Môn
triết học này thiết lập một hệ thống trị liệu rộng
rãi. Trong phạm vi ấy Đức Thế Tôn là một nhà tâm
lý trị liệu vô song. Trong phổ quát, Tâm lý trị liệu
có nghĩa là sự điểu trị về những sự rối loạn cảm
xúc, thái độ cá nhân căn cứ trước tiên trên sự giao tiếp
bằng lời nói hay không lời nói. Đức Phật là một
nhà chửa bệnh không thể bắt chước được giúp vô số
người vượt qua căng thẳng, rắc rối về cảm xúc, và những
vấn nạn giao thiệp qua thiền quán thân hữu.
Bác
sĩ Sigmund Freud đã giới thiệu Phương pháp Trị liệu Phân
tích Tâm lý. Phương pháp Trị liệu Phân tích Tâm lý
liên hệ bàn thảo những kinh nghiệm quá khứ và những điều
này có thể hướng dẫn tình trạng hiện tại như thế nào,
cũng như những kinh nghiệm quá khứ có thể ảnh hưởng cuộc
sống hiện tại như thế nào. Sự thấu hiểu đạt được
mở thông cho chúng ta tiến hành sự lựa chọn về những gì
xãy ra trong tương lai. Phân tích tâm lý cố gắng đạt thấu
đến gốc rể của vấn đề bằng sự phân tích mối quan
hệ chuyển động phát triển giữa nhà tâm lý trị liệu và
bệnh nhân.
Đức
Phật đã thực hiện một hình thức hoàn toàn về phân tích
và tìm thấy nguyên nhân vận hành của phiền não, sau đó
chửa trị thành công nỗi khổ đau tâm lý đặc thù và đưa
đến sự giải thoát tinh thần hoàn toàn cho con người.
Trong sự phân tích này Ngài đã đi vào những đời sống quá
khứ. Trị liệu đời sống quá khứ cũng được biết
như sự trị liệu hồi quy hay giải pháp cho phép những cá
nhân bổ xung những kinh nghiệm khích động chấn thương và
cảm xúc quá khứ mà chúng ở trên cấp độ tiềm thức không
được giải quyết.
Ngày
nay, Trị liệu Đời sống Quá khứ (PLT) rất phổ biến ở
thế giới phương Tây và nó cho phép bệnh nhân giải quyết
những vấn đề quá khứ trong một phương pháp trị liệu
thiết lập dùng trong những bệnh xá. Nhà trị liệu
đời sống quá khứ nổi tiếng nhất của phương Tây là Edgar
Cayce đã cho hơn mười bốn nghìn “giải thích” trong thời
gian bốn mươi ba năm. Edgar Cayce đã chứng minh khả năng
kỳ bí và đặt mình vào trong một loại giấc ngủ tự điểu
khiển, trong lúc ấy ông có thể trả lời những câu hỏi
do những bệnh nhân của ông ta đặt ra về bệnh tình của
họ.
Trị
liệu Nhận thức đặt căn cứ trên sự đạt đến khả năng
nội quán vào trong tiềm thức của xúc cảm và đưa đến
sự tập trung chủ yếu trên tư tưởng, tính tình dáng điệu
và tin tưởng. Phương pháp trị liệu Cảm xúc Lý trí
của Albert Ellis quan tâm những xúc tình mạnh mẽ xãy ra như
một kết quả từ sự tương tác giữa những sự kiện trong
môi trường cùng sự tin tưởng và tiên đoán.
Quan
điểm của Phật giáo, đau khổ không phải do bởi những sự
kiện khổ não ngoại tại, mà do nơi những phẩm chất của
tâm thức, tâm thức định hình nhận thức của chúng ta và
đáp ứng đến những sự kiện. Những từ ngữ giống
như thế được nhà Tâm lý học Albert Ellis lập lại năm 1953,
khi ông giới thiệu hành động định hướng sự tiếp cận
trị liệu của ông – Phương pháp Trị liệu Cảm xúc Lý
trí. Theo Ellis không phải những sự kiện làm nên những
nổi buồn khổ tâm lý mà sự tin tưởng là do nơi bệnh nhân
chấp trước. Ông tranh luận xa hơn rằng cảm xúc buồn
khổ của một người thật sự do nơi suy nghĩ thảm thương
của họ trong sự đánh giá những sự kiện căng thẳng.
Lý thuyết của Ellis cho rằng sự đánh giá không thực tiển
về căng thẳng phát sinh từ sự chấp trước phi lý.
Nhà
tâm lý học Aaron T. Beck – nhà phát huy Phương pháp Trị liệu
Thái độ Nhận thức (CBT) nhấn mạnh vai trò của sự bóp
méo nhận thức trong chán nãn và băn khoăn. CBT là
một trong những định hướng quan trọng của tâm lý trị
liệu và trình bày một đặc trưng của sự can thiệp tâm
lý bởi vì nó sinh khởi từ những kiểu thức thái độ và
tâm lý của con người.
Đức
Phật đã dùng vô số loại phương pháp trị liệu nhận thức.
Trong câu chuyện của Kisagotami, Đức Phật đã dùng một kiểu
nhận thức về hành động để đánh thức tuệ giác nội
quán trong bà mẹ trẻ vừa mất đứa con trai bé nhỏ.
Bà vừa bị suy sụp tinh thần với đau buồn thương tiếc
kinh khủng. Bà đến gặp Đức Phật mang theo xác đứa
con trai và thỉnh cầu thuốc phục sinh cho đứa con của bà.
Đức Phật đã nói với bà hãy đi xin một số hạt cải trong
một ngôi nhà chưa từng có người nào chết. Kisagotami
đã đi từ nhà này đến nhà kia nhưng không thể tìm ra một
ngôi nhà nào mà chưa từng có sự chết trãi qua. Bà dần
dần phát sinh nội quán tỉnh thức và ý nghĩa của sự chết.
Bà nhận ra sự chết là một hiện tượng phổ biến.
Đức
Phật thường dùng Phương pháp Socrates để dạy giáo thuyết
của Ngài. Socrates (470-399) là một triết gia Hy Lạp, người
đã tiến hành sự vấn đáp với học trò của mình trong sự
tìm kiếm bất tận cho chân lý. Ông đã tìm kiếm để
đạt đến những quan niệm nền tảng của học trò và những
đồng nghiệp của ông bằng những câu hỏi liên tục cho đến
khi sự mâu thuẩn bùng vở, vì thế minh chứng sự sai lầm
của sự đánh giá ban đầu. Điều này trở thành được
biết là Phương pháp Socrates.
Khi
tên sát nhân Vô Não hét lên gọi Đức Phật dừng lại,
Đức Thế Tôn đã quay lại và nói Vô Não rằng, Đức Phật
đã dừng lại rồi, và Ương Quật Ma La hãy làm như thế.
Một vài từ ngữ đã làm phát khởi nhận thức bên trong đầu
của Ương Quật Ma La. Vô Não nhận ra rằng Đức Thế
Tôn đã dừng lại nghĩa là Ngài không phạm phải bất cứ
sự bạo động nào nữa vì thế bây giờ là lúc cho Vô Não
từ bỏ bạo động. Ương Quật Ma La đã vất gươm và
trở thành một sư thầy.
Patachara
là một thiếu phụ trẻ phát sinh một sự phản ứng căng
thẳng kịch liệt khi cô chứng kiến cái chết của người
chồng, hai đứa con và cha mẹ của cô ta. Cô đến với Đức
Phật khóc lóc với sự bối rối vô cùng tận. Sau khi
cô ta đã dịu xuống, Đức Phật đã giải thích với cô ta
về ý nghĩa chân thật của khổ đau và tính tự nhiên của
vô thường. Câu chuyện của Patachara biểu lộ một trường
hợp nghiên cứu tuyệt diệu về cố vấn chấn thương tâm
lý. Cố vấn chấn thương tâm lý cung ứng một sự hổ
trợ thực tiển trong hầu hết những con đường đề cập
ở trên để giải quyết phản ứng thảm thiết của Patachara.
Rõ
ràng có những sự tương tự giữa sự nhấn mạnh căn cứ
trên thái độ của Đức Phật và sư thấu cảm của Carl Roger.
Carl Roger đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển
Phương pháp trị liệu Vấn tâm Bệnh nhân và ông là một
trong những người thiết lập phong trào tâm lý nhân loại.
Giống như Carl Roger, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni đã chấp
nhận con người với sự quan tâm tích cực không điều kiện.
Những nhà tâm lý học cho rằng sống một cuộc đời chân
thực không phát triển sự thấu cảm là không thể được.
Thấu cảm là một khả năng nền tảng để con người có
thể phát triển mối quan hệ với người khác, và vì thế
phát triển tính cách cá nhân.
Đức
Phật tin tưởng trong sự tự do của con người. Rogers
nghĩ rằng không có liên quan cho dù con người thật sự có
tự do ý chí hay không. Ông nói xa hơn rằng chúng ta cảm
thấy tự do khi sự lựa chọn là sẳn sàng cho chúng ta.
Rogers chỉ ra rằng cá nhân thể hiện chức năng trọn vẹn
nhận biết cảm giác tự do ấy, và nhận trách nhiệm cho sự
lựa chọn của mình. Đức Phật không phủ nhận sự
tự do của con người với trách nhiệm hoàn toàn với hành
động của mình.
Robert
Carkhuff – một trong những nhà tiên phong của Phương pháp
Vấn tâm Trị liệu nghiên cứu và hoạt động với Carl Rogers.
Ông phát hành một quyển sách nổi tiếng về Hướng Tới
Sự Khuyên Bảo Hiệu Lực và Tâm Lý Trị Liệu vào năm 1967.
Robert Carkhuff giới thiệu bảy điều kiện hổ trợ như thấu
cảm, tôn trọng, cụ thể, chân thành, tự hiển hiện, đối
diện, và thân cận trực tiếp. Trong tâm lý trị liệu,
thân cận trực tiếp là vấn đề sống còn. Câu chuyện
của Rajjumala – một người giúp việc trong gia đình định
tự tử, tiếp theo một sự quấy nhiễu của bà chủ nhà,
và được Đức Phật cứu thoát. Đây là một thí dụ
tuyệt vời về sự cố vấn ngăn ngừa tự tử và là điều
hổ trợ thứ bảy của Robert Carkhuff, “thân cận trực tiếp”.
Sự
giảng dạy về thiền quán của Đức Phật có một vị trí
đặc biệt. Thiền quán có thể được dùng cho sự phát
triển cá nhân. Thiền quán Phật giáo là một tiến trình
tịnh hóa tinh thần và đưa đến một nhận thức trực tiếp.
Do vậy, mục tiêu thiền quán của Đạo Phật là để đạt
được sự thấu hiểu tuệ giác về chân lý phổ cập.
Thiền quán, hay tuệ minh sát của Phật giáo cho một sự thể
chứng về vô thường, khổ não và vô ngã. Từ bi quán
giúp giảm thiểu sân hận và là một phương pháp toàn thiện
để kiểm soát những cảm giác hung hăng. Một cách phổ
thông, thiền quán hổ trợ giảm thiểu căng thẳng và lo lắng.
Ngày nay, những trung tâm tâm lý trị liệu ở phương Tây và
phương Đông dùng thiền quán như một kiểu mẫu tâm lý trị
liệu thành công.
‘Phương
pháp tâm lý trị liệu hiện sinh’ là một hình thức tâm
lý trị liệu hướng đến sự đề cao tự nhận thức.
Trong giáo thuyết của Đức Phật sự hiện hữu hay tồn sinh
được diễn tả một cách rộng rãi. Phật giáo đưa
lên những vấn đề đạo đức học và tính tự nhiên về
sự hiện hữu của chúng ta. Mục tiêu của phương
pháp trị liệu hiện sinh cho phép con người trở nên chân
thành hơn với chính mình, để mở rộng nhận thức của họ
về chính họ và thế giới chung quanh họ, để tìm ra sự
trong sáng để tiến hành thế nào trong tương lai trong khi tiếp
nhận những bài học từ quá khứ và để tạo nên những
điều gì đấy đáng giá để sống trong hiện tại. Cũng
thế, nó hổ trợ để khám phá những không gian xã hội, vật
lý, tâm lý và tâm linh của bệnh nhân.
Câu
chuyện của Mattakundali – một chàng trai trẻ, cuối cùng bệnh
hoạn và đau khổ mà không có một sự giúp đở thuốc men
nào và chết yểu vì sự tham lẫn của người cha. Sauk
hi Mattakundali chết, cha chàng trở nên buồn khổ vô cùng và
thường đến nghĩa trang mỗi ngày để than khóc. Ý nghĩa
về cái chết được phơi bày trong câu chuyện của Mattakundali
là một hình thức hiện sinh. Cuối cùng sự buồn thảm
của người cha được giải quyết. Câu chuyện này có
thể được diễn giải nhưu một thí dụ tốt về lời khuyên
bảo cho sự tiếc thương.
Đức
Phật là một nhà tâm lý trị liệu vô song. Phương pháp
trị liệu của Ngài đã giúp cho hàng triệu người qua hàng
thế kỷ. Ngày nay, thế giới phương Tây đã nhận ra
cốt lõi tâm lý của Phật giáo. Nhiều hệ thống tâm
lý trị liệu ở phương Tây phát sinh từ giáo thuyết của
Đức Phật. Đức Thế Tôn biểu lộ sự công nhận thấu
cảm và không phán xét đến mỗi người đến với Người.
Ngài đã giúp con người đạt đến tuệ giác nội quan và
hổ trợ trong sự thúc đẩy lớn mạnh trong khi tiêu trừ những
cảm xúc rắc rối và khổ đau. Những phương pháp tâm
lý trị liệu của Ngài được là đặc biệt hiếm có và
được áp dụng khắp mọi thời gian.
Gautama
Buddha the Unique Psychotherapist
Tuệ
Uyển chuyển ngữ
05-04-2010
http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=7,9027,0,0,1,0