhờ thiền quán về
sự uế nhiễm của thân xác.
Tôi
đã hầu như sắp thành công trong việc thành lập những phòng mổ thiền
định. Lúc chiến tranh đã xảy ra, tuy nhiên ngay trước chiến tranh, tôi
đã hợp đồng với Bác sĩ phẫu thuật của Tổng Y viện ở Rangoon và nói với
ông ta: “Bất cứ khi nào Bác sĩ tìm thấy một xác chết dưới sông, vui lòng
gọi cho tôi biết, tôi sẽ xuống nhận, bởi vì tôi phải thực tập 10 đề mục
quán tử thi do Ðức Thế Tôn chỉ dạy nhằm hủy diệt tham ái”.
Bác sĩ phẫu thuật trả lời: “Vâng! Thưa Thượng Tọa, tôi sẽ gọi Ngài chắc chắn mà!”.
Ðủ
bảo đảm lời hứa của ông ta. Và một ngày nọ tôi vội vã đến Tổng Y viện,
tôi gặp vị Y sĩ phẫu thuật, ông ta hướng dẫn tôi đến nhà xác. Ở đó có
một xác chết trương phình lên dễ khiếp!
Một
thi hài trương phình lên là mẫu hiếm có, bởi vì nó chỉ kéo dài 24 tiếng
thôi. Xác chết phồng lên như quả bong bóng, hai mắt phồng lên, hai gò
má phồng lên, cái bụng phồng lên, chân tay cũng phồng lên. Tôi bảo Bác
sĩ đặt một chỗ ngồi không xa lắm, đóng cửa phòng và cho phép tôi tập
trung về xác chết ghê tởm.
Tôi
muốn chụp một bức ảnh nhưng không có máy. Vì vậy tôi sáng chế máy ảnh
tâm thức bằng cách tập trung chú ý vào tử thi. Tử thi thì đầy những
ruồi, tôi che kín thân bằng chiếc y của tôi, bởi vì những con ruồi cứ
bay lãng vãng quanh tôi. Có lẽ chúng nghĩ rằng tôi là xác chết. Tuy
nhiên tôi vẫn tiếp tục tập trung chú ý vào tử thi khoảng nửa giờ. Tôi đã
thực hiện xong bức ảnh tâm thì đến giờ ăn sáng.
Tôi
bước ra khỏi xác phồng. Và khi tôi khởi sự thọ trai dưới bóng cây tôi
cảm thấy tôi đang ăn cái xác phồng đó, cho nên ăn không ngon chút nào.
Ðó là bài Pháp của Ðức Phật rằng mọi thể xác đều uế tạp, ghê tởm. Chúng
ta phải nhận thức được bản chất tử thi, bản chất đáng ghê tởm của thân
xác. Và vì vậy, hãy từ bỏ thân xác, từ bỏ tham ái. Ðó là Niết Bàn, là sự
vắng bóng tham ái.
Phật
Giáo là gì? Phật Giáo là sự rèn luyện tâm. Ðức Phật tặng ta cục xà
phòng tinh thần để tẩy đi những ý tưởng nhơ bẩn. Xưa có một nhà Sư không
thể tập được quá nhiều giới luật, muốn về đời, Ðức Phật hỏi: “Một mình
con có thể thực hiện được một điều không?”.
Sư
trả lời: “Thưa được! Bạch Ðức Thế Tôn”. Ðức phật dạy: “Hãy quán sát
tâm, hãy kiên trì với phạm hạnh của mình”. Vì vậy Sư làm theo lời dạy
của Phật, nghiêm mật canh chừng tâm, không bao lâu Sư chứng Alahán. Nếu
bạn quán sát tâm bạn cũng sẽ đạt Niết Bàn. Tôi sẽ giải thích đoạn kế
tiếp bằng cách nào để quán sát tâm.
Cái
tâm thức lang thang dong ruổi–trạng thái trạo hối như nạn nhân đang nằm
giữa hai hàm răng nanh của dục vọng–tính lười biếng, hôn trầm là cơ
xưởng của ma quái.
Vậy bạn phải quán sát tâm cho đến khi tâm thuần tịnh. Ta sẽ đắc chứng Niết Bàn vĩnh cữu.
Chúng
ta lại cũng nên ăn càng ít càng tốt, cốt giữ cho thân xác sống còn. Bởi
vì cũng như ta ném quá nhiều than vào lò, thì lò trở nên nóng hực, sức
nóng của dục càng dâng cao. Một ngày chỉ dùng một bữa trước giờ ngọ. Đó
là quy luật an toàn nhất. Nếu ta ăn nhiều vào ban đêm chỉ làm cho khát
dục càng tăng trưởng mà thôi.
Hãy
sống và để cho người khác sống yên lành. Hãy coi mọi sinh vật như là bà
con láng giềng của ta. Tất cả sinh mạng đều như một, yêu thương hàng
xóm tức là yêu thương chính mình. Thù ghét người bên cạnh là ghét bỏ
chính mình.
Vấn
đề ngủ cũng cần giới hạn. Chúng ta ngủ càng ít càng tốt. Bạn thử quán
chiếu, thế giới đang bừng cháy, làm sao ta ngủ được trong căn nhà đang
bốc cháy đó. Lại nữa, trái tim của con người không bao giờ ngủ, tại sao
tâm thức cứ ngủ mãi. Tâm thức không mạnh bằng trái tim sao. Khoa học đã
chứng minh rằng tâm là kẻ độc quyền điều hành cơ thể.
Tại
một cơ quan tổ chức xã hội Smith Sonian ở Washington người ta làm một
cuộc thử nghiệm bằng con người. Cho anh nọ vào khung chuồng và nhịn đói
trong 40 ngày. Dĩ nhiên tổ chức phải trả thù lao xứng đáng cho anh ta
với số tiền đó anh ta mới chịu cho cuộc thử nghiệm kỳ lạ này.
Các
bộ phận cơ thể được cân đo trước và sau đó. Kết quả sau 40 ngày tuyệt
thực, người ta thấy gan thận và các bộ phận khác lại giảm đi phân nữa so
với lúc đầu, trong khi não bộ hoàn toàn không khác trước kia. Tất cả bộ
phận đã tự hy sinh để giữ cho não bộ còn nguyên vẹn.
Như
vậy não bộ mạnh hơn trái tim, lẽ ra phải hoạt động ít nhất không thua
gì trái tim thường xuyên vận động. Bởi vậy tâm thức phải làm việc chứ
không nên ngủ nhiều.
Bạn
thấy đó, ngủ quả là một thói quen xấu của tâm. Ðức Phật xưa kia mỗi
ngày chỉ ngủ một giờ 20 phút và suốt trong thời gian 1g20 phút này. Ngài
vẫn thức tỉnh hoàn toàn. Ban đêm không phải để ngủ mà là để tu tập. Hãy
nhớ rằng tất cả bậc Thánh vĩ đại đều chứng ngộ Ðạo quả vào ban đêm.
Suốt
đêm, Ðức Phật thành Ðạo tối thượng thừa dưới cội cây Bồ Ðề tại
Buddhagaya. Khởi đầu của thế giới, nếu không có ban đêm, tôi đoán chắc
người ta có thói quen ngủ mãi. Nhờ sự kiện mặt trời lặn và bóng tối tràn
khắp. Những lớp người đầu tiên cõi trần gian sơ khai này nói: “Ôi! Mặt
trời đã đi rồi, chúng ta nằm xuống chờ ông ta trở lại, bởi vì trời đang
tối. Nhưng nếu lúc đó có hai mặt trời. Một có suốt ban ngày và một có
suốt ban đêm thì chắc là trời chỉ có ban ngày chứ không bao giờ có ban
đêm. Napoléon Bonaparte chỉ ngủ có bốn giờ một ngày. Vì vậy nếu bạn muốn
tiến lên tầm mức cao hơn, hãy tự tập ngủ càng ít càng tốt. Bởi vì bạn
nhớ rằng, kẻ cướp thường lấy cắp vào ban đêm. Tài sản lớn nhất của bạn
là gì? Ðó là Ðức Hạnh. Ðức Hạnh là tài sản vĩ đại nhất.
Vậy
thì tại sao bạn lại cho phép kẻ khát ái–một thứ cướp nguy hại nhất–vào
nhà ban đêm để cướp Ðức Hạnh– thứ tài sản cao quý nhất của bạn. Nếu trái
tim bắt đầu ngủ, bạn sẽ được đưa ra lấp đất tại nghĩa trang. Còn tâm
sao lại không. Sao bạn không cho phép tâm nghĩ. Nếu trái tim đập nhồi
máu cả ngày lẫn đêm, cả đêm lẫn ngày thì tại sao não bộ lại không hoạt
động cả đêm lẫn ngày, cả ngày lẫn đêm. Nếu trái tim có thể làm việc liên
tục thì tâm thức cũng có thể làm việc không cần nghỉ chứ. Giản dị là ta
cần bỏ thói quen ngủ nhiều.
Cố
gắng rèn luyện tâm, tinh tấn làm việc, bạn sẽ hiểu cách ngủ ít nào mà
tâm thực sự cần đến. Bởi vì như Ðức Phật đã dạy trong lời sau cùng. Nhờ
nhiệt tình mà thành đạt mục dích. Ðây là tinh hoa của Ðạo Phật. Toàn bộ
Phật Giáo có thể giải thích bằng một từ Pali “Appamada” nghĩa là “tinh
tấn mãnh liệt”. Không có tinh tấn sẽ không có Niết Bàn. Hãy tinh tấn rèn
luyện tâm thức tu tập đêm ngày bạn sẽ thành tựu những gì mà Ðức Phật đã
thành tựu.
Có
13 phép tu khổ hạnh đặc biệt trong Phật Giáo gọi là Hạnh Ðầu Ðà
(Dhutanga). Pháp tu khổ hạnh do Ðức Phật chỉ dạy trong số 13 pháp là ngủ
trong tư thế tọa thiền. Ðức Phật cho phép ngủ trong tư thế tọa thiền.
Bởi vì ngủ trong tư thế này thì đầu trở nên nhẹ, máu và các phần tử nặng
chảy xuống do lực hấp dẫn, con người luôn luôn tinh tấn, sẵn sàng tọa
thiền mà không hề bị hôn trầm (buồn ngủ).
Hôm
nay tôi đang trải qua với đề tài “Bất Hại”. Tôi đã thuyết giảng đề tài
này trong 2 giờ đồng hồ rồi, một giờ cho tôi và một giờ cho thông dịch
viên. Nhân đây tôi xin kể cho quý vị nghe câu chuyện về một bé trai
người Singapore bị rắn độc cắn. Người cha cầm cái rìu định giết con rắn
độc. Ðứa con sắp chết liền xin cha tha mạng cho rắn, và vì lời cầu mong
lúc sắp chết của đứa con, người cha bắt buộc phải tuân theo. Con rắn bỏ
đi mất và người con chết liền sau lúc đó. Người con chết vì nọc rắn, đã
cứu mạng con rắn cắn mình. Ðây là quy luật “Bất hại”. Bé trai đó tha
mạng sống và không muốn kết oán thù. Ðây là bài học chúng ta nên noi
gương hành động như người Phật tử chân chính. Chúng ta sẵn sàng cống
hiến mạng sống của mình cho mọi sinh vật và không nên nuôi dưỡng hận thù
trong tâm mình.
Như
quý vị đã biết, chúng tôi đang trên đường hoằng pháp tại Mỹ, khắp cả
nước Mỹ. Có thể quả là niềm vui chung khi thấy Phật Giáo phát triển khắp
thế giới nhờ công tác hoằng pháp lợi sinh. Chúng ta nên cổ vũ bất kỳ
một Phật tử nhiệt tình nào hộ trì đối với hoạt động vinh quang này.
Không có công tác hoằng pháp sẽ không tôn giáo nào lâu dài. Phát triển
là khỏe mạnh, thiếu thốn là bệnh hoạn. Chúng ta hãy phát triển để được
khỏe mạnh. Món quà chân lý là món quà vĩ đại nhất trong tất cả. Phật
Giáo là một tôn giáo khoa học cho tâm thức khoa học.
Giờ
đây là thời điểm lý tưởng, sau thế chiến thứ hai, những người Mỹ có đầu
óc khoa học sẽ sẵn sàng ôm lấy Phật Giáo khoa học. Họ nồng nhiệt mong
chờ quả bom nguyên tử của tình yêu. Ngôi chùa cao chọc trời vô song của
chúng ta tại Nữu ước cống hiến cho hòa bình thế giới, chắc chắn sẽ đưa
thế giới lên đỉnh cao. Những năm 2500 chúng ta sẽ thấy Phật Giáo vươn
lên và chúng tôi phải khởi hành ngay từ bây giờ bằng cuộc hoằng pháp
sang Mỹ và trên khắp thế giới để làm cho sự phát triển này thành một
hiện thực sống động.
Hãy
nhớ rằng chúng tôi sắp phải qua phương Tây, mang thông điệp vô song này
của Ðức Thế Tôn cho người Mỹ đang khát khao Phật Pháp. Trái lại những
nhà truyền giáo Thiên Chúa đi đến phương Đông để tặng tôn giáo của họ
cho chúng ta. Chúng tôi sắp qua các nước phương Tây để trao đổi cho nhau
hay dâng tặng món quà tín ngưỡng Phật đạo tại nơi đó. Nhờ sự trợ duyên
thích hợp này tạo thêm thiện chí và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc
gia trên thế giới. Nhớ rằng sự thiếu thốn về thực phẩm tinh thần là
nguyên nhân của chiến tranh. Thực phẩm tinh thần cần có mỗi ngày cho tâm
thức.
Ðừng
bận lòng chỉ lo có thực phẩm vật chất, bởi vì một người không phải sống
chỉ có ăn. Mỗi ngày trẻ em nên tiếp nhận thực phẩm tinh thần. Chúng
phải được huấn luyện trong tình thương yêu của Ðức Phật. Trẻ em phải
được dạy dỗ giáo pháp. Chúng phải được đi học ở các trường Bồ Ðề. Tâm
hồn mềm yếu của chúng không để cho bị lợi dụng làm mốt thời trang hay bị
uốn nắn bởi ý đồ của ngoại nhân. Vì họ có thể trao đổi ngay cả tín
ngưỡng của họ cho chúng ta do ảnh hưởng ngoại lai.
Vì
vậy quý vị hãy gởi con em của mình đến học tại các trường Phật học Bồ
Ðề để trường có thể giữ mãi những đứa con Phật của quý vị. Ðạo Phật nhờ
vậy sẽ mãi mãi phát huy và đứng vững. Tôi đang hoạt động ở các nước
phương Tây để chuyển hóa đạo Phật đến với họ. Còn quý vị đang sinh hoạt ở
phương Ðông làm sao bảo đảm rằng các con em của mình tiếp thu được một
nền giáo dục Phật đạo hoàn hảo. Bởi vì Ðức Phật là bậc Thầy vĩ đại nhất
trong tất cả các bậc Thầy.
Ðể
kết thúc bài giảng, tôi xin có lời tán thán hạnh nguyện kiên trì cao
đẹp của quý vị. Trong khi lắng nghe rất lâu bài Pháp thật dài này, chắc
chắn quý vị sẽ hưởng được nhiều công đức nhờ thưởng thức được món ăn
tinh thần, mà tôi đã không cống hiến được bao nhiêu, lại nữa, quý vị còn
phải tiêu hóa món ăn tinh thần đó, nên khi về nhà phải tư duy một số
việc đã tiếp thu hôm nay và cố gắng tiêu món ăn tinh thần đó mỗi ngày
cho đến khi tất cả các ngọn lửa của sáu giác quan đều dập tắt. Lúc đó
quý vị sẽ tận hường niềm hỉ lạc tịch tĩnh, nơi không còn tham ái. Ðây là
Niết Bàn: niềm an vui tối thượng.
Thích Giải Thông (dịch)