Chúng ta thường tụng: Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. Nghĩa là: theo kinh điển Phật giáo, Bồ Tát Di Lặc sẽ thành một vị Phật trong tương lai. Như
vậy, lễ vía đức Bồ Tát Di Lặc ngày đầu năm, đối với mọi người, mang ý
nghĩa hy vọng được vạn sự kiết tường, vạn sự như ý trong năm mới. Còn
đối với những người tu học, ngày vía đức Bồ Tát Di Lặc còn mang một ý
nghĩa trọng đại, đó là sự tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, quyết tâm quyết
chí để chuyển hóa tâm trí, từ một phàm phu tục tử, đầy dẫy phiền não và
khổ đau của ngày hôm nay, trở thành sáng suốt, giác ngộ và giải thoát
của một vị Phật trong tương lai.
Nhân
dịp đầu xuân năm nay, chúng ta hãy lắng lòng, dẹp qua một bên niềm ưu
tư về những chuyện thăng trầm của thế sự, cùng nhau cố gắng tìm hiểu về
đức Bồ Tát Di Lặc và những hạnh nguyện của Ngài, để áp dụng ngay trong
cuộc sống của người Phật Tử tại gia, nhằm mục đích tạo được sự an lạc và
hạnh phúc một cách trọn vẹn và thiết thực.
Theo
quan niệm thông thường của dân gian, người ta thường kiêng cử đủ thứ
chuyện trong ngày đầu năm mới, bởi vì cho rằng, chuyện gì xảy ra trong
ngày đầu một năm sẽ "giông" suốt cả năm, nghĩa là chuyện đó sẽ được lặp
lại nhiều lần trong suốt năm đó. Người ta coi hướng tốt để
xuất hành, chọn những người "tốt tên tốt tướng" để mời đến nhà xông đất
đầu năm, với niềm hy vọng được "hên" trọn năm, được tài lộc dồi dào
suốt năm. Chẳng hạn người tên "Vinh" đi cùng với người tên
"Quang", hoặc người tên "Tấn" đi cùng với người tên "Phát", hoặc người
tên "Tài" đi cùng với người tên "Lộc" đến thăm, trong ngày đầu năm thì
được lắm, tốt lắm, hoan nghênh. Còn như người tên "Quan" đi cùng với người tên "Tài", thì không được đâu. Ngày
đầu một năm người ta kiêng cữ không quét nhà, kiêng cữ không khua chén
đũa bát đĩa, với niềm hy vọng giữ được sự sung túc, an hòa trong gia đạo
suốt năm.
Thực
sự, ai ai cũng biết rằng những điều đó không đúng thực tế, người ta chỉ
nghĩ và làm theo thói quen, theo phong tục tập quán, với niềm hy vọng
được điều này điều kia, chứ không có căn cứ vào đâu cả, và nhất là không
đúng với Chánh Pháp, nhưng cho đến ngày nay, vẫn còn không ít người cứ
tin như vậy. Bởi thế cho nên, trong đạo Phật, chư Tổ chọn
ngày mùng một Tết Nguyên Đán là ngày vía đức Di Lặc và Phật Tử chúng ta
thường gọi mùa xuân hằng năm là "XUÂN DI LẶC", mang ý nghĩa: "Xuân Hoan
Hỷ", "Xuân Hy Vọng", hay "Xuân Hạnh Phúc". Ý nghĩa này hết sức tích cực, thâm trầm và lợi ích, chúng ta nên cùng nhau tìm hiểu.
*** Trước
hết, chúng ta được biết, hình ảnh của đức Di Lặc được thờ trong các
chùa, trông rất khỏe mạnh, mập mạp, và gương mặt luôn luôn tươi cười một
cách hoan hỷ. Đặc biệt, chúng ta thấy có sáu đứa bé bám trên thân của Ngài. Đứa
thì móc mắt, đứa thì móc mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì chọc lỗ tai,
đứa thì moi rún, mà Ngài vẫn tươi cười, như không có chuyện gì làm cho
Ngài phải phiền hà bực dọc hết trơn. Hình ảnh của sáu đứa
bé chính là bài học tích cực, giúp chúng ta xây dựng được một cuộc sống
an lạc và hạnh phúc cho chính chúng ta và cho những người chung quanh,
ngay trong hiện đời, ngay trong cuộc sống đầy phiền não và khổ đau này.
Có người còn gọi bức tượng đó là "Phật Hoan Hỷ". Đầu năm đến chùa cúng vái Ngài để được "hoan hỷ" suốt năm. Nhưng cũng có nhiều người hiểu lầm cho đó là vị thần có nhiều con cái, để những ai muốn có con, hãy đến lễ lạy Ngài mà cầu xin! Cũng
có nhiều người lầm lẫn với bức tượng khác của một vị thần to béo, miệng
cười toe toét, có vẻ khoái trá, hai tay nâng một lượng vàng, đó chính
là tượng thần tài, không liên quan gì đến Phật giáo.
Sáu
đứa bé bám vào thân của Ngài đó tượng trưng cho "lục tặc", tức là sáu
tên giặc chuyên gây phiền não, gây rắc rối, gây bực dọc cho chúng ta
trong cuộc sống thường ngày. Sáu tên giặc đó là những ai? Làm sao chúng có thể gây rắc rối cho cuộc đời của chúng ta được? Chúng
ta cần nhận diện rõ ràng sáu tên giặc đó, mới có thể điều phục được
chúng, để xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc, một cách tích cực hơn.
Chúng ta có lục căn, tức là sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Với
hai con mắt, chúng ta trông thấy những hình ảnh nào dễ thương, hạp
nhãn, thì sanh tâm đắm nhiễm, nhớ nhung, tham luyến, muốn chiếm đoạt làm
của riêng mình; còn nếu trông thấy những hình ảnh khó ưa, xấu xí, thấy
phát ghét, thì sanh tâm bực dọc, tức giận, bất an. Với hai
cái tai, chúng ta nghe những tiếng êm dịu, tâng bốc, thì sanh tâm đắm
nhiễm, ưa thích; còn nếu nghe những lời chỉ trích khó nghe, chạm đến tự
ái, chạm đến bản ngã to lớn của mình, thì không kham nhẫn, nên sanh tâm
sân hận, oán ghét, bất an. Với cái mũi, chúng ta chỉ thích
những mùi hương thơm ngát, dễ chịu và ghét những mùi khó chịu, những
mùi lạ không vừa ý, nên sanh tâm bực dọc, bất an. Với cái
lưỡi, chúng ta chỉ thích ăn ngon khoái khẩu, hạp vị, mà không nghĩ đến
sự đau khổ của các chúng sanh bị giết làm thịt; còn nếu không được ngon
miệng, thì sanh tâm bực bội, gắt gỏng, bất an. Với cái
thân tứ đại giả tạm này, nhưng vì mê lầm, chúng ta thường chấp là chính
mình, chúng ta chỉ thích mặc đẹp và những xúc chạm vừa ý; còn nếu không
được như ý, thì sanh tâm cau có, quạu quọ, tức tối, bất an. Quan
trọng hơn cả với cái tâm ý lăng xăng lộn xộn, không một giây phút ngừng
nghỉ, chúng ta luôn luôn suy tư, nghĩ tưởng lung tung, linh tinh lang
tang, tính toán những điều gì có lợi cho bản thân mình, cho gia đình
mình, cho tổ chức mình, luôn luôn khen mình khinh người.
Nghĩa
là trong cuộc sống hằng ngày, khi "sáu căn" của chúng ta tiếp xúc với
"sáu trần", mà tâm niệm khởi lên thế này thế nọ, trong kinh sách gọi là
"sáu thức", tức là phiền não bất an dấy lên vậy. Trong
trường hợp như vậy, lục căn của chúng ta chính là lục tặc, tức là sáu
tên giặc, đã, đang và sẽ dẫn dắt chúng ta vào sanh tử luân hồi, nhiều
đời nhiều kiếp. Nói cách khác, sáu căn của chúng ta chính là cội gốc của sinh tử luân hồi. Người ta thường nói: "tam bành" (tham, sân, si) do "lục tặc" (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) gây ra, chính là nghĩa đó vậy.
Tuy nhiên, trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
"Sáu căn chính là cội gốc của sanh tử luân hồi
và sáu căn cũng chính là cội gốc của giải thoát niết bàn".
Tại sao vậy? Bởi
vì, nếu lục căn của chúng ta, tức là sáu giác quan, gồm có: nhãn, nhĩ,
tĩ, thiệt, thân và ý, khi tiếp xúc với lục trần, tức là sáu trần cảnh
bên ngoài gồm có: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp, mà không đắm
nhiễm, không dính mắc, không sanh lục thức, thì chúng ta đâu có bị phiền
não, trong lòng đâu có nổi "tam bành". Tức là chúng ta không tham, không sân, không si, dù vẫn thường xuyên tiếp xúc với mọi người mọi cảnh trong cuộc đời. Giữ gìn được như vậy tức là chúng ta được giải thoát khỏi phiền não khổ đau, sống trong cảnh giới niết bàn an lạc vậy.
Mắt
trông thấy hình sắc thì biết rõ ràng người nào là người nào, món này là
món này, nhưng không khởi niệm thương hay ghét, ưa hay không ưa. Tai nghe thấy tiếng thì biết rõ ràng là tán thán hay phê phán, nhưng không khởi niệm khoái chí hay bực bội. Mũi ngửi thấy mùi thì biết rõ ràng là mùi hương gì, nhưng không khởi niệm thích hay không thích. Lưỡi nếm vị thì biết rõ ràng là vị gì, nhưng không khởi niệm khen ngon hay chê dở. Thân xúc chạm thì biết rõ ràng là tốt hay xấu, nhưng không khởi niệm dễ chịu hay khó chịu. Tâm
ý nghĩ suy thì biết rõ ràng là đúng hay sai, phải hay quấy, nhưng không
khởi niệm kỳ thị, đố kỵ, so sánh, hơn thua, tranh chấp. Do
đó, chúng ta đâu có bị kéo lôi, không có bị cột trói vào chuyện thương
thương ghét ghét, chuyện đấu tranh tranh đấu, chuyện lặp đi lặp lại,
chuyện nói tới nói lui, chuyện nói xuôi nói ngược, nghĩa là chúng ta đã
thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau đó vậy.
Thí
dụ như mắt trông thấy lượng vàng, trông thấy kim cương hột xoàn, mà
chúng ta không nổi lòng tham lam, ham thích, muốn sở hữu nó, thì đâu
phải khổ công khó nhọc, đi làm đầu tắt mặt tối, để mua sắm nó. Còn
nếu bản thân, vốn đã lười biếng, không chịu làm việc, mà lại tham lam,
muốn có lượng vàng, muốn có hột xoàn, thì còn khổ hơn, gấp muôn bội
phần! Không phải là chúng ta không cần tiền để sinh sống, nhưng cổ nhơn có dạy:
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Nghĩa là người nào biết đủ thì lúc nào cũng thấy đủ và người nào biết nhàn thì lúc nào cũng thấy nhàn. Chỉ cần "biết" như vậy thì cuộc đời đã đủ quá rồi, đã nhàn quá rồi. Bằng như ngược lại, bao nhiêu mới gọi là đủ, chừng nào mới gọi là nhàn? Con
người bận lo toan chuyện tranh danh đoạt lợi suốt cả cuộc đời, cho nên
không bao giờ thấy đủ, chưa bao giờ thấy nhàn, chẳng kịp tỉnh thức thì
đầu đã bạc trắng, thân đã mỏi mòn, không còn thời giờ để lo liệu sắm sửa
hành trang, thì đã phải đi du lịch thế giới khác rồi!
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đàng diệc bất xứng ý.
Nghĩa là người biết thế nào là đủ, tuy nằm trên đất cũng lấy làm an lạc, vui sướng. Người không biết thế nào là đủ, dù thân có ở thiên đàng, tâm cũng vẫn không vừa ý! Chỉ cần "biết" như vậy thì cuộc đời an lạc và hạnh phúc hiện tiền! Bằng
như ngược lại, dù có được cầu chúc tiêu diêu nơi miền cực lạc hay siêu
thăng về cõi thiên đàng trên báo chí, cũng khó mà được lắm thay!
Thí
dụ như tai nghe thấy tiếng khó nghe, mà tâm không chấp những lời vô
nghĩa, thì chúng ta đâu có nổi lòng sân, và đâu có bị lôi vào vòng sanh
tử luân hồi khổ đau. Trong kinh điển, Đức Phật có dạy
chúng ta là "y nghĩa bất y ngữ", tức là chỉ nghe theo những lời nói có
nghĩa, mà không chấp những lời nói suông vô nghĩa. Nếu có người mắng chúng ta là đồ ngu, mà chúng ta nổi sân, cãi lại cho ra lẽ, thì quả là chúng ta ngu thật rồi, còn gì nói nữa. Nếu
có người miệt thị chúng ta mất uy tín quá, mà chúng ta khiêm nhường
chẳng thấy mình có uy tín gì để mà mất, thì bình yên quá! Những lời nói vô nghĩa như vậy khi đến nhĩ căn của chúng ta, tức là hai cái lỗ tai, cũng giống như gió thoảng mà thôi! Được như vậy, chúng ta sẽ sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc, không nghi.
Bởi vậy, có một bài kệ như sau:
Mắt trông thấy sắc rồi thôi, (không dính)
Tai nghe thấy tiếng, nghe rồi thì không. (không mắc)
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng, (vô niệm)
Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân. (giải thoát)
Ngược lại, cũng có bài kệ như sau:
Mắt thấy sắc, thấy rồi thì dính, (dính)
Tai nghe tiếng, nghe rồi thì mắc. (mắc)
Tam bành lục tặc trong lòng, (loạn tâm)
Nặng nề ta lọt vào vòng tử sanh. (phiền não)
Có người đến hỏi một vị thiền sư: "Làm sao để được giải thoát?".
Vị thiền sư đáp: "Lục căn tiếp xúc lục trần, không sanh lục thức là giải thoát".
Nghĩa
là thường ngày, nếu chúng ta sống trong cõi đời này, sáu giác quan của
chúng ta tiếp xúc với sáu đối tượng ở trần đời, mà không sanh tâm dính
mắc, không sanh tâm loạn động vì tham sân si thì chúng ta sẽ được tự
tại, giải thoát ngay hiện đời. Mắt trông thấy sắc, tai
nghe thấy tiếng, mũi ngửi biết mùi, lưỡi nếm biết vị, nhưng mà đừng khởi
niệm thương hay ghét, thích hay không thích, nếu như có khởi niệm rồi
thì đừng theo. Như vậy chúng ta đâu có gì gọi là phiền não, sân hận hay bực dọc nữa.
Từ
xưa đến giờ, mỗi khi tâm khởi niệm, chúng ta liền theo đến cùng, theo
từ chuyện đông sang chuyện tây, từ chuyện xưa đến chuyện nay, từ chuyện
quốc gia đại sự đến chuyện hang cùng ngõ hẹp, từ chuyện xứ người đến
chuyện xứ mình, từ chuyện người lớn đến chuyện trẻ con, từ đủ mọi thứ
chuyện trên trần đời, để rồi than nhức đầu vì nhiều chuyện quá, than
trời trách đất vì khổ thân khổ não quá!
Còn như sáu đứa bé luôn luôn chọc phá đức Di Lặc, mà Ngài vẫn tươi cười hoan hỷ như không có chuyện gì xảy ra. Nghĩa
là "lục căn" của Ngài vẫn thường tiếp xúc với "lục trần", mà tâm của
Ngài không sanh ra "lục thức", thì Ngài sống rất an nhiên, tự tại. Đó
là cảnh giới của những người "vô tâm", tức là những người không có tâm
niệm lăng xăng lộn xộn, cho nên không có phiền não và khổ đau. Đó
là cảnh giới niết bàn ở ngay trong tâm trí của chúng ta hiện đời, chứ
không phải đợi sau khi chết mới tiêu diêu nơi miền cực lạc, hay lên trên
thiên đàng đâu đâu không tưởng.
Đạo
Phật chủ yếu chỉ bày phương pháp rèn luyện tâm, chuyển hóa tâm, từ vô
minh trở thành giác ngộ, từ tà vạy trở thành chân chính, từ phiền não và
khổ đau trở thành an lạc và hạnh phúc. Đạo
Phật được áp dụng ngay trong thực tế của cuộc đời, trong mọi hoàn cảnh,
giúp những người thiện tâm được sống bình an ngay tại thế gian này, chứ
đạo Phật không phải chỉ lo cầu an cho người sống, cầu siêu cho người
quá cố mà thôi. Hiểu được như vậy mới không phí phạm cả cuộc đời quí báu này!
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy:
"Tâm cảnh không dính nhau là giải thoát".
Nghĩa
là chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên
trần đời, trong kinh điển gọi là "kiến văn giác tri", nếu tâm của chúng
ta không dính mắc thì không phiền não. Không phiền não tức là giải thoát. Thật là hết sức đơn giản. Lý lẽ tuy cao siêu vi diệu, nhưng hết sức thực tế. Bất
cứ ai cũng có thể làm được, không cần phải thờ lạy, cúng kiến, không
phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp, xuất xứ, học thức,
nam nữ, già trẻ, bé lớn, giàu nghèo, sang hèn.
Tuy
nhiên, nói như vậy thì hiểu như vậy, chứ còn thực hiện được cái chỗ
"không dính", cái chỗ "không mắc", cái chữ "vô tâm", cái chữ "vô niệm",
thì chúng ta cần phải có phương pháp tu để ứng dụng, để thực hành. Làm sao chúng ta có thể sống vui tươi, hạnh phúc suốt năm và cả đời như đức Di Lặc? Điều
đầu tiên, chúng ta hãy can đảm nhận thấy rõ cuộc sống của chúng ta vui
ít khổ nhiều, đừng tự dối mình gạt người, nhưng không bi quan yếm thế và
cũng đừng sống trong phiền não, khổ đau bi thảm như trước đây nữa. Muốn
được như vậy, chúng ta phải đảnh lễ Ngài với tất cả lòng thành kính và
hướng tâm hồn học theo cái hạnh nguyện của Ngài, đặng tâm trí được an
vui phơi phới, dù đang ở trong bất cứ cảnh ngộ nào cũng vậy. Đức Di Lặc tu theo pháp môn nào mà được tự tại như vậy? Đó chính nhờ Ngài tu bốn hạnh "từ, bi, hỷ, xả", trong kinh sách gọi là "tứ vô lượng tâm", tức là bốn tâm địa rộng lớn thênh thang, không thể nghĩ bàn.
Với tâm từ, Ngài luôn luôn mang niềm vui đến với mọi người, bất cứ lúc nào, không phân biệt gì cả. Với tâm bi, Ngài luôn luôn cứu giúp những người đau khổ, những người bất hạnh, thương người như thương chính mình. Với
tâm hỷ, Ngài luôn luôn vui vẻ, hoan hỷ với những việc lành, những hạnh
phúc, những thành tựu của tất cả mọi người xung quanh, không có tâm ganh
ghét, đố kỵ, tị hiềm. Ngài luôn luôn nhớ câu: "Nam mô nhứt thiết chúng sanh hỷ kiến bồ tát". Nghĩa là Ngài luôn luôn noi gương những vị bồ tát mà tất cả mọi người đều hoan hỷ khi gặp mặt. Với tâm xả, Ngài không bao giờ chất chứa trong lòng, trong kho tàng tâm thức, bất cứ điều phiền muộn nào, dù nhỏ đến đâu. Trái lại, Ngài luôn luôn tha thứ cho bất cứ ai gây phiền muộn, rắc rối cho Ngài. Đức
Di Lặc không bị bất cứ phiền não nào tác động, cho nên thân tướng mập
mạp khỏe mạnh, tâm trí thanh thản, thảnh thơi thơ thới, nét mặt lúc nào
cũng hoan hỷ vui tươi. Nếu chúng ta muốn được an nhiên tự
tại, muốn được hạnh phúc ngay hiện đời, chúng ta phải noi gương Ngài để
tu bốn hạnh "từ, bi, hỷ, xả" vậy.
Nếu
có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ biết thương yêu và thông cảm với tất
cả mọi người, dù kẻ đó đang gây phiền não cho mình, đồng thời chúng ta
sẽ giảm bớt lòng tham và lòng sân. Thí dụ như chúng ta
giúp đỡ bất cứ ai điều gì, hay chúng ta nuôi nấng con cái của mình, bởi
do lòng từ bi, thì chúng ta sẽ không cầu báo đáp, không nhớ công lao,
không kể lể ơn nghĩa, với mọi người hay ngay cả với con cái trong gia
đình. Do đó, ai cũng hoan hỷ khi gặp mặt, không ai cảm thấy khó chịu, sau khi thọ ơn của chúng ta.
Chúng ta thường có lòng từ bi với những loài vật nhỏ nhít như ruồi muỗi côn trùng, hay lớn hơn như gà vịt heo bò. Chúng ta không nỡ giết hại chúng, không nỡ ăn thịt chúng. Nhưng
đối với những con người sống chung quanh, như cha mẹ, vợ chồng, con
cái, bạn bè, đồng nghiệp, đồng hương, đồng đạo, đồng bào, đôi khi chúng
ta không nhịn nổi một câu nói chạm đến tự ái hay một hành động xúc phạm
đến danh dự của mình, dù vô tình hay cố ý! Lòng từ bi như vậy đó cần phải được xét lại! Cũng vậy, chúng ta thường có lòng từ bi với người chưa quen hay với người ở phương xa, lâu lâu gặp một lần. Nhưng chúng ta khó có lòng từ bi với những người ở gần chung quanh, khi họ nói lời nào mích lòng mình, làm điều gì trái ý mình.
Khi
chúng ta thấy một người làm việc phước thiện, như cúng chùa hay tặng
hội từ thiện một số tịnh tài chẳng hạn, nếu chúng ta phát tâm tùy hỷ,
nghĩa là vui theo với việc thiện người khác làm được, thì chúng ta cũng
được phước báu như người đó. Tại sao vậy?
Bởi vì, trong kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Khi
có người mồi ngọn đuốc được sáng rồi, nếu người khác đến mồi từ ngọn
đuốc đó, thì ngọn đuốc sau cũng sáng như vậy, trong khi ngọn đuốc trước
không giảm sáng chút nào".
Cũng
vậy, khi có người phát tâm làm việc phước thiện, thì tâm từ bi của
người đó tăng trưởng, tâm tham lam bỏn sẻn của họ giảm bớt. Họ được phước báu, giảm bớt phiền não, lần lần tâm tánh của họ được thanh tịnh, cuộc sống của họ được an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Nếu
chúng ta phát tâm tùy hỷ, một trong tứ vô lượng tâm, vui theo với việc
thiện của người khác, thì chúng ta giảm được tâm đố kỵ, ganh tị, tâm từ
bi của chúng ta cũng tăng trưởng, và khi đủ duyên, chúng ta cũng sẽ làm
việc thiện đó vậy.
Còn đối với tâm xả, đó là chỗ hết sức cao siêu của người tu hạnh giải thoát. Muốn
được giải thoát, muốn được tự tại, nhẹ nhàng bước ra khỏi vòng trầm
luân, sanh tử luân hồi, nhứt định chúng ta phải tu hạnh xả. Nếu
lục căn của chúng ta tiếp xúc với lục trần, đừng dính đừng mắc, cái gì
cũng xả, cái gì cũng bỏ qua hết, thì chúng ta không còn gì để đem vào
chứa trong kho tàng tâm thức của chúng ta hết. Lúc đó,
chúng ta sống trong tự tại nhẹ nhàng, thảnh thơi thơ thới, không lo âu
phiền muộn, không ưu tư lo lắng, không thấp thỏm phập phồng.
Do
tâm từ bi, chúng ta làm được biết bao nhiêu việc phước thiện không mệt
mỏi, và do tâm hỷ xả chúng ta vui vẻ bỏ qua hết, quên hết tất cả những
việc đã làm, quên hết tất cả những việc bất như ý. Trong tâm thức của chúng ta không có bốn tướng "ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả". Tức
là chúng ta không thấy có mình là người làm phước, có kẻ khác là người
nhận lãnh và không nhớ, không để tâm đến những việc tốt chúng ta đã làm,
đã cho, đã giúp đỡ bao nhiêu người khác. Như vậy chúng ta
sẽ không cầu được báo đáp, không kể lể, không đòi hỏi bất cứ ai nhớ ơn
chúng ta, thì chúng ta không có phiền não chút nào cả, nếu gặp phải
những người không biết chuyện ơn nghĩa. Sách có câu: "Thi ân bất cầu báo", chính là nghĩa đó vậy.
Chúng ta sở dĩ bị sanh tử luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, bởi vì chúng ta dính mắc quá nhiều. Chúng
ta chẳng những không biết buông xả, trái lại, còn chứa nhóm quá nhiều
thứ trong tàng thức, trong kho tàng tâm thức của chúng ta. Hôm
nay, nhân dịp năm cũ sắp hết, để chuẩn bị chào đón năm mới sắp sang,
theo thông lệ, chúng ta thường lo sửa soạn trang hoàng nhà cửa, và đồng
thời mở cửa nhà kho, dọn dẹp cho sạch sẽ, sắp xếp cho ngăn nắp. Cũng
vậy, để có được một mùa "XUÂN DI LẶC", mang ý nghĩa "Xuân Hoan Hỷ",
"Xuân Hy Vọng", hay "Xuân Hạnh Phúc", chúng ta không thể quên việc chăm
sóc, dọn dẹp, sửa sang cho thực sạch cái "kho tàng tâm thức" của chúng
ta.
Lục
căn của chúng ta cũng như các bộ phận của cái máy quay phim, hằng ngày
thu nhận không biết bao nhiêu là hình sắc, âm thinh, rồi đem chứa vào
trong kho tàng tâm thức. Thỉnh thoảng hay lâu lâu, thậm
chí đến mấy chục năm sau, đến lúc tuổi già, mang ra chiếu lại, để cười
chơi hoặc để tức giận, như thể chuyện mới xảy ra ngày hôm qua còn nóng
hổi vậy. Mặc dù những diễn viên trong đó đã đi vào quá khứ từ lâu! Họ đã quên hết mọi chuyện, chỉ có chúng ta là còn nhớ quá kỹ, để lãnh đủ phiền não khổ đau. Nếu
buông xả được, xóa được những cuốn băng trong kho tàng tâm thức, chúng
ta sẽ trở nên con người vui tươi dễ chịu, lúc nào cũng hoan hỷ vui vẻ
như đức Di Lặc vậy, nhứt thiết chúng sanh sẽ hoan hỷ kiến, không nghi.
Lúc Đức Phật còn tại thế, có một người mang hai chậu bông đến cúng dường, với tâm mong cầu pháp môn tu giải thoát. Khi gặp mặt, Đức Phật bảo buông, ông ta bèn buông tay trái, chậu bông rơi xuống đất. Đức Phật lại bảo buông, ông ta bèn buông tay phải, chậu bông thứ hai rơi xuống đất. Đức Phật lại bảo buông, ông ta bèn thưa: Bạch đức Thế Tôn, hai tay con đã buông hết rồi, đâu còn gì để buông nữa? Đức
Phật dạy: "Như Lai bảo ông buông lần thứ nhứt là bảo ông buông sáu căn,
lần thứ hai là bảo ông buông sáu trần, lần thứ ba là bảo ông buông sáu
thức. Khi căn, trần, thức không còn nhiễm trước, tức thập bát giới không thành lập, thì ông được giải thoát". Lục căn, lục trần và lục thức nói chung là thập bát giới. Thập bát giới không thành lập có nghĩa là: lục căn tiếp xúc với lục trần không sinh ra lục thức! Thực là đơn giản!
Tóm
lại, chúng ta cần lưu ý là đức Thích Ca đã đi tìm đạo, đã tu tập, đã
chứng đạo và đã thành Phật dưới cội cây bồ đề, ngay tại thế giới ta bà
này, từ 26 thế kỷ trước, lịch sử đã ghi lại rõ ràng. Và sau này, đức Di Lặc cũng sẽ hạ sanh ở thế giới ta bà này, để tu hành và sẽ thành Phật dưới cội cây long hoa. Nghĩa là mười phương chư Phật đều thành Phật ở ngay tại thế giới ta bà này, chứ không phải ở thế giới nào khác.
Bởi
vì ở các cõi thiên giới quá sung túc vật chất, chúng sanh ở đó ham vui,
lo hưởng thụ quên tu, còn ở các cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh thì quá
khổ về vật chất lẫn tinh thần, nên cũng không tu được. Chỉ
có ở thế giới ta bà này, con người có đủ thuận cảnh lẫn nghịch cảnh để
tu hành, để thử thách và tiến đến chỗ giải thoát mà thôi. Chúng
ta nên bình tâm xét lại những mộng tưởng về cõi tây phương cực lạc, hay
cõi thiên đường ở kiếp sau, để tích cực tu tâm dưỡng tánh ngay hiện
đời, để khỏi uổng kiếp làm người trong muôn một.
Chúng
ta đã nghiên cứu và thấu hiểu một cách rất rõ ràng phương pháp tu giác
ngộ và giải thoát, hay ít ra cũng đạt được an lạc và hạnh phúc hiện đời. Vậy chúng ta hãy bắt đầu cất bước lên đường làm hành giả kể từ mùa xuân năm nay là vừa. Được
như vậy, chúng ta sống trên cõi đời này sẽ thấy nơi đây chính là cõi an
lành tự tại, là một thế giới đầy tình thương yêu, đầm ấm. Thế
gian này chính là cảnh giới của chư Phật, chư hiền thánh nhơn, chư
thượng thiện nhơn, chứ không còn là cảnh giới của phàm phu tục tử nữa. Kính
chúc quí vị được hưởng một mùa xuân Di Lặc, mùa xuân hy vọng, mùa xuân
an lạc và hạnh phúc, mùa xuân miên viễn của tất cả chúng ta vậy.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com