Sức khỏe là chuyện của mỗi người, của mọi người. Đời sống càng tiện
nghi, nhu cầu vật chất càng được thõa mãn thì con người càng xa lạ với
tự nhiên, với chính mình. Stress chính là nguyên nhân của 60-90% bệnh lý
đưa người ta đến bác sĩ. Mà bác sĩ thì chỉ chữa được cái đau chứ không
chữa được cái khổ, chữa được cái bệnh, chứ không chữa được cái hoạn.
Thiền có thể góp phần giải quyết căn cơ. Nhưng thiền là gì? Cách nào?
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, một nhà minh triết – Đức Phật- bảo đừng
vội tin, cứ đến nếm thử đi rồi biết. Đến và nếm thử. Đến là thực hành.
Làm đi, đừng nói nữa. Đừng “hí luận” nữa. Nếm thử là cảm nhận. Phải tự
mình cảm nhận, tự mình thể nghiệm để cảm nhận, không thể nhờ ai khác.
Hãy bắt đầu từ việc đơn giản nhất mà cốt lõi nhất: Đó là Thở. Và là Thở bụng.
Ô hay, thở phải bằng ngực chứ, phổi nằm ở ngực kia mà? Phổi nằm ở ngực,
nhưng thở nằm ở… bụng. Cứ nhìn một em bé đang ngủ say mà xem! Cứ nhìn
một người bình thường đang ngủ yên mà xem! Chỉ có cái bụng là phình lên
xẹp xuống, còn cái ngực thì… im re. Thật vậy, khi cái ngực mà khò khè,
cò cử thì đã bị bệnh rồi. Nói khác đi, cách thở sinh lý, thở thiên
nhiên, thở bình thường nhất chính là thở bụng. Người khỏe thì luôn thở
bụng nên thở bụng làm cho ta khỏe. “Bí quyết” nằm ở chỗ đơn giản nhất
đó. Các phương pháp khí công, dưỡng sinh, yoga, thiền… đều bắt đầu bằng
tập thở bụng. Tại sao phải tập? Bởi không biết tự lúc nào con người lại
xa rời cái nguồn gốc tự nhiên của mình, bày ra thở ngực, cũng như thay
vì ăn những thức ăn lành mạnh sẵn có trong thiên nhiên thì bày đặt chế
biến đủ kiểu cho nó hư đi! Do vậy, thở phải được rèn tập trở lại. Về
sinh lý, cơ hô hấp chính của ta là cơ hoành, cơ vắt ngang giữa bụng và
ngực chớ không phải cơ gian sườn hay cơ cổ. Khi các cơ gian sườn, cơ cổ
mà ráng sức phì phò thì đã bệnh rồi!
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy thiền định của Phật, từ Tứ
niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức
xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là THỞ. Kinh viết “Thở vào thì biết thở
vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra
ngắn thì biết thở ra ngắn…”. Tóm lại, là luôn quán sát hơi thở, đặt niệm
(nhớ, nghĩ) vào hơi thở. Chỉ có vậy. Nhưng khi đọc câu “Thở vào thì
biết thở vào, thở ra thì biết thở ra…” có thể gây nhầm lẫn, bởi ai mà
chả biết thở cơ chứ! Thế nhưng ở đây không phải là biết thở, mà là nhận
thức được (recognize), ý thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái
sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra kia kìa. Đó mới là điều
cốt lõi! Nhận thức, ý thức, cảm nhận, ấy chính là niệm (nhớ), là quán (
quan sát, suy tưởng) về sự thở, về hơi thở. Nhờ đó mà một mặt, ta giải
thoát tâm ta khỏi những vướng mắc lăng xăng, một mặt ta nhận ra ý nghĩa
cuộc sống và từ đó, buông bỏ bao nỗi lo toan, sợ hãi của kiếp nhân sinh
để có cuộc sống có sức khỏe và hạnh phúc.
Câu hỏi đặt ra là tại sao quán sát hơi thở? Quán sát hơi thở thì có gì
hay? Sao lại không chọn các đối tượng khác để quán sát? Thật ra thì quán
sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là pháp- nhứt thiết pháp giai
thị Phật pháp- nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện để thấy “ngũ uẩn
giai không” hơn, tức thấy vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý
niệm, một khái niệm mà là một trạng thái. Để thấy “vô ngã” thì tốt nhất
là quán sát từ “ngã”, từ hơi thở là tốt nhất, một đối tượng sẵn có ngay
trong bản thân mình. Tim đập cũng lúc nhanh lúc chậm, nhưng khó theo
dõi, hoàn toàn ngoài ý muốn, khó can thiệp. Dạ dày thì làm vịệc âm thầm,
khó quan sát. Các bộ phận khác cũng vậy. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan
sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng
phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai
nhìn thấy, chỉ riêng ta biết với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục
lần. Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở
lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu,
ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở
nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường.
Nhờ đó mà ta quán sát được cái tâm ta. Thở cũng gắn với các hoạt động cơ
bắp. Khi mệt, ta mệt “bỡ hơi tai”, mệt đứt hơi, mệt hết hơi; khi khỏe,
ta thở nhẹ nhàng sảng khoái! Nhờ đó mà ta quán sát được cái thân ta. Rõ
ràng chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm,
là cái cầu nối giữa thân và tâm. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức,
vừa là vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Quan
sát thở, ta còn có dịp đào sâu xuống…vô thức. Ta thấy thở gắn với sự
sống chết của kiếp người. Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt
thở, là ngừng thở. Để ý một chút ta sẽ thấy đời người thực ra chỉ là…
một hơi thở! Khi chào đời em bé khóc thét lên một tiếng thật to để hít
mạnh không khí vào phổi để rồi khi lìa đời, cụ già lại thở hắt ra một
cái, trả lại cho đời tất cả những gì mình đã vay mượn! Giữa hai lần thở
vào thở ra đó là những đợt thở… lăn tăn như những làn sóng nhỏ, mà nối
kết các làn sóng nhỏ lăn tăn đó lại với nhau ta có cuộc rong chơi trong
cõi “Ta bà”! Mỗi hơi thở vào ra trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây,
trong cơ thể con người đã có hằng trăm triệu tế bào hồng cầu bị hủy diệt
và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản sinh. Quán sát hơi thở do đó
ta thấy đựơc sự sinh diệt.
Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hóa cảm xúc ta, cả hành
vi ta nữa. Đang sôi giận mà kịp nhớ lại, quán sát sự thở của mình thấy
nó phập phều kỳ cục, tức cười, bèn quên giận mà hơi thở được điều hoà
trở lại lúc nào không hay: điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển!
Nói khác đi, ta có thể dùng cách quán sát hơi thở để tự kiểm sóat cảm
xúc và hành vi của mình. Quán sát hơi thở cũng lôi kéo ta trở về hiện
tại tức khắc- không còn đắm mình trong dĩ vãng hay tương lai. Bởi vì thở
là thở trong hiện tại. Ở đây và bây giờ.
Giận dữ , lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Cho nên những lúc
đó ta dễ cảm thấy kiệt sức! Ngủ là một cách giảm tiêu hao năng lượng,
nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải
toàn thân khi thức giấc!Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một
cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm tiêu thụ năng
lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm thấy thấy nhẹ
nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng khóai đó xảy ra trên từng tế
bào của cơ thể. Một cảm giác lâng lâng dễ chịu toàn thân của hành giả,
phải chăng đó chính là trạng thái hỷ lạc (thiền duyệt?).
Phổi ta như một cái máy bơm, “phình xẹp” để đưa khí vào ra là nhờ có áp
suất thay đổi. Khi áp suất âm trong phổi và các phế nang thì khí bên
ngoài tự động lùa vào, tuôn vào, lấp đầy phổi và các phế nang, cho đến
một lúc lượng khí bên trong đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương,
phổi sẽ đẩy khí ra. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, hay nói cách
khác, áp suất bằng không (0=zéro), thì khí bên trong cơ thể và bên
ngoài vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Đó chính là quãng
lặng. Quãng lặng đó ở cuối thì thở ra – trước khi thở vào trở lại –
thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tịnh, vì không hề tốn năng
lượng. Như chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số
không, không tốn nhiên liệu! Đó chính là giai đoạn “Prana”. Pra có
nghĩa là trước và Ana là thở vào ( trước thì thở vào cũng có nghĩa là
sau thì thở ra). Prana đã được biết đến từ xa xưa. Yoga, khí công, cũng
như y học Đông phương nói chung đã nói đến Prana từ thời cổ đại. Trong
yoga có “pranayama” là kiểm soát hơi thở. Trong thiền định, không còn
phải là vấn đề kiểm soát hơi thở nữa mà hơi thở sẽ tự kiểm soát! Đến một
lúc nào đó, khi vào sâu trong thiền định, hành giả sẽ không cảm nhận
mình thở nữa. Hơi thở nhẹ gần như ngưng bặt. An tịnh. Hòa tan. Tan biến.
Có thể nói đến một phương pháp thiền tập- tạm gọi là “Pranasati”
chăng?- tức đặt “niệm” vào quãng lặng, và thực chất cũng không còn cả
niệm, một sự “vô niệm” hoàn toàn chăng? Những hành giả giàu kinh nghiệm
(thiện xảo) cho biết có thể vào định ngay hơi thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn
tập mà khoảng lặng ngày càng dài ra, mênh mông ra như không còn biên
giới, như hòa tan vào hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc đó không còn
ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người… Tiến trình hô hấp vẫn
diễn ra, sâu trong các tế bào, nhưng ở mức thấp nhất, nhẹ nhàng nhất,
tiêu thụ năng lượng tối thiểu và do vậy nhu cầu sản xuất năng lượng
không còn đòi hỏi nữa, các tế bào ở trong trạng thái hoàn toàn tĩnh
lặng, “nghỉ ngơi”!
Khi nói đến thiền, ta thường nghĩ ngay đến ngồi: ngồi thiền. Rồi nào
kiết già, bán già, hết sức phức tạp và bí hiểm như chỉ dành riêng cho
một giới nào đó. Thiền thực ra không nhất thiết phải ngồi, không nhất
thiết phải kiết già, bán già. Đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền được. Người
Nhật, người Tây Tạng có cách “ngồi” thiền riêng của họ, người Tây
phương có cách khác hơn, miễn sao có một tư thế thoải mái, dễ chịu là
được. Thế nhưng cách ngồi tréo chân (kiết già, bán già) lại có lợi ích
hơn cả. Tại sao? Tại vì khi ta đứng, ta đi, các bắp cơ phía trước của
hai chân phải co lại để nâng đỡ cả thân mình, trong khi các bắp cơ phía
sau thì duỗi ra. Lúc ngồi tréo chân ta đã làm cho hoạt động các bắp cơ
đổi chiều. Đây là phương pháp “đối chứng trị liệu”. Khi đi bộ lâu, mỏi
chân, ta ngồi xuống, xếp bằng và hít thở một lúc sẽ thấy hai chân bớt
mỏi rất nhanh. Cơ nào đã duỗi lâu thì được co lại, cơ nào đã co lâu thì
được duỗi ra! Thiền hay yoga do vậy khai thác kỹ thuật này để trị liệu
rất có hiệu quả sự mỏi mệt, không kể ngồi theo cách này cũng giúp làm
giảm sự tiêu thụ oxy đáng kể!
Giữ lưng thẳng đứng cũng là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong thiền.
Ta dễ có khuynh hướng chiều theo độ cong tự nhiên của cột sống dưới sức
nặng của thân thể do trọng lực- và nhất là do tuổi tác- dễ dẫn đến cong
vẹo cột sống hoặc đau cột sống cổ, đau thắt lưng. Ở tuổi trung niên
nhiều người đã bị những cơn đau dữ dội đến phát khóc. Đó là những cơn
đau cấp tính, nếu nghỉ ngơi hoàn toàn và uống thuốc theo toa bác sĩ
chừng mươi ngày sẽ khỏi, nhưng không khỏi hẳn, dễ tái phát do tư thế
chưa được điều chỉnh. Bởi nguồn gốc sâu xa hơn của đau cột sống, đau
thắt lưng lại là do stress, nếp sống căng thẳng phải chịu đựng, dồn nén
lâu ngày. Cơn đau là tiếng chuông báo động để ta “tỉnh ngộ”! Một người
cúi gầm suốt ngày trước máy vi tính hay tivi thì sớm muộn cũng bị những
hội chứng về cột sống. Một người đi chùa lạy Phật mà tư thế không đúng
thì lâu ngày cũng bị đau cột sống như vậy! Nhất là khi đã có tuổi, cột
sống có khuynh hướng cứng lại, mất đàn hồi, các lớp sụn độn giữa hai đốt
sống dễ bị bẹp, có khi “xì” ra một bên, chèn ép gây đau. Do vậy, giữ
lưng thẳng đứng trong lúc ngồi thiền là điều cần thiết. Kết hợp với tập
thể dụng bụng, có nghĩa là tập cho thắt lưng được dẻo dai, cũng sẽ làm
chậm tiến trình lão hóa.
Trong thiền, một yếu tố rất quyết định nữa là sự thả lỏng toàn
thân,“buông xả” toàn thân, mà có người ví như thả trôi theo dòng nước.
Thả lỏng toàn thân là cách làm cho toàn thân như rủ xuống, xẹp xuống,
bình bồng, không còn căng cứng nữa! Có thể nói cơ thể ta như chỉ gồm có
hai thành phần: “thân xác” và “thân hơi”. Thả lỏng là “xì” cho xẹp cái
thân hơi đó- mà tiếng Việt ta có một từ rất hay là “xả hơi”! Khi quá
mệt, quá căng thẳng thì ta cần “xả hơi”! Khi đó, không một bộ phận nào
của cơ thể còn phải căng nữa, phải gồng nữa, kể cả vỏ não. Tiêu hao năng
lượng cho trương lực cơ ( tonus musculaire) và hoạt động của vỏ não sẽ
giảm thấp nhất có thể được. Y học chứng minh tiêu hao năng lượng trong
thiền rất thấp, dưới mức chuyển hóa cơ bản, thấp hơn cả khi ngủ, nhờ vậy
mà năng lượng được tích lũy tốt hơn, giúp chữa nhiều thứ bệnh hoạn một
cách hiệu quả.
Cơ thể ta có khoảng trăm ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế bào thực chất là một
“sinh vật” háo ăn, háo làm, háo tiêu thụ oxy ( để kết hợp với thức ăn
qua những phản ứng gọi là oxyt-hóa) nhằm tạo ra năng lượng cho cơ thể
hoạt động. Nhưng oxyt-hóa càng mạnh thì càng tạo thêm các gốc tự do và
các chất… bã, làm cho cơ thể mau mệt mỏi, mau già nua! Giống như một
thanh sắt để ngoài nắng gió một thời gian sẽ bị oxyt-hóa thành rỉ sét
ngay. Khi cơ thể có cách nào làm giảm tiêu thụ năng lượng không cần
thiết thì các tế bào cũng sẽ được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng.
Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một
cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp các dưỡng
chất qua thức ăn (bột, đạm, dầu mỡ)… vốn là nguồn tạo năng lượng! Ăn ít
mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ
hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái. Các nghiên cứu trên sinh
vật bị cho nhịn đói vừa phải thấy sống lâu hơn và trẻ lâu hơn!
Các nghiên cứu y sinh học cho thấy các nhà sư có thể làm giảm nhu cầu
oxygen đến 40% trong lúc thiền. Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ thiền chắc
cũng giống như ngủ hay nghỉ ngơi tích cực, nhưng thật ra khác hẳn!
Thiền khoảng 30-40 phút thì mức lactate trong động mạch giảm,
phenylalanine tăng 20%, giảm các họat động hệ giao cảm trên bề mặt da,
giảm nhịp tim và hô hấp đáng kể.
Cortisol và ACTH cũng giảm, do đó, không bị stress; trong khi Arginine
và Vasopressin, được coi là có vai trò trong học tập và trí nhớ gia tăng
đáng kể. Nhiều nghiên cứu ngày càng sâu hơn về beta-endorphin,
corticotropin, melatonin, DHEA… hứa hẹn giải thích cơ chế tác dụng của
thiền trên nhiều mặt… trong tương lai.
Những năm gần đây, nhờ có các phương tiện như PET (positron emission
tomography) hay SPECT (single photon emission tomography) và fMRI
(functional magnetic resonance imaging) để đo hoạt động tưới máu não,
cho thấy một số vùng được tưới nhiều hơn vùng khác, chứng minh thiền
khác với giấc ngủ, mà đó là một trạng thái tỉnh giác an tịnh (state of
restful alertness). Kỹ thuật fMRI cho thấy hoạt động tưới máu não gia
tăng ở vùng liên quan đến sự chú ý (vùng lateral prefrontal và
parietal), cũng như gia tăng ở vùng kiểm soát tự động, tỉnh thức
(pregenual anterior angulate, amygdala, midbrain và hypothalamus). Nhưng
nói chung, tưới máu não trong thời gian thiền rõ ràng là giảm một cách
đáng kể, chỉ tập trung vào một số vùng nhất định như đã nêu trên. Điều
này cho thấy thiền giả không tiêu hao nhiều năng lựơng cho các hoạt động
vỏ não.
Các nghiên cứu về sinh lý học
trong thiền vẫn còn đang tiếp tục nhưng rõ ràng thiền có khả năng làm
giảm stress, giảm huyết áp và tạo sự sảng khoái, là yếu tố của sức khỏe,
của chất lượng cuộc sống. Thiền ngày càng trở nên một kỹ thuật trị liệu
hiệu quả trong y sinh học, nhất là lĩnh vực tâm lý trị liệu, nên đã có
nhiều ứng dụng thực tiễn trong y khoa.
Nghiên cứu về lâm sàng cho thấy
thiền giúp giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân, giảm lo âu, trầm cảm,
giảm 50% các triệu chứng tâm thần nói chung. Người hành thiền hơn 5 năm
có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12 năm so với người cùng tuổi, dựa trên 3
yếu tố là huyết áp, khả năng điều tiết nhìn gần của thị giác và khả năng
phân biệt của thính giác. Học sinh cấp 2 có thực tập thiền trên 2
tháng, có kết quả học tập tốt hơn, có khả năng tập trung, thói quen làm
việc, cải thiện hành vi (giảm xung đột, hung hăng), tự tin hơn, có khả
năng hợp tác và quan hệ tốt hơn với người khác. Thiền giúp làm giảm cân,
giảm béo phì, giảm nghiện thuốc lá, rượu, các chất ma túy nói chung.
Bầu khí quyển chúng ta thở hôm
nay so với cách đây 700 triệu năm – tức là khi có những sinh vật đơn bào
đầu tiên trên trái đất- thì cũng chẳng khác biệt! Với người anh em đơn
bào đó thì ta cũng đang cùng hút chung một bầu khí, cùng bú chung một
“núm vú” vũ trụ, cùng với muôn loài khác nữa! Các sinh vật cùng chia sẻ
một cách…bình đẳng, không phân biệt và theo nhu cầu như vậy. Ta hút lấy
oxy của không khí, lại tạo ra carbonic; trong khi cây cỏ hút carbonic
lại tạo ra oxy. Con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương… cũng phình ra
xẹp vào như ta vậy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi, không thêm bớt.
Nhưng chính con người có thể làm hại môi trường sống của mình mà không
hay nếu cứ theo đà hủy diệt sự sống của thiên nhiên và muôn loài trên
hành tinh xanh này!
Hãy nương tựa chính mình. Bởi nói cho cùng, ai có thể “thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai?